Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau

Ở Việt Nam, các nguồn nhiên liệu như than tổ ong, gỗ củi, chất thải rắn nông nghiệp, khí

hóa lỏng (LPG) đang là nguồn năng lượng chính được sử dụng để đun nấu hằng ngày. Tuy nhiên,

việc sử dụng các nguồn nhiên liệu này cũng gây nên nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường trong nhà,

tác động đến sức khỏe con người với mức độ khác nhau. Trong nghiên cứu này, hàm lượng bụi

PM10, PM2.5, PM1 được quan trắc bằng thiết bị GRIMM 107-G (Grimm Technologies, Inc.,

Douglasville, GA, USA) trong quá trình đun nấu sử dụng các loại nhiên liệu khác nhau như than tổ

ong, gỗ củi và LPG. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng bụi trong phòng bếp có xu hướng lớn

hơn hàm lượng bụi ở không khí bên ngoài. Kết quả đo cũng cho thấy hàm lượng bụi PM10, PM2.5,

PM1 khi đun nấu bằng củi có giá trị cao nhất, lần lượt là 305,7  105,3 µg/m3; 158,3  35,4 µg/m3;

135,9  31,0 µg/m3. Tỷ lệ bụi PM10 bên trong và bên ngoài (I/O) khi sử dụng bếp củi, bếp than và

LPG có giá trị lần lượt là 2,67; 1,18; 0,92. Hàm lượng bụi cao trong các phòng bếp là không tốt

cho những người nội trợ và có thời gian tiếp xúc dài với nguồn chất ô nhiễm nói trên.

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 1

Trang 1

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 2

Trang 2

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 3

Trang 3

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 4

Trang 4

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 5

Trang 5

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 6

Trang 6

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 2900
Bạn đang xem tài liệu "Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau

Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 28-34 
 28 
Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời bởi bụi (PM10, 
PM2.5, PM1) khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu khác nhau 
Hoàng Anh Lê*, Đinh Mạnh Cường, Nguyễn Thị Kim Anh 
Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 25 tháng 8 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 10 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 07 tháng 12 năm 2018 
Tóm tắt: Ở Việt Nam, các nguồn nhiên liệu như than tổ ong, gỗ củi, chất thải rắn nông nghiệp, khí 
hóa lỏng (LPG) đang là nguồn năng lượng chính được sử dụng để đun nấu hằng ngày. Tuy nhiên, 
việc sử dụng các nguồn nhiên liệu này cũng gây nên nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường trong nhà, 
tác động đến sức khỏe con người với mức độ khác nhau. Trong nghiên cứu này, hàm lượng bụi 
PM10, PM2.5, PM1 được quan trắc bằng thiết bị GRIMM 107-G (Grimm Technologies, Inc., 
Douglasville, GA, USA) trong quá trình đun nấu sử dụng các loại nhiên liệu khác nhau như than tổ 
ong, gỗ củi và LPG. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng bụi trong phòng bếp có xu hướng lớn 
hơn hàm lượng bụi ở không khí bên ngoài. Kết quả đo cũng cho thấy hàm lượng bụi PM10, PM2.5, 
PM1 khi đun nấu bằng củi có giá trị cao nhất, lần lượt là 305,7 105,3 µg/m3; 158,3 35,4 µg/m3; 
135,9 31,0 µg/m3. Tỷ lệ bụi PM10 bên trong và bên ngoài (I/O) khi sử dụng bếp củi, bếp than và 
LPG có giá trị lần lượt là 2,67; 1,18; 0,92. Hàm lượng bụi cao trong các phòng bếp là không tốt 
cho những người nội trợ và có thời gian tiếp xúc dài với nguồn chất ô nhiễm nói trên. 
Từ khóa: Ô nhiễm không khí trong nhà, đun nấu, phòng bếp. 
1. Tổng quan 
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học trên 
thế giới thì thời lượng con người sống trong nhà 
lại chiếm chủ yếu, đến 87% thời lượng trong 
nhà và đến 6% trong phương tiện cơ giới [1]. 
Điều đó minh chứng rằng chất lượng không khí 
trong nhà là yếu tố cần phải được quan tâm 
hàng đầu đối với cuộc sống của nhân loại. Theo 
kết quả nghiên cứu và báo cáo từ tổ chức Y tế 
________ 
 Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-913570406. 
 Email: anhle1977@gmail.com 
 https://doi.orgop/10.25073/2588-1094/vnuees.4284 
thế giới (WHO), hàng năm có khoảng 7 triệu 
người chết vì có liên quan đến ô nhiễm không 
khí [2]. WHO (2014) cũng ước tính ô nhiễm 
không khí trong nhà có liên quan đến 4,3 triệu 
người chết trong năm 2012 ở các hộ gia đình 
nấu ăn bằng than, gỗ và bếp đun sinh khối. Ước 
tính mới được giải thích bằng thông tin tốt hơn 
về phơi nhiễm ô nhiễm trong số 2,9 tỷ người 
sống trong nhà khi sử dụng gỗ củi, than hoặc 
phân làm nhiên liệu nấu ăn chính của gia đình. 
Thêm đó, các bằng chứng về vai trò ô nhiễm 
không khí trong sự phát triển bệnh tim mạch, hô 
hấp và ung thư. Điều đáng quan tâm khi người 
nghèo, người có thu nhập thấp và trung bình 
H.A. Lê và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 28-34 29 
phải sử dụng các loại nhiên liệu có mức phát 
thải chất ô nhiễm không khí lớn để làm nguồn 
năng lượng. Khi đun nấu, căn bếp thường là 
khu vực khép kín, thiếu điều kiện thoáng khí 
dẫn đến việc khuếch tán chất ô nhiễm kém, tăng 
nguy cơ phơi nhiễm đối với người sử dụng. Trẻ 
em và phụ nữ là những người thường có nguy 
cơ tiếp xúc, phơi nhiễm cao từ nguồn ô nhiễm 
này. WHO cũng cảnh báo gần 800.000 ca tử 
vong do ô nhiễm không khí trong nhà xảy ra ở 
trẻ em dưới 5 tuổi và hơn 500.000 ca tử vong 
đối với phụ nữ [3]. Những số liệu minh chứng 
như vậy cho thấy ô nhiễm không khí trong nhà 
có mức độ tác động rất lớn đến chất lượng cuộc 
sống và sức khỏe con người; và nó cần được 
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhiều 
hơn nữa để giảm thiểu tác động của nguồn ô 
nhiễm này. Có nhiều nguồn phát sinh ô nhiễm 
không khí trong nhà, bao gồm các nguồn chất 
đốt như dầu, khí đốt, dầu hỏa, than đá, than tổ 
ong, gỗ, các sản phẩm thuốc lá; vật liệu xây 
dựng và đồ nội thất, tấm cách ngăn có chứa 
amiăng, thảm ướt hoặc ẩm ướt, tủ hoặc đồ nội 
thất làm bằng một số sản phẩm gỗ ép; sản phẩm 
để làm sạch và bảo trì; hệ thống sưởi ấm và làm 
mát trung tâm và các thiết bị tạo ẩm; các nguồn 
ngoài trời như radon, thuốc trừ sâu và ô nhiễm 
không khí ngoài trời [1, 4-13]. Ô nhiễm không 
khí trong nhà có thể có tác động đáng kể đến 
sức khỏe con người bao gồm các tác động trực 
tiếp và cấp tính (như mắt, mũi, dị ứng họng, 
nhức đầu, chóng mặt và các triệu chứng mệt 
mỏi khác) cũng như các tác động gián tiếp và 
mãn tính khác (ví dụ: bệnh đường hô hấp, ung thư 
hoặc suy nhược nghiêm trọng hoặc tử vong) [12]. 
Ở Việt Nam, trong các báo cáo hàng năm 
của các cơ quan chủ quản cũng đã đưa ra nhiều 
bằng chứng thuyết phục về tình trạng ô nhiễm 
không khí ngày càng trở nên xấu đi [14, 15]. 
Điều đáng chú ý là trong các báo cáo môi 
trường quốc gia, chất lượng không khí xung 
quanh có hàm lượng thông tin khá đa dạng và 
khá đầy đủ; Nhưng ngược lại, chất lượng 
khôngkhí trong nhà lại ít hoặc chưa được chú 
trọng. Việt Nam cũng chưa ban hành tiêu 
chuẩn, quy chuẩn nào quy định giá trị nồng độ 
chất ô nhiễm tối đa cho phép trong không khí 
trong nhà. Một trong những lý do cốt lõi là điều 
kiện số liệu, dữ liệu chưa có hoặc chưa đầy đủ 
để đánh giá một cách toàn diện, chính xác. 
Thêm nữa các nhà khoa học, các nhà quản lý 
gần như chưa quan tâm, chú ý đến sự ảnh 
hưởng của chất lượng không khí trong nhà. 
Trong nhà ở đây có thể được hiểu là trong các 
phạm vi giới hạn như nhà ở, văn phòng làm 
việc, các tòa nhà công cộng, khu mua sắm, 
trong cabin và xe cá nhân .v.v. Hiểu theo cách 
khác; theo mục 9 điều 2 trong Luật phòng, 
chống tác hại của thuốc lá thì trong nhà là nơi 
có mái che và có một hay nhiều bức tường chắn 
hoặc vách ngăn xung quanh [16]. Các nghiên 
cứu khoa học được xuất bản trên các tạp chí 
trong nước và quốc tế về ô nhiễm không khí 
trong nhà ở Việt Nam còn hạn chế, trong đó có 
công trình nghiên cứu của Ellegård (2010). Bài  ...  và thảo luận 
3.1. So sánh hàm lượng bụi bên trong và ngoài 
bếp khi sử dụng các loại nhiên liệu đun nấu 
khác nhau 
Bảng 1 mô tả số liệu thống kê được trong 
quá trình quan trắc hàm lượng bụi PM10, PM2.5 
và PM1 đồng thời cả bên trong và bên ngoài 
phòng bếp khi đun nấu có sử dụng các loại 
nhiên liệu khác nhau. Những hạt bụi có kích 
thước nhỏ thường được chú trọng trong nghiên 
cứu chất lượng không khí do chúng có khả năng 
đi sâu vào hệ thống hô hấp và ảnh hưởng đến 
các cơ quan hô hấp [2, 5, 11, 12]. Hàm lượng 
bụi PM10 trong bếp khi đun củi, đun than tổ ong 
và bếp gas (LPG) có mức phát thải tương ứng là 
305,7 105,3 µg/m3; 96,8 66,3 µg/m3; 103,7 
 25,2 µg/m3. Qua đó có thể thấy hàm lượng 
bụi PM10 phát sinh khi sử dụng củi đun là rất 
lớn. Khi đun nấu bằng củi, người nấu bếp 
thường có thêm hành động thổi gió khi cần 
ngọn lửa bùng cháy mạnh hơn, cấp nhiều nhiệt 
hơn; vì vậy vô tình hoạt động này làm phân tán 
lượng tro vào không khí, làm tăng hàm lượng 
bụi tức thời. Trong khi đó nếu đun nấu bằng 
than tổ ong hoặc LPG thì không cần hoạt động 
này. Trong nghiên cứu này, điều đáng bàn luận 
là hàm lượng bụi PM10 phát sinh khi sử dụng 
LPG để đun nấu lại có giá trị cao hơn cả khi sử 
dụng củi đun. Tuy nhiên một số nghiên cứu đã 
cảnh báo có thể có trường hợp hàm lượng bụi 
bên trong bị ảnh hưởng bới yếu tố đó chính từ 
bên ngoài [17, 18]. Như vậy mặc dù giá trị hàm 
lượng PM10 đo được khi sử dụng LPG để đun 
nấu có giá trị cao hơn khi sử dụng than, tuy 
nhiên nó có thể do ảnh hưởng bởi PM10 từ bên 
ngoài xâm nhập vào phòng bếp [18]. Hiện 
tượng này được phân tích sâu hơn nhờ tỷ lệ 
hàm lượng bụi bên trong và ngoài bếp đun 
(Bảng 2) được bàn luận phần sau. Giá trị PM10 
ở môi trường không khí xung quanh thời điểm 
đó cũng là 112,6 µg/m3, lớn hơn so với giá trị 
81,7 µg/m3 ở môi trường không khí xung quanh 
khi đun nấu bằng bếp củi. Và khi đó chúng ta 
cần tính thêm tỷ lệ I/O, nghĩa là giá trị so sánh 
H.A. Lê và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 28-34 31 
mức độ chất ô nhiễm đó ở bên trong và bên 
ngoài phòng bếp. Cũng cần chú ý vì đây là quá 
trình quan trắc thực tế nên khó có thể khống chế 
tất cả các điều kiện ở mức lý tưởng như ở 
phòng thí nghiệm; Do vậy hàm lượng bụi cũng 
có thể ảnh hưởng do các hoạt động khác như 
bụi phát sinh từ quá trình chuẩn bị nguyên vật 
liệu đun nấu, thực phẩm, đi lại, nhóm bếp. Bảng 
1 cũng đã cho chúng ta thấy tỷ lệ I/O của PM10 
khi sử dụng củi, than tổ ong và LPG để đun nấu 
lần lượt là 2,67; 1,18 và 0,92. Kết quả này cho 
thấy khi sử dụng bếp củi, người làm việc trong 
bếp đun bị ảnh hưởng sự phơi nhiễm bụi PM10 
lớn hơn rất nhiều so với các trường hợp sử dụng 
bếp than tổ ong và LPG. Một điểm đáng chú ý 
nữa là giá trị n (đại diện khoảng thời gian lấy 
mẫu, mỗi số liệu tương đương 5 phút đun nấu) 
trong Bảng 2 cho thấy khoảng thời gian đun 
nấu khi sử dụng LPG (n = 25) đã rút ngắn được 
rất nhiều so với khi đun nấu bằng bếp củi (n = 
39) và bếp than (n = 60). Do bếp đun bằng LPG 
cho nhiệt lượng cao và vận hành dễ dàng hơn, 
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người sử dụng. 
Đặc điểm này cũng đáng lưu tâm trong quá 
trình tính mức độ phơi nhiễm của người sử 
dụng ở các công trình nghiên cứu sau.
Bảng 1. Hàm lượng bụi khi đun nấu các loại nhiên liệu khác nhau (đơn vị: µg/m3) 
Loại bếp, 
vị trí quan trắc 
n 
PM10 PM2.5 PM1 
AVE. ME. SD. AVE. ME. SD. AVE. ME. SD. 
B
ếp
 c
ủ
i Bên trong 
39 
305,7 300,1 105,3 155,3 156,8 35,4 135,9 138,1 31,0 
Bên ngoài 114,7 70,5 143,7 41,0 36,4 18,9 28,5 29,8 7,9 
B
ếp
th
a
n
Bên trong 
60 
96,8 77,4 66,3 39,6 26,3 19,0 30,1 16,4 17,5 
Bên ngoài 81,7 66,5 50,0 32,2 27,3 19,7 21,6 16,1 16,3 
L
P
G
Bên trong 
25 
103,7 96,9 25,2 52,9 55,3 9,4 41,6 42,6 7,7 
Bên ngoài 112,6 93,9 44,1 59,2 58,2 16,5 43,9 44,8 9,9 
Ghi chú: Các giá trị AVE. (trung bình); ME. (trung vị); SD. (độ lệch chuẩn). 
Hình 2 biểu diễn toàn bộ quá trình quan 
trắc, bao gồm cả thời điểm khởi động thiết bị 
quan trắc (lúc này chưa bật bếp đun) và cả 
những thời điểm sau quá trình đun nấu. Trường 
hợp sử dụng bếp củi (cột dọc bên trái) cho thấy 
hàm lượng bụi bên trong bếp luôn ở mức cao 
(I/O = 2,67) và thể hiện rõ ở hàm lượng bụi mịn 
PM2.5 và siêu mịn PM1. Trong trường hợp dùng 
bếp than tổ ong, hàm lượng bụi tăng cao đột 
biến và đạt giá trị cực đại Cmax = 1,537 µg/m3. 
Như vậy có thể thấy đối với bếp than tổ ong, 
thời điểm nhóm lò làm phát sinh hàm lượng bụi 
rất lớn; Sau đó không cần quá trình tác động 
nhiều nhưng than vẫn tự cháy và sinh nhiệt, vì 
vậy làm giảm quá trình phát sinh bụi. 
3.2. So sánh tỷ lệ bụi phát sinh khi sử dụng các 
loại nhiên liệu đun nấu khác nhau 
Trong các thành phần ô nhiễm không khí, 
bụi là nhân tố được quan tâm nhiều nhất [14, 
15]. Thành phần hóa học trong hạt bụi cũng là 
đặc tính quyết định tầm ảnh hưởng đến sức 
khỏe cộng đồng khi bị phơi nhiễm [2, 9, 12]. 
Bảng 2 cung cấp thêm các thông tin về tỷ lệ 
PM2.5/PM10 và PM1/PM10 tính toán được trong 
quá trình quan trắc khi sử dụng các loại nhiên liệu 
đun nấu khác nhau. 
Tỷ lệ PM2.5/PM10 thay đổi từ 0,36 đến 0,53, 
trong khi đó PM1/PM10 thay đổi từ 0,26 đến 
0,44. Tỷ lệ PM2.5/PM10 trong nghiên cứu tương 
đương với các nghiên cứu có trước của Begum 
và nnk (2009) và Cachier và nnk (1998). 
H.A. Lê và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 28-34 32 
Hình 2. Hàm lượng bụi (PM10, PM2.5, và PM1) bên trong và bên ngoài khu vực bếp đun 
khi sử dụng các loại nhiên liệu khác nhau. 
Các loại nhiên liệu cấp thấp (than, củi) chứa 
lượng lớn hydrocacbon trong trọng lượng phân 
tử, do vậy tạo ra nồng độ cao carbon hữu cơ 
trong quá trình đốt cháy [18]. Điều này dẫn đến 
hàm lượng PM2.5 tăng, kéo theo tỷ lệ 
PM2.5/PM10 tăng lên. Khi sử dụng sinh khối (gỗ, 
cành và lá cây, các sản phẩm phụ nông nghiệp 
khác, v.v.) thường chứa một phần đáng kể tro 
vô cơ làm phát sinh tro các hợp chất ngoài các 
sản phẩm phụ hữu cơ được sản xuất bởi đốt 
cháy không hoàn toàn [18]. Tỷ lệ các loại bụi 
cũng có thể liên quan đến hoạt động đun nấu; 
Khi người nấu bếp củi có thêm hành động thổi 
gió với mong muốn ngọn lửa cháy bùng to hơn, 
cấp nhiều nhiệt hơn; Hành động này làm phân 
tán lượng tro vào không khí, làm tăng hàm 
lượng bụi tức thời. Trong khi đó nếu đun nấu 
bằng than tổ ong hoặc LPG thì không cần hoạt 
động này. 
Bảng 2. Tỷ lệ các loại bụi khi sử dụng các loại nhiên liệu khác nhau 
Loại bếp, 
vị trí quan trắc 
PM2.5/PM10 PM1/PM10 I/O (PM10) 
B
ếp
 c
ủ
i Bên trong 0,51 0,44 
2,67 
Bên ngoài 0,36 0,25 
B
ếp
th
a
n
 Bên trong 0,41 0,31 
1,18 
Bên ngoài 0,39 0,26 
L
P
G
Bên trong 0,51 0,40 
0,92 
Bên ngoài 0,53 0,39 
Ghi chú: I/O (PM10) - tỷ lệ hàm lượng bụi PM10 bên trong bếp 
/ bên ngoài bếp. 
0
100
200
300
400
500
600
700
800
0
200
400
600
800
1,000
1,200
1,400
1,600
0
50
100
150
200
250
0
50
100
150
200
250
300
350
400
0
50
100
150
200
250
300
350
0
20
40
60
80
100
120
0
50
100
150
200
250
300
350
400
0
50
100
150
200
250
300
350
0
20
40
60
80
100
BÕp dïng cñi
H
µm
 l-
î
n
g
 P
M
10
 (

g
/m
3 )
 Hµm l-îng bôi trong bÕp
 Hµm l-îng bôi bªn ngoµi bÕp
BÕp dïng gas (LPG)BÕp dïng than
H
µm
 l-
î
n
g
 P
M
2.
5 
(
g
/m
3 )
H
µm
 l-
î
n
g
 P
M
1 
(
g
/m
3 )
H.A. Lê và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 28-34 33 
4. Kết luận 
Hàm lượng bụi PM10, PM2.5 và PM1 được 
quan trắc đồng thời cả bên trong và bên ngoài 
phòng bếp khi đun nấu có sử dụng các loại 
nhiên liệu khác nhau như gỗ củi, than tổ ong và 
LPG. Kết quả cho thấy hàm lượng PM10 rất cao 
trong bếp khi sử dụng củi đun. Tuy nhiên ở giai 
đoạn chuẩn bị, nhóm lò, hoạt động nhằm khởi 
động bếp đun than làm phát sinh lượng lớn bụi. 
Hàm lượng bụi bên trong nhà có sự ảnh hưởng 
bởi bụi từ không khí xung quanh xâm nhập vào. 
Quá trình đun nấu bằng LPG cho thấy thời gian 
được rút ngắn đi khá nhiều, làm giảm hàm 
lượng bụi phơi nhiễm trong quá trình đun nấu. 
Trong các nghiên cứu tiếp theo cần phân tích 
thêm về hiệu quả kinh tế - môi trường khi đun 
nấu bằng các loại nhiên liệu khác nhau như vậy. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường 
Đại học Khoa học Tự nhiên trong đề tài mã số 
TN.18.20. Qua đây các tác giả cũng xin chân 
thành cảm ơn gia đình ông Nguyễn Văn Đào 
(thôn Đại Thắng, xã Nam Mỹ, huyện Nam 
Trực, tỉnh Nam Định) đã tạo điều kiện thuận lợi 
cho nhóm nghiên cứu triển khai nhiệm vụ quan 
trắc môi trường để thực hiện nghiên cứu này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] N. E. Klepeis, W. C. Nelson, W. R. Ott, J. P. 
Robinson, A. M. Tsang, S. Paul, J. V. Behar, S. C. 
Hern, W. H. Engelmann, The National Human 
Activity Pattern Survey (NHAPS): A resource for 
assessing exposure to environmental pollutants, 
Journal of exposure analysis and environmental 
epidemiology 11 (2001) 231. 
[2] WHO (2014), 7 million premature deaths annually 
linked to air pollution; Link: 
14/air-pollution/en/. Last access on 30/07/2018. 
[3] WHO (2006), Indoor air pollution: 4000 deaths a 
day must no longer be ignored; Link: 
l30706html/en/. Last access on 30/07/2018. 
[4] M. S. Crandall, W. K. Sieber, The National 
Institute for Occupational Safety and Health 
indoor environmental evaluation experience. Part 
I: Building environmental evaluations, Applied 
Occupational and Environmental Hygiene 11 
(1996) 533. 
[5] A. Ellegård, Health effects of cooking air 
pollution among women using coal briquettes in 
Hanoi, Environmental technology 18 (1997) 409. 
[6] N. A. Janssen, P. H. v. Vliet, A. Francée, H. 
Hendrik, B. Bert, Assessment of exposure to 
traffic related air pollution of children attending 
schools near motorways, Atmospheric 
environment 35 (2001) 3875. 
[7] S. Lee, M. Chang, Indoor and outdoor air quality 
investigation at schools in Hong Kong, 
Chemosphere 41 (2000) 109. 
[8] H. Richard, E. Richard, H. Tim, School indoor air 
quality best management practices manual, 
Washington State Department of Health, 
Olympia, Washington (1995). 
[9] J. M. Samet, M. C. Marbury, J. D. Spengler, 
Health effects and sources of indoor air pollution. 
Part I, American Review of Respiratory Disease 
136 (1987) 1486. 
[10] K. R. Smith, S. Mehta, The burden of disease 
from indoor air pollution in developing countries: 
comparison of estimates, WHO/USAID Global 
Technical Consultation University of California 
Berkeley, CA 94720-7360 (2000). 
[11] K. R. Smith, J. M. Samet, I. Romieu, N. Bruce, 
Indoor air pollution in developing countries and 
acute lower respiratory infections in children, 
Thorax 55 (2000) 518. 
[12] USEPA, An introduction to indoor air quality 
(IAQ), United States Environmental Protection 
Agency (US EPA) (2014) United States. 
[13] W. Yang, J. Sohn, J. Kim, B. Son, J. Park, Indoor 
air quality investigation according to age of the 
school buildings in Korea, Journal of 
environmental management 90 (2009) 348. 
[14] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng 
môi trường quốc gia năm 2013: Môi trường 
Không khí, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà 
Nội, 2013. 
[15] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng 
môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2016, Bộ 
Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội, 2016. 
[16] Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt 
Nam, Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá, 
(2012). 
H.A. Lê và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 28-34 34 
[17] T. Beer, T. Grant, G. Morgan, J. Lapszewicz, P. 
Anyon, J. Edwards, P. Nelson, H. Watson, D. 
Williams. Comparison of Transport Fuels: Final 
Report to the Australian Greenhouse Office on the 
Stage 2 Study of Life-Cycle Emissions - Analysis 
of Alternative Fuels for Heavy Vehicles. Report 
No. EV45A/2/F3C, Commonwealth Scientific and 
Industrial Research Organisation, Aspendale, 
Victoria, Australia, 2001. 
[18] B. A. Begum, S. K. Paul, M. D. Hossain, S. K. 
Biswas, P. K. Hopke, Indoor air pollution from 
particulate matter emissions in different 
households in rural areas of Bangladesh, Building 
and Environment 44 (2009) 898. 
[19] H. Cachier, C. Liousse, P. Buat-Menard, A. 
Gaudichet, Particulate content of savanna fire 
emissions, Journal of Atmospheric Chemistry 22 
(1995) 123. 
Particulate Matter (PM10, PM2.5, PM1) indoor Pollution 
 by Using Different Fuel Materials 
Hoang Anh Le, Dinh Manh Cuong, Nguyen Thi Kim Anh 
Faculty of Environmental Sciences, VNU University of Science, 
334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Coal, wood, agricultural waste, and liquid petroleum gas (LPG) are among the major 
fuel materials used for cookstove in Vietnam. However, the use of these energy sources is 
controversial since they are also the sources of hiden indoor air pollution which could adversely 
impact human health. In the present study, particulate matter concentrations (PM10, PM2.5, PM1) are 
monitored by GRIMM 107-G (Grimm Technologies, Inc., Douglasville, GA, USA) throughout cooking 
time using different fuels such as coal, wood, and LPG. The results show that the indoor 
concentrations of particulate matters tend to be higher than those of ambient air. Among the 
distinguished fuels, wood produces the highest PM10, PM2.5, PM1 concentrations, up to 305.7 105.3 
µg/m3; 158.3 35.4 µg/m3; 135.9 31 µg/m3 respectively. The PM10 indoor and outdoor ratios during 
cooking time using different fuels such as coal, wood, and LPG are 2.67; 1.18; 0.92 respectively. 
These high concentration of particulate matters in the kitchen is harmful for people, especially the 
wives in the household who have longer exposure time to those pollutants. 
Keywords: Indoor air pollution, cookstove, kitchen room. 

File đính kèm:

  • pdfo_nhiem_khong_khi_trong_nha_va_ngoai_troi_boi_bui_pm10_pm2_5.pdf