Nghiên cứu xây dựng bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt Nam
Trong bài báo này, chúng tôi xây dựng bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt
Nam với tỉ lệ 1:200.000 trên cơ sở việc giải bài toán thuận theo phương pháp giải tích
tính hiệu ứng trọng lực gây ra bởi các lăng trụ thẳng đứng. Kết quả thu được có ý nghĩa
trong việc xác định phông khu vực rồi từ đó xác định phần trường dư gây ra bởi một số
bể trầm tích thuộc thềm lục địa Việt nam. Chương trình tính toán được viết bằng các
ngôn ngữ Fortran và Matlab.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu xây dựng bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xây dựng bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 14/2017 115 NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BẢN ĐỒ BUGHE KHU VỰC THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM Dương Thị Hoài Thu1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội Tóm tắt: Trong bài báo này, chúng tôi xây dựng bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt Nam với tỉ lệ 1:200.000 trên cơ sở việc giải bài toán thuận theo phương pháp giải tích tính hiệu ứng trọng lực gây ra bởi các lăng trụ thẳng đứng. Kết quả thu được có ý nghĩa trong việc xác định phông khu vực rồi từ đó xác định phần trường dư gây ra bởi một số bể trầm tích thuộc thềm lục địa Việt nam. Chương trình tính toán được viết bằng các ngôn ngữ Fortran và Matlab. Từ khóa: Bản đồ Bughe, hiệu ứng trọng lực, trường dư, bể trầm tích. 1. MỞ ĐẦU Địa Vật lý thăm dò là lĩnh vực khoa học nghiên cứu về Trái đất. Có rất nhiều phương pháp địa vật lý được sử dụng rộng rãi trong thăm dò như: phương pháp thăm dò trọng lực, phương pháp thăm dò điện, phương pháp phóng xạ.... Dựa vào việc nghiên cứu trường trọng lực và trường từ của trái đất thông qua các phép đo được tiến hành trên mặt đất, trên biển, trên không... giúp việc nghiên cứu trái đất được rõ ràng hơn, giúp ta khám phá được hình dạng và cấu trúc vỏ trái đất, tìm kiếm các mỏ khoáng sản phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Trong những năm gần đây, với sự phát hiện ra dầu trong đá móng tại các bể trầm tích thuộc phần Biển Đông, ngoài việc xác định độ sâu tới móng kết tinh, việc nghiên cứu cấu trúc của nó mà trước hết là nghiên cứu sự phân bố dị thường Bughe đặc biệt trở nên quan trọng và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà Địa vật lý trong nước. Để góp phần giải quyết vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành xây dựng bản đồ Bughe tỉ lệ 1:200.000 trên cơ sở việc giải bài toán thuận theo phương pháp giải tích tính hiệu ứng trọng lực gây ra bởi các lăng trụ thẳng đứng. Chương trình tính toán được viết bằng các ngôn ngữ Fortran và Matlab. 1 Nhận bài ngày 11.01.2017; chỉnh sửa, gửi phản biện và duyệt đăng ngày 20.3.2017 Liên hệ tác giả: Dương Thị Hoài Thu; Email: dththu@hunre.edu.vn TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 14/2017 117 3. XÁC ĐỊNH DỊ THƯỜNG TRỌNG LỰC CỦA BỂ TRẦM TÍCH Để xác định dị thường trọng lực, bể trầm tích được chia thành các lăng trụ đặt cách nhau ở phía dưới mỗi điểm quan sát, có độ rộng bằng khoảng cách giữa các điểm quan sát và có chiều cao bằng độ sâu của bể trầm tích tại điểm đó. Dị thường trọng lực gây ra bởi bể trầm tích được tính bằng cách lấy tổng dị thường trọng lực của tất cả các lăng trụ này. Ta nhận thấy rằng công thức (3) rất phức tạp. Khi tính dị thường trọng lực của bể trầm tích nếu dị thường của tất cả các lăng trụ đều được tính theo công thức này thì sẽ tốn rất nhiều thời gian tính trên máy. Để khắc phục khó khăn này, V.D.Braskara Rao đề nghị sử dụng công thức gần đúng sau đây để tính dị thường của các lăng trụ nằm xa điểm quan sát. Công thức này đạt được khi xấp xỉ hiệu ứng của lăng trụ bằng một thanh vật chất thẳng đứng đặt tại tâm của lăng trụ. dg(x,y)=fa0∆x∆y+fa2∆x∆y (4) a0 là mật độ dư của lớp trầm tích bề mặt; a1 là hệ số suy giảm. R = còn ∆x, ∆y tương ứng là khoảng cách giữa các điểm quan sát theo các trục x và y. Cuối cùng, dị thường trọng lực của bể trầm tích được xác định theo công thức sau: (5) Với M là số lăng trụ được chia theo trục x; N là số lăng trụ được chia theo trục y. 4. XÂY DỰNG BẢN ĐỒ BUGHE KHU VỰC THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM Bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt Nam và vùng Biển Đông kế cận trong phạm vi vĩ độ từ 4.5° đến 23.5°; kinh độ từ 100° đến 118° đã được xây dựng dựa phương pháp xác định dị thường trọng lực trình bày ở trên và dựa trên cơ sở bản đồ dị thường Fye tỉ lệ 1:200.000 của vùng này (Hình 2.a). Thứ tự các bước tính toán để xây dựng bản đồ được thực hiện như sau: Tính hiệu chỉnh trọng lực của lớp nước biển dựa vào bản đồ độ sâu đáy biển (hình 2.b). Tính hiệu chỉnh trọng lực gây ra bởi các khối đất đá nằm cao hơn mực nước biển dựa vào bản đồ độ cao địa hình (hình 2.b). Xây dựng bản đồ Bughe bằng cách cộng dị thường Fye thu được tại mỗi điểm với các hiệu chỉnh kể trên thu được tại chính điểm quan sát đó. Khu vực nghiên cứu được chia thành mạng lưới ô vuông có kích cỡ ∆x= ∆y =2km ; Cả khu vực nghiên cứu được chia thành 990 x 1045 lăng trụ. Hiệu ứng trọng lực tại mỗi điểm được tính bằng cách lấy tổng hiệu ứng trọng lực của tất cả các lăng trụ trên. Hiệu ứng trọng lực của mỗi lăng trụ được tính theo công thức (5). Kết quả tính toán được trình bày lần lượt trên các hình 3a, b. 2 1 )22( 222 Z Zz R zyx = ++ 222 zyx ++ ).(),( 11 yxdgyxg N j M i ∑∑ == = 118 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI a) b) Hình 2: a) Bản đồ dị thường Fye tỉ lệ 1: 200.000 khu vực thềm lục địa Việt Nam và vùng Biển Đông kế cận; b) Bản đồ địa hình đáy biển tỉ lệ 1: 200.000 khu vực thềm lục địa Việt Nam và vùng Biển Đông kế cận. a) b) Hình 3: a) Bản đồ hiệu chỉnh địa hình đáy biển tỉ lệ 1: 200.000 khu vựcthềm lục địa Việt Nam và vùng Biển Đông kế cận; b) Bản đồ dị thường trọng lực Bughe tỉ lệ 1: 200.000 khu vực thềm lục địa Việt Nam và vùng Biển Đông kế cận. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 14/2017 119 So với kết quả tính trường dị thường trọng lực Bughe Biển Đông của chương trình điều tra nghiên cứu biển cấp nhà nước KC-09-02 (hình 4) ta thấy bản đồ trường trọng lực Bughe thu được theo phương pháp tính hiệu chỉnh của từng lăng trụ kể trên (hình 3.b) có kết quả khá phù hợp. Trường trọng lực trên Biển Đông nhìn chung có cấu trúc rất phức tạp và phân dị, nó có hướng cấu trúc áp đảo là Đông Bắc-Tây Nam và kinh tuyến, đặc biệt rõ là một loạt dải bất thường bậc thang với biên độ hàng trăm mgal kéo dài hàng nghìn km theo hướng Bắc và Đông Bắc. Các dải bất thường bậc thang lớn chạy song song và tạo thành từng nhóm quan sát thấy ở các khu vực sau: Hướng Đông Bắc gồm có dải chạy qua phía Tây Bắc quần đảo Hoàng Sa lên đến gần Đài Loan. Dải chạy ven bờ biển các đảo Kalimantan và Palawan. Ba dải chạy dọc theo vùng trung tâm Biển Đông. Một dải chạy men theo phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa. Hướng kinh tuyến nổi bật lên 2 dải bất thường bậc thang chạy dọc theo ven biển Trung Bộ Việt Nam và một dải chạy song song ven biển phía Tây Philippin. Các nhóm bất thường bậc thang (gradient) hướng Tây Bắc – Đông Nam (cắt ngang trục Biển Đông) và hướng vĩ tuyến đều thấy thể hiện rõ nhưng biên độ không lớn và độ dài hạn chế, bị đứt đoạn do sự đan chéo với những dải gradien hướng chủ đạo Đông Bắc-Tây Nam. Nổi bật trong nhóm này là những dải gradien hướng vĩ tuyến ở phần Đông Bắc của Biển Đông, dải bất thường bậc thang hướng vĩ tuyến chạy từ phía Nam đảo Hải Nam qua khu vực trung tâm Biển Đông sát trên vĩ độ 16°N. Dải bất thường bậc thang nằm ở phía Nam quần đảo Trường Sa trải theo vĩ độ 6°N và một số dải bất thường hướng vĩ tuyến ở phần phía Đông của Biển Đông cắt vuông góc với dải gradien hướng kinh tuyến ở ven biển Philippin. Các bất thường bậc thang hướng Tây Bắc – Đông Nam biên độ không lớn, thường bị gián đoạn và biến dạng khi cắt qua những dải lớn có hướng Đông Bắc ở sườn và trung tâm của Biển Đông. Những vùng có cấu trúc của trường bình ổn tương đối so với các vùng rìa và trung tâm của Biển Đông là các khu vực trên thềm lục địa Đông Nam Trung Quốc. Phần Đông Bắc từ vĩ độ 2° N trở lên, toàn bộ vùng vịnh Thái Lan và thềm lục địa Đông Nam của Việt Nam và Bắc Indonexia ở về phía Tây của dải Gradien kinh tuyến 109° – 110° E. Ở các vùng nói trên giá trị bất thường Bughe biến đổi trong giới hạn từ ±10, ±20 đến +50, +60 mgal, một số vùng trường vẫn có giá trị âm cỡ vài ba chục mgal. Bức tranh các bất thường biến động từ từ, không có những dải gradien mạnh kéo dài, hướng cấu trúc thể hiện tương đối rõ như ở các vùng vịnh Thái Lan, thềm lục địa Đông Nam Việt Nam và thềm lục địa phía Bắc Indonexia. Ở vùng quần đảo Hoàng Sa trường trọng lực có cấu trúc tương đối phức tạp, phân dị thành các bất thường dạng hẹp kéo dài. Hướng cấu trúc ở Hoàng Sa áp đảo là hướng vĩ tuyến. Ở quần đảo Hoàng Sa giá trị trọng lực Bughe biến đổi từ +30 đến +120 mgal. Các 120 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI vùng rìa phía Tây Bắc, Nam và phía Đông đều có các dải bất thường gradien lớn bao bọc. Vùng trung tâm Biển Đông kéo dài theo phương Đông Bắc có đặc điểm cấu trúc của trường trọng lực khác hẳn và khá đặc trưng, giá trị bất thường Bughe rất lớn, biến đổi trong giới hạn từ +200 đến +300, +320 mgal. Toàn bộ vùng này giới hạn bởi các dải bất thường bậc thang biên độ rất lớn gồm các đường đẳng mức chạy sít nhau. Bên trong của vùng cấu trúc trường tương đối bình ổn tạo nên một số bất thường nhỏ và có dạng khối đều đặn. Ở phía Đông Bắc hình thành một dải bất thường bậc thang cắt theo hướng vĩ tuyến và Tây Bắc - Đông Nam. Hình 4: Trường dị thường trọng lực Bughe Biển Đông tỉ lệ 1:1.000.000 (Nguồn Viện Địa chất và Địa Vật lý biển). Các vùng phía đông thềm lục địa miền Trung Việt Nam và phía Đông Bắc quần đảo Hoàng Sa trường trọng lực có cấu trúc phức tạp nhất do hiện tượng đan chéo của các dải gradien mạnh theo nhiều hướng khác nhau. Ở đây các đường đẳng trị trọng lực biến đổi đột ngột, phức tạp tạo nên bức tranh phân dị không thể hiện rõ hướng cấu trúc chủ đạo. Vùng thềm phía Tây Bắc đảo Palawan cũng là nơi đan chéo của các dải bất thường gradien theo 3 hướng khác nhau: Đông Bắc, kinh tuyến và vĩ tuyến, tạo nên một bức tranh bất thường phức tạp. Giá trị bất thường Bughe ở các vùng này biến đổi từ +50 mgal đến +180, +200 mgal. Cùng với các vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa các vùng bất thường trên đây tạo nên một đai chuyển tiếp bao quanh vùng trung tâm, có đặc điểm cấu trúc phức tạp và giá trị bất thường tương đối lớn, biến đổi trong giới hạn khá rộng. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 14/2017 121 5. KẾT LUẬN Chúng tôi đã xây dựng thành công bản đồ Bughe khu vực thềm lục địa Việt Nam tỉ lệ 1:200.000. So với các bản đồ Bughe đã có, bản đồ Bughe do chúng tôi xây dựng dựa theo việc tính hiệu ứng trọng lực của từng lăng trụ có tỉ lệ lớn hơn và có độ chính xác cao hơn. Đây là cơ sở quan trọng trong việc xác định phông khu vực rồi từ đó xác định phần trường dư gây ra bởi một số bể trầm tích thuộc thềm lục địa Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bhaskara Rao, Geophys.J, Roy.Astr.Soc (1986), D. Modelling of sedimentary basins from gravity anomalies with variable density contrast, Vol.84, pp. 207- 212. 2. Bhaskara Rao, D., Prakash, M.I., and Ramesh Babu (1990), 3 and 2 D modelling of gravity anomalies with variable density contrast, Geophys. Prosp, Vol.38, pp. 411-422. STUDY ON DESIGNING BUGHE MAP OF VIET NAM’S CONTINENTAL SHELF Abstract: In this study, we built the Bughe map of Vietnam continental shelf with scale of 1: 200.000 basing on the solution of the analytic problem on the effects of gravity which caused by the vertical cylinder. The results are significant in determining the regional background and thereby determining the residual gravity caused by a number of sedimentary basins of the continental shelf of Vietnam. Calculation program is written in Fortran and Matlab languages. Keywords: Bughe map, effects of gravity, residual gravity, sedimentary basins. 1 2
File đính kèm:
- nghien_cuu_xay_dung_ban_do_bughe_khu_vuc_them_luc_dia_viet_n.pdf