Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa là một phương tiện nghệ thuật độc đáo để nhà văn đối thoại với các mệnh đề

chính trong truyền thống văn hóa Trung Hoa. Thông qua việc phân tích các dạng thức: nhân vật châm biếm, nhân vật hài hước và

nhân vật u-mua đen, bài viết tập trung làm sáng tỏ tinh thần phản tỉnh của nhà văn đối với con người và hiện thực. Từ đó, bài viết

đi đến khẳng định những đóng góp mới của Dư Hoa trong tư tưởng và nghệ thuật

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 1

Trang 1

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 2

Trang 2

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 3

Trang 3

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 4

Trang 4

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 5

Trang 5

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 6

Trang 6

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 7

Trang 7

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 8

Trang 8

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 9

Trang 9

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc trang 10

Trang 10

pdf 10 trang viethung 5900
Bạn đang xem tài liệu "Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc

Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa và cuộc đối thoại với truyền thống văn hóa Trung Quốc
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.950 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 147-156 | 147 
Cite this article as: Nguyen, T. H. T. (2021). Comic 
characters in Yu Hua’s novels and the conversation with 
Chinese traditional culture. UED Journal of Social Sciences, 
Humanities and Education, 11(1), 147-156. 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.950 
NHÂN VẬT HOẠT KÊ TRONG TIỂU THUYẾT DƯ HOA 
VÀ CUỘC ĐỐI THOẠI VỚI TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA TRUNG QUỐC 
Nguyễn Thị Hoài Thu 
Trường Đại học Vinh, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Hoài Thu - Email: hoaithukv@gmail.com 
Ngày nhận bài: 10-5-2021; ngày nhận bài sửa: 12-6-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 
Tóm tắt: Nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa là một phương tiện nghệ thuật độc đáo để nhà văn đối thoại với các mệnh đề 
chính trong truyền thống văn hóa Trung Hoa. Thông qua việc phân tích các dạng thức: nhân vật châm biếm, nhân vật hài hước và 
nhân vật u-mua đen, bài viết tập trung làm sáng tỏ tinh thần phản tỉnh của nhà văn đối với con người và hiện thực. Từ đó, bài viết 
đi đến khẳng định những đóng góp mới của Dư Hoa trong tư tưởng và nghệ thuật. 
Từ khóa: Dư Hoa; tiểu thuyết, nhân vật; hoạt kê; cái hài; văn học Trung Quốc hiện đại. 
1. Mở đầu 
Dư Hoa là nhà văn không chỉ được các nhà phê 
bình văn học hàng đầu Trung Quốc coi là một trong 
những nhà văn có thực lực nhất Trung Quốc1 (Moyan 
Ranks First in the List of Chinese Best Writers, 2018) 
mà còn được thế giới đánh giá cao khi khẳng định đây 
là “một nhân vật có thể cho thấy con người của một thời 
đại, là đại diện cho linh hồn dân tộc, Dư Hoa là nhà văn 
Trung Quốc nổi tiếng thế giới” (Sabina, 2003). Là nhà 
văn có bút lực mạnh mẽ, qua gần bốn thập niên sáng 
tác, Dư Hoa đã để lại dấu ấn sâu đậm trên bức tranh đa 
màu sắc của văn học Trung Quốc đương đại. Các tác 
phẩm của ông không chỉ phản chiếu sinh động những 
biến chuyển trong đời sống tư tưởng của thời đại mà 
còn cho thấy diện mạo của văn học Trung Quốc từ khi 
đất nước này tiến hành Cải cách mở cửa. Từ những năm 
90 của thế kỉ trước, những bộ tiểu thuyết của Dư Hoa 
lần lượt được xuất bản2 cho thấy sự chuyển hướng sáng 
tạo, tìm tòi lối đi riêng của nhà văn. Trong đó, kiểu nhân 
vật hoạt kê thể hiện một kiểu quan hệ mới, một hình 
thức nhận thức và đánh giá mới của ông đối với hiện 
thực. Trong cái nhìn có phần ôn hòa, bớt căng thẳng 
hơn so với thời kì đầu, tiếng cười được Dư Hoa sử dụng 
ngày càng phổ biến để khai phá những bi hài của số 
phận, nhân sinh. Nhân vật vì thế bắt đầu cởi mở hơn, 
giải tỏa những căng thẳng trước đây. Đó là lí do khiến 
kiểu nhân vật hoạt kê ngày càng chiếm vị trí quan trọng 
trong tiểu thuyết của Dư Hoa. Là một nhà văn luôn kiên 
trì tính hiện đại trong tư tưởng và bút pháp, luôn mang ý 
thức tái cấu trúc nền văn hóa, Dư Hoa thông qua kiểu 
nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết đã đối thoại, thể hiện 
sự bất tín với những mệnh đề văn hóa trong truyền 
thống Trung Hoa. 
1Năm 2007, mười nhà phê bình văn học hàng đầu Trung 
Quốc gồm: Chu Đại Khả, Tạ Hữu Thuận, Bạch Hoa, Trương 
Hoằng tham gia bình chọn các nhà văn Trung Quốc đương 
đại có thực lực nhất. Kết quả Mạc Ngôn đạt 9 phiếu giữ ngôi 
đầu bảng, Dư Hoa cùng với Sử Thiết Sinh, A Lai, Vương An 
Ức đạt 6 phiếu đề cử cùng xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng. 
2Gào thét và mưa bụi (về sau đổi tên thành Gào thét 
trong mưa bụi) năm 1991; Sống năm 1992; Chuyện Hứa Tam 
Quan bán máu, năm 1995; Huynh đệ (tập 1) năm 2005; Huynh 
đệ (tập 2) năm 2006; tất cả đều được đăng trên phụ san của tạp 
chí Thu hoạch. Tiểu thuyết Ngày thứ bảy (第七天) năm 2013, 
Nxb Tân Tinh. 
Nguyễn Thị Hoài Thu 
148 
2. Nội dung 
2.1. “Hoạt kê” (滑稽) là thuật ngữ có nguồn gốc từ 
Hán ngữ, có lịch sử tồn tại khá lâu. Nó xuất hiện sớm 
nhất trong Trang tử, thiên Từ vô quỷ. Ở đây, “Hoạt Kê” 
là tên của một người đi theo hầu hạ hoàng đế. Việc 
người này được gọi tên là “Hoạt Kê” có vì đặc điểm nào 
đó của anh ta hay không, không có căn cứ để làm rõ. 
Trong Sở từ (Khuất Nguyên), thiên Bốc cư, hai chữ 
“hoạt kê” có xuất hiện với ý nghĩa chỉ sự mềm dẻo, linh 
hoạt của ngôn ngữ. Đến thời Hán, từ “hoạt kê” đã có nội 
hàm ý nghĩa mới. Sau khi khảo sát cách dùng từ “hoạt 
kê” trong Hoạt kê liệt truyện của Sử kí (Tư Mã Thiên), 
nhà nghiên cứu Hác Ngọc Bình đã rút ra một số kết luận 
đáng chú ý. Thứ nhất, “hoạt kê” vốn ban đầu có nghĩa là 
một dụng cụ đựng rượu, có cái bụng to như cái nồi. Từ 
đó, “hoạt kê” trở thành ẩn dụ cho những người giỏi ăn 
nói, giỏi sử dụng ngôn từ biện luận, xuất khẩu thành 
chương, lời lẽ giàu ẩn ý, từ ngữ không bao giờ cạn. Thứ 
hai, có vẻ như các biểu hiện: nói lòng vòng, đùa dí dỏm, 
pha trò cũng là những biểu hiện của hoạt kê. Từ đó, tác 
giả đề xuất cách hiểu về “hoạt kê” như sau: “Hoạt kê 
chính là người có tài ứng đối, là một hình thức nghệ 
thuật, một loại ngôn ngữ với tri thức phong phú uyên 
bác, tư tưởng mẫn tiệp, ví dụ xác đáng, hình thức sinh 
động, biểu diễn chân thực, biểu đạt một đạo lý sâu sắc 
bằng cách thoải mái và nhẹ nhàng của hài hước, hoặc 
chế giễu hoặc khuyên can, khiến mọi người trong khi 
ôm bụng cười lớn mà cảm ngộ, thức tỉnh sâu sắc” (Hao, 
1983, 101-102). 
Trong Hán ngữ hiện đại, nghĩa thứ nhất của “hoạt 
kê” là tính từ nhằm chỉ tính chất của những từ ngữ, hành 
động hoặc tình huống nào đó khiến cho người khác 
buồn cười. Khi chế giễu và chọc cười thì các mâu thuẫn 
bên trong hiện tượng được bộc lộ, vì thế đạt đến hiệu 
quả phê bình và châm biếm. Nghĩa thứ hai, “hoạt kê” 
dùng để gọi tên một loại hình kể chuyện cười rất sinh 
động, thú vị, lưu hành phổ biến trong vùng Ngô Việt 
(Thượng Hải, Hàng Châu, Tô Châu) (What is humor? 
n.d.). 
Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, “hoạt kê” 
còn có một âm đọc khác là "cốt kê", có nghĩa là "nói 
khôi hài" (Thiều, 1999, 320). Trong trường hợp này, 
“h ...  đã tinh khôn không lao vào cướp bánh bao 
mà cướp giày cao su của đồng đội, để vừa không bị 
dẫm đạp sứt đầu mẻ trán, vừa có thể thay củi nấu cơm! 
Cả hai nhân vật này đều phải đối diện với hoàn cảnh hết 
sức phi lý, đó là biết đi vào chỗ chết nhưng chẳng vì bất 
cứ một mục đích nào cao cả mà chỉ vì họ buộc phải thế. 
Họ không được thúc giục bởi lý tưởng, bởi khát vọng 
thể hiện mình hay cao hơn là lòng căm thù, lòng yêu 
nước Họ chỉ ý thức được tình thế của mình là “chẳng 
ai chạy thoát”. Thậm chí, Xuân Sinh tham gia quân đội 
mà chưa bao giờ đối đầu với quân giặc, kéo theo cỗ 
pháo chưa hề bắn một phát, không biết nơi mình đang bị 
bao vây là đâu, và cuối cùng thì anh ta chẳng hề quan 
tâm đến chiến tranh mà chỉ quan tâm đến cái bụng đói 
của chính mình. Cái phi lý đến nực cười đó khiến các 
nhân vật chỉ còn cách cười chua chát cùng với nó. 
Theo tiến trình thời gian, các nhân vật của Dư Hoa 
đã ngày càng cứng cỏi hơn, phát huy sức mạnh trào tiếu 
của dân gian để kháng cự với cái phi lý, bất công của 
cuộc đời. Hứa Tam Quan (Chuyện Hứa Tam Quan bán 
máu) không còn rướn chút sức tàn lực kiệt để cười với 
đời hay thu mình cô độc trong sự vô nghĩa mà đã lần 
lượt vượt qua các cửa ải khó khăn trong cuộc sống bằng 
những cách thức hài hước, phi thường nhất. Trong nạn 
đói, cả gia đình phải húp cháo ngô loãng trong nhiều 
ngày, Hứa Tam Quan đã “dùng miệng” nấu cho mỗi 
thành viên một món ăn ngon và họ thưởng thức chúng 
“bằng tai” một cách thỏa mãn. Người đọc bật cười bởi 
sự tranh giành, tị nạnh của những đứa trẻ cũng như sự tỉ 
mỉ hay cằn nhằn của Hứa Tam Quan trước những món 
ăn tưởng tượng. Nhưng đằng sau tiếng cười đó ta thấy 
sự bất lực trước hoàn cảnh của gia đình họ Hứa. Không 
chỉ có vậy, Hứa Tam Quan còn phải đối diện với một vụ 
án phi lý mà ở đó, bất cứ ai cũng có thể là quan tòa, bất 
cứ lời nói, hành động nào của bản thân cũng trở thành 
bằng chứng buộc tội, và bất cứ tội nhân nào cũng không 
thể tự bào chữa, cũng không thể không nhận tội dù biết 
tội lỗi đó không phải là của mình. Trong Đại cách mạng 
văn hóa, Hứa Tam Quan đã chứng kiến biết bao người 
bỗng nhiên “treo cổ trên cây, có người bị nhốt trong 
chuồng bò, có người bị đánh chết tươi” giữa thời buổi 
“không có tòa án, cảnh sát cũng không có, thời buổi này 
nhiều nhất là tội danh” (Yu, 2006, 268-269). Vậy nên 
khi vợ là Hứa Ngọc Lan bị đấu tố, Hứa Tam Quan đã 
không kháng cự dù biết tội danh “làm đĩ” của vợ hết sức 
vô lý. Đó là nguyên nhân đưa đến màn phê đấu bi hài 
của gia đình đối với Hứa Ngọc Lan. Trong buổi phê đấu 
kì lạ này, trước phạm nhân rất mực thực thà Hứa Ngọc 
Lan (đã khai tường tận, chi tiết tội lỗi “làm đĩ” của 
mình), trước các quần chúng cách mạng hết sức ngây 
thơ là ba đứa con trai (lúc nghe lời khai thì mắt cứ trợn 
tròn, lúc cần định tội lại há nửa mồm, lắp bắp không nói 
được gì), Hứa Tam Quan vào vai quan tòa nghiêm khắc 
định tội Hứa Ngọc Lan. Thực chất, đằng sau vẻ nghiêm 
khắc đó của Hứa Tam Quan là nhằm mục đích vừa tuân 
thủ cái luật lệ của xã hội không luật, vừa nhằm để cãi tội 
cho vợ, để những đứa con hiểu đúng về mẹ của chúng. 
Cái nghiêm khắc giả tạo của Hứa Tam Quan kết hợp với 
cái nghiêm túc thực thà của các thành viên còn lại trong 
gia đình càng tô đậm tính chất hoang đường, nực cười 
của buổi xử án. Cứ thế, Hứa Tam Quan cùng gia đình 
trải qua những tai ương, phi lý của cuộc sống. Thế 
nhưng, một con người như Hứa Tam Quan, chưa bao 
giờ bất bình với cuộc sống, chỉ biết im lặng nhận chịu, 
dựa vào dòng chảy của cuộc đời mà trôi, cuối cùng lại 
rút ra một “chân lý”: “lông dái mọc muộn hơn lông 
mày, nhưng lại dài hơn lông mày” (Yu, 2006, 414). Đó 
là sự hậm hực trước bất công nhưng cũng là tiếng cười 
chua chát của sự bất lực trước cái lẽ không công bằng. 
So với các nhân vật khác, Hứa Tam Quan đã có sự chủ 
động hơn trước cuộc sống. Nhưng nói cho cùng, đó 
Nguyễn Thị Hoài Thu 
154 
không phải là sự chủ động đấu tranh mà là sự chủ động 
chấp nhận - chấp nhận bản chất phi lý của cuộc đời. 
Nếu những câu chuyện giản dị trong Chuyện Hứa Tam 
Quan bán máu thể hiện sự “biến hóa biện chứng giữa 
nhiều và ít, nặng và nhẹ, đơn giản và phức tạp” (Zhang, 
2007, 131) thì tính chất u-mua đen của nhân vật là điểm 
nối của các phạm trù đối lập đó. 
Rõ ràng, đến Hứa Tam Quan, tiếng cười trở thành 
nguồn sức mạnh tinh thần to lớn không chỉ giúp nhân 
vật đối mặt mà còn vượt qua khổ ải trong cuộc sống. 
Nó trở thành chất bôi trơn mà nhân vật đã khôn ngoan 
tự tra vào những trắc trở trong guồng quay của cuộc 
đời mình. Cũng có thể coi đây là cách kháng cự khả dĩ 
để con người tự bảo vệ chính mình trước gánh nặng 
của kiếp nhân sinh. Đến đây, ta bỗng liên tưởng đến 
lời tâm sự đầy triết lý của nhân vật Ramon trong Lễ 
hội của vô nghĩa (Milan Kundera): “Từ lâu chúng ta 
đều hiểu không còn có thể lật đổ thế giới này, cũng 
chẳng nhào nặn nó lại được, chẳng ngăn được cuộc 
chạy đua về phía trước khốn khổ của nó. Chỉ có mỗi 
một cách kháng cự khả dĩ: đừng có xem nó là nghiêm 
túc” (Milan, 2015, 81). Đừng có xem nó (cuộc đời) là 
nghiêm túc cũng chính là cách mà các nhân vật của 
tiểu thuyết Dư Hoa dùng để chống lại thế giới phi lý. 
Đó chính là lí do khiến các nhân vật của nhà văn này 
dù phải đối mặt và đã vượt qua nhiều kiếp nạn nhưng 
không thể xếp vào kiểu “nhân vật anh hùng” mà phải 
là các “phản anh hùng”. Bởi họ đã chiến đấu mà không 
có bất cứ sự hỗ trợ của lý tưởng cao cả hay mục đích 
cao thượng nào. 
Đối với các nhân vật u-mua đen, cái hài không còn 
khiến cho cái bi trở nên nhẹ nhõm, dễ thở hơn nhờ sắc 
thái nhẹ nhàng của nó. Ngược lại, nó tước đi của nạn 
nhân niềm an ủi cuối cùng về cái cao cả có thể có trong 
tấn bi kịch. “Tạo cho ta ảo tưởng về sự cao quý của con 
người, cái bi đem đến cho ta một niềm an ủi. Cái hài thì 
ác hơn, nó tàn nhẫn phát lộ cho ta cái vô nghĩa của mọi 
thứ” (Milan, 2001, 136). Cái hài mà nhân vật u-mua đen 
của Dư Hoa đưa lại cho thấy sự phi lý đến ghê người 
của cuộc đời. Đúng như nhà nghiên cứu Trương Thanh 
Hoa đã nhận xét về tác phẩm của Dư Hoa: “Đọc tác 
phẩm của ông, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách ông thể 
hiện bi kịch: dùng phương thức hài kịch để viết bi kịch” 
(Zhang, 2007, 130). Cách làm này đã tối đa hóa số phận 
bi kịch của nhân vật khi họ đã hoàn toàn mất đi chỗ dựa 
nương tinh thần trong một thế giới hỗn loạn, không còn 
hệ giá trị chuẩn mực. 
3. Kết luận 
Tính chất hoạt kê ở các nhân vật tiểu thuyết của Dư 
Hoa mang nhiều sắc thái, đặc biệt phối hợp linh hoạt với 
tính chất bi kịch tạo nên sự biến hóa đa dạng, mới mẻ 
trong thế giới nhân vật. Nếu tiếng nói phê phán cất lên 
từ nhân vật châm biếm là sự tiếp nối truyền thống văn 
học trào phúng Trung Quốc khi nhà văn dùng tiếng cười 
để phanh phui tất cả những xấu xí của con người nhằm 
hướng tới những giá trị cao đẹp thì tiếng cười giải 
thiêng những biểu tượng văn hóa của dạng thức nhân 
vật hài hước, tiếng cười chua chát trước cuộc sống phi 
lý của nhân vật u-mua đen là một đóng góp mới của 
ông. Trước hết, trong tiểu thuyết Dư Hoa, tiếng cười đã 
mang đến sức mạnh cho các nhân vật để họ chống chọi 
với bản chất đau khổ của cuộc sống, khiến họ không bị 
những vụn vặt của đời sống thường ngày đè bẹp như các 
nhân vật Ấn Gia Hậu trong Nhân sinh phiền não, Triệu 
Thắng Thiên trong Thái Dương chào đời 
(《太阳出世》) của Trì Lợi, các thành viên của gia 
đình có chín người con trong Phong cảnh của Phương 
Phương, hay như Tiểu Lâm trong Lông gà khắp đất của 
Lưu Chấn Vân Thế nhưng, ở đó, ta còn thấy các nhân 
vật của Dư Hoa không còn tìm cách thay đổi, cải tạo 
hoàn cảnh sống như các nhân vật trong truyện ngắn Lỗ 
Tấn, không còn rên xiết đau đớn hay khát vọng thay đổi 
số phận như các nhân vật của Lư Tân Hoa (Vết thương), 
Trương Hiền Lượng (Một nửa đàn ông là đàn bà) mà 
chỉ tìm cách thích nghi và chấp nhận tính chất phi lý, 
bất công như một thuộc tính của đời sống. Bởi vậy, 
chúng ta cảm nhận được đằng sau việc im lặng nhịn 
chịu của nhân vật là sự đổ vỡ niềm tin đến cực hạn của 
tác giả vào những hứa hẹn về một thời đại mới, là sự bất 
tín đến vô cùng về trật tự và văn minh của xã hội loài 
người. 
Nhân vật hoạt kê của Dư Hoa tuy mang những nét 
nghịch dị, bị phóng đại, hạ bệ nhưng không biến dạng 
hay nhuốm màu sắc huyễn tưởng, kỳ ảo như trong 
sáng tác của F. Kafka, L. Pirandello hay Mạc Ngôn. 
Nhân vật hoạt kê của Dư Hoa vẫn ở trong tấm áo của 
đời thường, bị bao bọc trong cái hằng ngày. Phải 
chăng, xung quanh ta, những hiện tượng quái dị vẫn ẩn 
chìm, lẩn khuất trong đời sống hằng ngày, chỉ có điều 
chúng ta đã không nhận ra. Vì thế khi đối diện với 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 147-156 
 155 
những méo mó, dị dạng trong các bức chân dung do 
Dư Hoa vẽ nên, ta không khỏi giật mình trước một 
hiện thực hỗn độn vừa giống thật vừa quái đản, kì dị. 
Đây cũng là một cách để người đọc hiểu được trạng 
thái nhân thế nực cười mà có thể chúng ta đang phải 
đối diện hằng ngày, hằng giờ mà vì sự quen nhàm của 
nó, ta đã không nhận thấy. Nếu so với truyện ngắn 
thập niên 80, chất nghịch dị trong tiểu thuyết Dư Hoa 
đã giảm bớt đi nhiều. Nhưng trước sau, ông vẫn kiên 
trì tính hiện đại từ trong tư tưởng, cái nhìn. Đó là cái 
nhìn đầy phản tỉnh, khám phá, phát hiện những trái 
khoáy, dị thường bị lãng quên trong cuộc sống của con 
người. Cái nhìn đó đã đánh bật chúng ta khỏi cái nhìn 
quen mòn về hiện thực, giúp ta có những nhận thức 
mới mẻ về con người và cuộc đời. 
Khác với thế giới một màu đen tối trước đây, kiểu 
nhân vật hoạt kê là một bước phát triển mới trong hành 
trình sáng tạo của Dư Hoa. Nó thể hiện một kiểu quan 
hệ mới của nhà văn đối với hiện thực: sự căng thẳng 
giữa nhà văn và hiện thực đã giảm đi đáng kể. Dư 
Hoa vì thế có thể đứng giữa hiện thực để bình tĩnh 
quan sát, chiêm nghiệm và cười với nó. Cũng bởi vậy 
mà nhân vật và những câu chuyện ông kể trở nên gần 
gũi, cái nhìn hiện thực của ông càng trở nên sắc bén. 
Phẩm chất hoạt kê dần trở thành cấu trúc của nhân 
vật, tồn tại như một kiểu tư duy nghệ thuật trong việc 
tạo lập văn bản và là một thái độ thích hợp trong việc 
kiểm soát diễn biến các câu chuyện trong tiểu thuyết 
của Dư Hoa. Đây là một cách giải phóng năng lượng 
sáng tạo giúp nhà văn có những khái quát gần hơn 
với hiện thực và đạt được những thành tựu mới trong 
sáng tạo nghệ thuật. 
Tài liệu tham khảo 
Bakhtin, M. (1992). Theory and poetics of novel (Lý 
luận và thi pháp tiểu thuyết) (V. C. Pham, Trans.). 
Nguyen Du School of Creative Writing. 
Hao, Y. (1983). A Brief Discussion on the Historical 
Role of Funny Figures [简论滑稽人 
物的历史作用]. Journal of Northwest University 
for Nationalities, 2(2), 101-108. 
Lai, N. A. (1999). 150 literary terms (150 thuật ngữ văn 
học). Hanoi National University. 
Le, B. H., Tran, D. S., & Nguyen, K. P. (2007). The 
dictionary of literary terms (Từ điển thuật ngữ văn 
học). Education. 
Lo, T. (2009). Short stories (Truyện ngắn). Literature. 
Milan, K. (2001). Testaments betrayed: An essay in nine 
parts (Tiểu luận: Nghệ thuật tiểu thuyết-Những di 
chúc bị phản bội) (N. Nguyen, Trans.). Culture and 
Information. 
Milan, K. (2015). The festival of insignificance (Lễ hội 
của vô nghĩa) (N. Nguyen, Trans.). Literature. 
Moyan ranks first in the list of Chinese best writers 
(中国作家实力榜,莫言居首位!). (2018). 
https://www.sohu.com/a/230065303_479097 
Nguyen, Q. H. (1975). The new Han-Viet dictionary 
(Hán Việt tân từ điển). Khai tri. 
Nie, H., & Chen, Y. (2010). An initial analysis on the 
creation of the character in Yuhua’s novel Brothers 
(试析余华小说中的人物塑造). Journal of 
Wenshan University, 44(2), 51–54. 
Sabina, K. (2003, November 28). Review of Yu Hua’s 
Chronicle of a Blood Merchant. The Seattle Times. 
Shen, X., & Jiang, Y. (2004). The perspective of the 
children - Discuss the narrative strategy through 
children’s perspective in Yuhua’s novels 
(童心的透视-论余华小说的儿童视角叙事策略). 
Journal of School of Chinese Language and Culture 
Nanjing Normal University, 3(3), 70–74. 
Thieu, C. (1999). The Han-Viet dictionary (Hán Việt tự 
điển). Culture and Information. 
Yan, L. (2014). Readers are critical of Yuhua 
(读者对余华过于苛刻_文化_腾讯网). 
https://cul.qq.com/a/20141020/006670.htm 
Yuhua. (2007). Hypocritical literature (虚伪的作品). In 
Research materials on Yuhua (pp. 47-57). Tianjin 
People’s Publishing House. 
Zhang, Q. (2007). The Subtraction in Literature—
Discussion about Yuhua (文学的减法-论余华). In 
Research materials on Yuhua (pp. 121–136). 
Tianjin People’s Publishing House. 
Yu, H. (2006). Chronicle of a blood merchant (Chuyện 
hứa Tam Quan bán máu) (C. H. Vu, Trans.). 
People's Police. 
Yu, H. (2008). Cries in the drizzle (Gào thét trong mưa 
bụi) (C. H. Vu, Trans.). People's Police. 
Nguyễn Thị Hoài Thu 
156 
Yu, H. (2011). To live (Sống) (C. H. Vu, Trans.). 
Literature. 
Yu, H. (2012). Brothers (Huynh đệ) (C. H. Vu, Trans.). 
People's Police. 
What is humor? (滑稽的意思). (n.d.). Từ điển 
Chazidian. 
https://www.chazidian.com/r_ci_bcd94fd3f6b6cfe
f934b944faf4f9382/ 
COMIC CHARACTERS IN YU HUA’S NOVELS AND THE CONVERSATION 
WITH CHINESE TRADITIONAL CULTURE 
Nguyen Thi Hoai Thu 
Vinh University, Vietnam 
Author corresponding: Nguyen Thi Hoai Thu - Email: hoaithukv@gmail.com 
Article History: Received on 20th May 2021; Revised on 12th June 2021; Published on 17th June 2021 
Abstract: The comic character in Yu Hua's novel is a unique artistic tool for the author to converse with the main clauses in the 
Chinese traditional culture. Through analysing the different types - sarcastic characters, comic characters and black humor characters 
- the article aims to decode the writer's reflective spirit towards people. From this study, the article contributes to affirm Yu Hua's new 
contributions in thought and art fields. 
Key words: Yu Hua; novel; character; comic; comedy; modern Chinese literature. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_vat_hoat_ke_trong_tieu_thuyet_du_hoa_va_cuoc_doi_thoai.pdf