Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo

BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI

1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.Khái niệm nghèo, đói

1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế

Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân

cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định

nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của

con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác

nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ

phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.

Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ

khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ

rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số

trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”.

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 1

Trang 1

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 2

Trang 2

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 3

Trang 3

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 4

Trang 4

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 5

Trang 5

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 6

Trang 6

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 7

Trang 7

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 8

Trang 8

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 9

Trang 9

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 66 trang viethung 7080
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo

Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
1 
BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI 
1. Một số khái niệm cơ bản 
1.1.Khái niệm nghèo, đói 
1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế 
 Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân 
cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định 
nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của 
con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác 
nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ 
phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. 
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ 
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ 
rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số 
trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”. 
Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ 
chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đó đưa ra khái niệm: nghèo là tình trạng 
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con 
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển 
KTXH và phong tục tập quán của địa phương. 
Ủy ban này cũng đưa ra hai khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối: 
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa 
mãn các nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. 
+ Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức 
trung bình của cộng đồng. 
WB đưa ra quan điểm về nghèo đói như sau: nghèo là một khái niệm đa 
chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất; nghèo không chỉ gồm các chỉ số 
dựa trên thu nhập mà còn gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng, 
sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không 
có quyền lực. Đây chính là cách tiếp cận đa chiều về khái niệm nghèo. Như vậy, 
quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến thu nhập mà cần 
phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh. 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
2 
Như vậy, quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến 
thu nhập mà cần phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh. 
Các khía cạnh của đói nghèo: 
 Về thu nhập và tài sản: 
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức 
thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo 
thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc 
nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường 
rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi 
ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán, 
động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví 
dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những 
người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người 
như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn 
không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ 
dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng calo cần thiết, tối thiểu cho con người để có 
thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng 
một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm 
sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập... 
cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được. 
Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài 
sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài 
chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động 
cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. 
Bên cạnh đó, do thu nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách 
đầy đủ nhu cầu về lương thực thực phẩm. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao 
động nặng nề đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo 
được các kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản. 
Tài sản tự nhiên như đất đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không 
có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được. 
Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất 
ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
3 
lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện 
sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ. 
Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột 
nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm sức khoẻ 
cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên 
người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu 
nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là 
thiếu hụt tài sản tài chính. 
Về tài sản xã hội, người nghèo cũng bị hạn chế do chính hoàn cảnh của họ 
tạo nên. Kinh tế khó khăn, lo lắng đến từng bữa ăn hàng ngày khiên cho người 
nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng cũng như điều kiện để chăm chút 
đến các mối quan hệ xã hội của mình. Mặt khác, sự bó hẹp về kinh tế cũng khiến 
cho họ ít tham gia vào các tổ chức, nhóm nào do đó người nghèo dần bị cô lập và 
do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn. 
 Y tế - giáo dục: 
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như ốm 
đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn uống 
không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng có 
điều ... hông có tiếng nói và quyền lực đem lại. 
Nhiều người nghèo nói họ chẳng được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi lao 
động thì mới được gọi tới. Kể cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng đồng 
thì họ cũng không thể quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan đến 
lợi ích của chính họ. 
2.2.3. Nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội 
Do người nghèo thiếu thốn đủ mọi thứ, thiếu tài sản, thiếu điều kiện để thỏa 
mãn nhu cầu của bản thân, thiếu kỹ năng xã hội nên người nghèo cũng dễ sinh ra 
các thói hư, tật xấu, mắc vào các tệ nạn xã hội. Theo nhiều thống kê, nhiều thanh 
thiếu niên vi phạm pháp luật, mắc vào các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút là 
con em trong các hộ nghèo. Những thanh niên này thường bỏ học sớm, chơi bời lêu 
lổng hoặc phải tham gia lao động sớm. 
Phân hóa giàu nghèo góp phần tạo sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống. 
Sự phát triển của lối sống tiêu dùng xa hoa, lãng phí trong bộ phận dân cư khá giả 
có ảnh hưởng xấu tới các nhóm dân cư khác. Đặc biệt một số bộ phận gia đình mới 
phất lên ( nhờ gặp may, hoặc do kế thừa...) sử dụng tiền theo lối sống buông thả, 
bất chấp các chuẩn mực giá trị, đạo đức, hoặc không quan tâm đến con cái, để 
chúng hư hỏng với cuộc sống xa đoạ, đồi truỵ mà không biết. Đây là một trong 
những nguồn gốc của tệ nạn ma tuý xã hội mại dâm...và tình trạng tội phạm gia 
tăng như hiện nay. Và chính sự tiêu xài hoang phí này cũng làm ảnh hưởng tới 
những người nghèo, hoặc những ngưòi thuộc tầng lớp trung lưu. Những người 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
61 
nghèo thì họ cảm thấy không còn gì để mất vì vậy họ hành động không như xã hội 
mong đợi là ăn cắp, trung gian trong những con đường buôn lậu, vận chuyển ma 
tuý, bán dâm... nhằm mục đích giàu lên nhanh chóng, còn người khá giả, trung lưu 
dựa trên cơ sở sẵn có của mình (của cải, vốn,mối quan hệ...) moắc ngoặc với nhau 
làm ăn phi pháp. 
2.2.4. Một số vấn đề khác 
 + Vấn đề thứ nhất: Thiếu thốn về vật chất như không có nhà ở, không có 
việc làm thu nhập không ổn định, không đảm bảo nhu cầu tối thiểu của cuộc sống; 
 + Vấn đề thứ hai: Thiếu cơ hội tiếp cận với giáo dục, dạy nghề và học tập 
các kỹ năng sống; 
 + Vấn đề thứ ba: Chưa đủ khả năng đảm đương vai trò xã hội; 
 + Vấn đề thứ tư: Có vấn đề về sức khỏe; 
 + Vấn đề thứ năm: Thiếu kiến thức, kỹ năng quản lý gia đình và nuôi dạy 
con cái; 
 + Vấn đề thứ sáu: Sống trong tình trạng bất hòa, mâu thuẫn, bạo lực; 
 + Vấn đề thứ bảy: Không có sự hỗ trợ từ người thân, họ hàng, các tổ chức 
cộng đồng và hệ thống khác... 
2.3. Một số phản ứng thường thấy ở hộ nghèo, người nghèo 
- Phản ứng tích cực: Cố gắng vươn lên làm chủ cuộc sồng, luôn tìm mọi 
cách để vượt qua hoàn cảnh khó khăn của mình, nhưng do thiếu các nguồn lực nên 
không thể tự vươn lên thoát nghèo. Đối với đối tượng này việc hỗ trợ thoát nghèo 
và vươn lên khá giả là điều không khó 
- Phản ứng tiêu cực: có một bộ phận người nghèo thụ động chịu chấp nhận 
số phận, họ cảm thấy sự tuyệt vọng, họ tự cô lập họ đối với người khác dẫn đến 
tình trạng không muốn tìm việc làm, không muốn đi học, không muốn giao tiếp, 
không muốn hợp tác... Họ tìm cách thích nghi hoàn cảnh bằng cách từ từ khép kín, 
từ từ bỏ cuộc, mất ý chí vươn lên, sự thay đổi này thường nằm ở bên trong và 
thường chúng ta khó nhận ra được. Điều này có thể dẫn đến sự căng thẳng, đè nén 
tăng theo năm tháng, kết quả đưa đến rối loạn tâm lý nặng hơn, có những vấn đề 
cảm xúc tâm lý nghiêm trọng hơn. 
3. Ảnh hưởng của nghèo đói đến gia đình 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
62 
3.1. Ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình 
Nghèo đói ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống gia đình. Nghèo đói làm cho 
các nhu cầu thiết yếu của gia đình như: nhu cầu về ăn, mặc, ở không được đảm bảo. 
Hầu hết các gia đình nghèo đều không đủ lương thực, không đủ lượng calo hàng 
ngày; cái mặc không đủ, thiếu quần áo ấm trong các mùa đông giá lạnh; nhà cửa 
tạm bợ, thậm chí dột nát, không có khả năng che nắng, che mưa, che gió bão. Các 
nhu cầu cần thiết khác như chăm sóc y tế không được chu đáo, giáo dục bị đứt 
quãng thậm chí phải nghỉ học sớm; nhu cầu đi lại, văn hóa giao tiếp rất hạn hẹp. 
Do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến người nghèo gần như “nghèo tất 
cả”, từ vật chất, tiền bạc đến vốn hiểu biết xã hội nên người nghèo trong các gia 
đình luôn có nguy cơ cao gặp các rủi ro. Do vốn kinh tế, vốn xã hội hạn chế nên 
người nghèo khó có khả năng quản lý rủi ro. Họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc 
chống đỡ và giải quyết và khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra. Chính vì vậy, nhóm 
gia đình người nghèo được liệt vào nhóm hưởng chính sách TGXH trong việc cứu 
đói và ưu tiên tiếp cận các DVXH cơ bản. 
3.2. Ảnh hưởng đến phụ nữ trong gia đình 
Trong các hộ gia đình nghèo phụ nữ, trẻ em, người già lại là những người 
thiệt thòi nhất , đặc biệt hộ nghèo thường rơi vào những gia đình là đối tượng quan 
tâm của xã hội (gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với nước...) thì vấn đề 
này càng trở nên phức tạp hơn. Theo tạp chí Dự án nghèo đói toàn cầu (The Global 
Poverty Project), phụ nữ làm việc 2/3 thời gian trên thế giới, sản xuất một nửa số 
lương thực của thế giới, nhưng chỉ chiếm 10% thu nhập và sở hữu ít hơn 1% tài sản 
của thế giới. Trung bình, lương của phụ nữ chỉ bằng một nửa lương của nam giới. 
Phần đông những gia đình đơn thân có phụ nữ là chủ nghèo khổ và chịu nhiều thiệt 
thòi hơn. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho biết, cuộc khủng hoảng tài chính - 
kinh tế làm tăng số phụ nữ thất nghiệp. Lúc ban đầu, cuộc khủng hoảng ảnh hưởng 
đến việc làm trong các lĩnh vực mà nam giới thường chiếm ưu thế. Tuy nhiên, thất 
nghiệp giờ đây đã lan rộng. Khi niềm tin và sức mua của người tiêu dùng giảm sút, 
nhiều công việc thường do phụ nữ đảm nhiệm như tiếp viên, nhân viên bán hàng,... 
cũng giảm theo. ILO đặc biệt lo ngại rằng, phụ nữ ở các nước đang phát triển, làm 
nghề nông hay người giúp việc nhà rất khó có thu nhập và dễ bị tổn thương trong 
bối cảnh kinh tế hiện nay. 
Không có tiếng nói và quyền lực còn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị 
đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ không có quyền 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
63 
quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của họ. Nghèo đói 
cùng cực chính là thủ phạm dẫn tới các vụ bạo lực và phân biệt đối xử, những vi 
phạm về quyền con người, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em sống trong nghèo đói. 
Nó phá hủy cuộc sống và tinh thần của nhiều phụ nữ và là thủ phạm cướp đi mạng 
sống của nhiều trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành hơn bất kỳ một cuộc 
chiến tranh nào. Họ phải chịu các điều kiện làm việc nguy hiểm và sống trong môi 
trường sống bấp bênh, xuống cấp và thậm chí nguy hiểm đối với chính tính mạng 
của mình. Hàng triệu phụ nữ sống trong nghèo đói, cuộc sống của họ là những 
chuỗi ngày nhọc nhằn, buồn khổ vì vật lộn với chén cơm manh áo. Họ bị đối xử bất 
công, không được đi học, chăm sóc sức khoẻ, sinh con an toàn và có việc làm với 
thu nhập cao. 
Trong các hộ nghèo, số giờ công lao động hưởng lương của nam giới và phụ 
nữ là tưng đương nhau. Tuy nhiên, thời gian phụ nữ dành cho công việc nhà thì hơn 
gấp đôi so với nam giới, mà đây là những công việc không được thù lao. Như vậy, 
phụ nữ có rất ít hoặc không có thời gian để tham gia vào các hoạt động vui chơi 
giải trí, văn hoá, xã hội và tiếp tục nâng cao trình độ học vấn. Phụ nữ trưởng thành, 
đặc biệt là phụ nữ ở các vùng nông thôn, các gia đình nghèo và các dân tộc thiểu 
số, vẫn có nhiều khả năng bị yếu sức khoẻ kinh niên hơn so với nam giới. 
Một vấn đề hiện đang được nhiều người chú ý là làm thế nào để cải thiện cơ 
hội kinh tế cho phụ nữ. Việc làm chất lượng thấp là thách thức đối với thị trường 
lao động cho phụ nữ. Một tỷ lệ lớn phụ nữ trong các gia đình nghèo đang phải làm 
những công việc nặng nhọc, năng suất thấp, dễ bị tổn thương với mức lương thấp 
trong khu vực phi chính thức. Thêm vào đó, tỷ lệ thất nghiệp của nữ thanh niên còn 
cao và phụ nữ vẫn chủ yếu bị coi là lực lượng lao động phụ trợ hay người mang lại 
thu nhập thứ yếu, sau nam giới. WB (WB) cho rằng, phụ nữ có ảnh hưởng rất quan 
trọng đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, vì thế tập trung hơn đối với sự phát 
triển của phụ nữ và trẻ em gái là phương pháp hiệu quả nhất để chống lại đói nghèo 
toàn cầu và chủ nghĩa cực đoan. Đó là lý do tại sao viện trợ nước ngoài ngày càng 
hướng đến phụ nữ. Thế giới đang thức tỉnh, bởi họ nhận ra một sự thật rằng, nếu 
giảm được sự nghèo đói của phụ nữ và trẻ em gái thì sẽ giảm được nghèo đói cho 
toàn xã hội. 
Để tạo cơ hội bình đẳng việc làm cho phụ nữ, cần đề xuất những chính sách, 
bao gồm: hỗ trợ cho nữ doanh nhân, hỗ trợ phụ nữ làm nông nghiệp tăng năng suất 
lao động, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào các khu vực phi chính thức; thúc đẩy tiếp 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
64 
cận bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo, an sinh xã hội; bảo đảm tính đại diện 
và tham gia quyết định; tuân thủ hướng tiếp cận dựa trên quyền. 
3.3. Ảnh hưởng đến trẻ em trong gia đình 
Đồng hành với sự nghèo đói của phụ nữ là con cái của họ. 
Nhiều trẻ em dưới 6 tuổi phải sống trong cảnh bần hàn. Điều quan trọng ở đây cần 
được nhận thức sâu sắc là, số trẻ em dưới 6 tuổi phải chịu cảnh nghèo sẽ chịu 
những thiệt thòi về giáo dục, y tế, và điều này sẽ ảnh hưởng đến suốt cuộc đời của 
các em sau này. 
Bên cạnh những thành tích rất ấn tượng về kinh tế xã hội, Việt Nam vẫn phải 
đối mặt với một thực tế là khoảng cách giàu nghèo, giữa người Kinh và các dân tộc 
thiểu số, giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Hỗ trợ cần đến được với các 
trẻ em trai và gái hiện đang sống trong những khu vực quanh năm đói nghèo triền 
miên. Tình trạng nghèo ở trẻ em Việt Nam hiện nay trên thực tế còn nhiều hơn các 
số liệu thống kê về đói nghèo từ trước tới nay. Các số liệu trước đây không phản 
ánh được các nhu cầu cơ bản của trẻ em đã được đáp ứng vì nhu cầu của trẻ em 
không giống như nhu cầu của người lớn. Với sự hỗ trợ của UNICEF, Việt Nam gần 
đây đã xây dựng một cách tiếp cận về nghèo dành riêng cho trẻ em. Trong các hộ 
gia đình nghèo, các nhu cầu cơ bản của trẻ như giáo dục, y tế, nơi ở, bình đẳng về 
xã hội và BTXH không được coi trọng. Có thể thấy khoảng 1/3 số trẻ em dưới 16 
tuổi, tương đương với con số bảy triệu trẻ em có thể bị coi là nghèo , 1/3 số trẻ em 
dưới năm tuổi bị còi cọc do suy dinh dưỡng kéo dài. Cứ ba trẻ em dưới 5 tuổi thì có 
hơn một em chưa được tiêm chủng đầy đủ. Gần một nửa tổng số trẻ em không được 
tiếp cận với thiết bị vệ sinh hợp vệ sinh ngay tại gia đình và 2/3 trẻ em không có 
được một quyển truyện tranh hay một quyển sách dành cho thiếu nhi để đọc. 
Nước và điều kiện vệ sinh môi trường không an toàn là nguyên nhân gây ra 
50% trong hầu hết các ca bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam trong khi các số liệu năm 
2008 cho thấy khoảng 20% trẻ em bị thiếu cân và suy dinh dưỡng. Tai nạn thương 
tích trẻ em là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng tử vong ở trẻ từ 1 tuổi 
trở lên, phần lớn là do đuối nước, tai nạn giao thông, ngộ độc và bị thương do vật 
sắc nhọn gây ra. Mặc dù nhìn chung chỉ chiếm một tỷ lệ tương đối thấp, đại dịch 
HIV ở trẻ em không còn giới hạn ở các nhóm có nguy cơ cao như trẻ mại dâm và 
trẻ có sử dụng ma túy. Đến năm 2012, số người nhiễm HIV ước tính tăng lên 
khoảng 280.000 người trong đó có khoảng 5.500 trẻ em (xấp xỉ 2%). 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
65 
Trong khi đó, các gia đình phải chịu áp lực hơn bao giờ hết để có đủ thu 
nhập trang trải các phí sử dụng DVXH như y tế và giáo dục. Điều này đồng thời 
góp phần làm tăng tình trạng chênh lệch xã hội. Với tỷ lệ di cư và tình trạng gia 
đình tan vỡ tăng lên, trẻ em Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cao hơn bị lạm 
dụng, bóc lột, bạo lực và xao nhãng. 
Tình trạng chênh lệch về giáo dục vẫn còn tồn tại với khoảng 75% trẻ em 
thành phố được học mẫu giáo trong khi chỉ có 51% trẻ em nông thôn được học mẫu 
giáo. 
Ở Việt Nam, dân tộc thiểu số thường sinh sống chủ yếu ở các khu vực nông 
thôn miền núi và là những người ít được hưởng lợi nhất từ tăng trưởng kinh tế của 
đất nước. Tỷ lệ nghèo ở các cộng đồng dân tộc thiểu số năm 2008 dù đã giảm 
xuống vẫn ở mức 49,8% trong khi tỷ lệ nghèo ở người Kinh chiếm đa số chỉ có 
8,5%. Thực tế là trẻ em là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 60% tổng số trẻ em 
nghèo ở Việt Nam. Do gặp phải khó khăn về ngôn ngữ và đường đi học xa và khó 
khăn nên chỉ có hơn 60% trẻ em dân tộc thiểu số hoàn thành tiểu học trong khi đó 
tỷ lệ này ở trẻ em người Kinh là 86%. Tỷ lệ trẻ em đi học trung học ở dân tộc thiểu 
số là 65% và ở trẻ em người Kinh là gần 82%. Ngoài ra, do chi phí giáo dục cao 
nên gần 1/3 số hộ gia đình dân tộc thiểu số có một con bỏ học trước khi học hết 
một lớp trong khi tỷ lệ này ở các gia đình người Kinh là 16%. 
Tỷ lệ tử vong ở mẹ ở các khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh như cao hơn rất 
nhiều. Tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới một tuổi (gọi tắt là IMR) ở các hộ gia đình nghèo 
vẫn ở mức cao. Nguy cơ trẻ em nghèo dưới 5 tuổi tử vong trước khi tròn 5 tuổi cao 
gấp hai lần so với trẻ em ở các gia đình khá giả. 
CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI 2 
1. Nêu những đặc điểm của người nghèo? 
2. Lấy 1 ví dụ cụ thể, hãy phân tích đặc điểm tâm lý của người nghèo? 
3. Người nghèo có những đặc điểm cơ bản gì về kinh tế và chăm sóc sức khỏe? 
4. Phân tích đặc điểm của hộ nghèo? 
5. Những người nghèo, hộ nghèo có những nhu cầu cơ bản nào? Phân tích 1 nhu 
cầu cơ bản của Hộ nghèo? 
6. Lấy 1 ví dụ cụ thể về hộ nghèo hoặc người nghèo, phân tích những vấn đề mà 
hộ nghèo ( hoặc người nghèo) đang gặp phải? 
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 
66 
7. Nghèo đói có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của phụ nữ và trẻ em trong 
gia đình? 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_cong_tac_xa_hoi_voi_nguoi_ngheo.pdf