Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng

“Khảo sát ban đầu về nhu cầu của hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại

Đà Nẵng” trên các đối tượng là cán bộ lãnh đạo ngành y tế, người cung cấp dịch vụ và các

khách hàng của dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước mang thai. Kết quả khảo sát cho thấy:

Các văn bản, tài liệu hướng dẫn về chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai

(CSSKTMT) đã có tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, chỉ có một số ít cán bộ tuyến thành phố

biết rằng Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) đã

có phần CSSKTMT. Tại Đà Nẵng chưa có chương trình hay dự án nào chuyên về lĩnh

vực CSSKTMT ngoại trừ một số dự án có liên quan một phần như chương trình sàng lọc

trước sinh, câu lạc bộ sức khỏe tiền hôn nhân

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 1

Trang 1

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 2

Trang 2

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 3

Trang 3

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 4

Trang 4

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 5

Trang 5

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 6

Trang 6

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 7

Trang 7

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 8

Trang 8

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 9

Trang 9

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang viethung 3960
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng

Nghiên cứu thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại thành phố Đà Nẵng
64 
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TRƯỚC 
MANG THAI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 
BSCKII. Phạm Hùng Chiến 
BSCKI. Võ Thu Tùng, ThS. BS Ngô Văn Quang 
Trung tâm Truyền thông GDSK thành phố Đà Nẵng 
Tóm tắt nghiên cứu 
“Khảo sát ban đầu về nhu cầu của hệ thống chăm sóc sức khỏe trước mang thai tại 
Đà Nẵng” trên các đối tượng là cán bộ lãnh đạo ngành y tế, người cung cấp dịch vụ và các 
khách hàng của dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước mang thai. Kết quả khảo sát cho thấy: 
Các văn bản, tài liệu hướng dẫn về chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai 
(CSSKTMT) đã có tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, chỉ có một số ít cán bộ tuyến thành phố 
biết rằng Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) đã 
có phần CSSKTMT. Tại Đà Nẵng chưa có chương trình hay dự án nào chuyên về lĩnh 
vực CSSKTMT ngoại trừ một số dự án có liên quan một phần như chương trình sàng lọc 
trước sinh, câu lạc bộ sức khỏe tiền hôn nhân. 
Phần lớn cán bộ y tế, đặc biệt là những người trực tiếp cung cấp dịch vụ chưa 
được trang bị một cách hệ thống các kiến thức về CSSKMT mà nguyên nhân là do thiếu 
các hoạt động tập huấn và hướng dẫn cũng như công tác giám sát hỗ trợ chưa được 
thường xuyên. Tư vấn về CSSKTMT còn nhiều hạn chế như: CBYT chưa tự tin, chưa có 
quy trình hướng dẫn, chưa có sự giám sát hỗ trợ tốt, thời gian dành cho tư vấn quá ít, 
khu vực tư vấn chưa đảm bảo tính riêng tư. 
Các tuyến y tế có thể cung cấp các dịch vụ CSSKSS căn bản nhưng do chưa triển 
khai việc cung cấp dịch vụ CSSKTMT một cách có hệ thống nên lượng khách hàng đến 
tìm kiếm dịch vụ này còn ít và còn mang tính riêng lẻ. 
Các hoạt động TTGDSK về CSSKTMT còn mang tính riêng lẻ, chưa có tài liệu 
truyền thông về chủ đề này. 
1. Đặt vấn đề 
Chăm sóc sức khỏe trước khi có thai (CSSKTMT) giữ một vai trò quan trọng, 
giúp sinh ra những em bé khỏe mạnh, thông minh. Trong những năm gần đây người ta 
ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc CSSKTMT cũng như của việc lập kế 
hoạch tốt để có thể sinh ra em bé khỏe mạnh. Các dịch vụ CSSKTMT được cung cấp 
lồng ghép trong các dịch vụ CSSKBĐ sẽ giúp giảm gánh nặng do các khuyết tật bẩm 
sinh gây ra. Cả phụ nữ và nam giới ở độ tuổi sinh sản có kế hoạch sinh con là đối tượng 
của các dịch vụ CSSKTMT. 
Tại Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ khuyết tật bẩm sinh chiếm khoảng 
4 - 5%. Ước tính hàng năm có khoảng 87.000 trẻ sinh ra bị khuyết tật bẩm sinh. Cải 
thiện chăm sóc trước mang thai sẽ giúp phòng ngừa và giảm tỉ lệ trẻ khuyết tật bẩm sinh 
cũng như giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh. 
65 
Chương trình toàn diện và tích hợp trợ giúp người khuyết tật (DSP) tại thành phố 
Đà Nẵng được thực hiện từ năm 2013 đến 2015 với kinh phí hỗ trợ từ tổ chức USAID. 
Một trong 3 mục tiêu chính của chương trình là cải thiện các dịch vụ y tế công cộng liên 
quan như: hệ thống giám sát dị tật bẩm sinh, sàng lọc trẻ sơ sinh, dịch vụ chăm sóc sức 
khỏe bà mẹ trước khi mang thai, hệ thống giám sát ung thư tại Đà Nẵng. Nhằm thiết kế 
và triển khai các can thiệp hiệu quả giúp cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước 
khi mang thai chúng tôi tiến hành “Khảo sát ban đầu về nhu cầu của hệ thống chăm sóc 
sức khỏe trước mang thai tại Đà Nẵng.” Khảo sát này được thực hiện thông qua sự hợp 
tác giữa Hội Y học thành phố Đà Nẵng và DSP. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
2.1. Mục tiêu chung: Đánh giá thực tế hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ chăm 
sóc trước mang thai tại Đà Nẵng để đưa ra các khuyến nghị can thiệp có thể giúp cải 
thiện các dịch vụ chăm sóc trước mang thai liên quan đến các dị tật bẩm sinh và sàng lọc 
sơ sinh nhằm phòng ngừa và giảm thiểu gánh nặng của khuyết tật. 
2.2. Mục tiêu cụ thể 
1. Nghiên cứu các hướng dẫn và các chương trình hiện có về chăm sóc trước mang 
thai tại Việt Nam và Đà Nẵng. 
2. Khảo sát hệ thống cung cấp dịch vụ tư vấn về CSSKTMT cho phụ nữ và nam 
giới trong độ tuổi sinh sản. 
3. Khảo sát khả năng cung cấp dịch vụ của NVYT trong lĩnh vực CSSKTMT. 
4. Khảo sát hệ thống đào tạo và giám sát hỗ trợ của ngành Y tế trong lĩnh vực 
CSSKTMT bao gồm cả công tác tư vấn. 
5. Khảo sát các hệ thống dịch vụ liên quan, bao gồm tiêm chủng phòng Rubella và 
bổ sung acid folic. 
6. Đề xuất các khuyến nghị can thiệp nhằm cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe 
trước mang thai. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, định lượng kết hợp định tính. 
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Tổng số có 98 người tham gia vào nghiên cứu gồm: 
- Lãnh đạo các đơn vị y tế tuyến quận/ huyện và thành phố (bao gồm cả Sở Y tế và 
các bệnh viện). 
- Người cung cấp dịch vụ y tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các dịch vụ 
chăm sóc trước mang thai ở cả 3 tuyến thành phố, quận/ huyện và xã/ phường. 
- Phụ nữ, nam giới ở độ tuổi sinh sản và thuộc nhóm đối tượng khách hàng của các 
dịch vụ chăm sóc trước mang thai. 
66 
3.3. Phương pháp thu thập số liệu: 
- Nghiên cứu các tài liệu, văn bản sẵn có 
- Thảo luận nhóm (10 cuộc), phỏng vấn sâu (24 cuộc) 
- Quan sát địa điểm cung cấp dịch vụ và quan sát một buổi tư vấn (16 cuộc). 
- Thu thập thông tin qua phiếu tự điền phát cho đối tượng nghiên cứu là người 
cung cấp dịch vụ nhằm tìm hiểu các kiến thức liên quan đến CSSKTMT 
Các chủ đề khảo sát bao gồm: 
- Những chính sách và hướng dẫn, và các chương trình hiện có liên quan đến 
CSSKTMT 
- Tổ chức của mạng lưới chăm sóc SKSS liên quan đến CSSKTMT 
- Các dịch vụ/ các chương trình CSSKTMT hiện có 
- Khả năng cung cấp các dịch vụ CSSKTMT của nhân viên y tế 
- Mô tả các chương trình đào tạo về CSSKTMT bao gồm cả đào tạo về tư vấn 
- Cảm nhận và đánh giá của khách hàng về các dịch vụ CSSKTMT 
- Các khuyến nghị nhằm cải thiện việc cung cấp các dịch vụ CSSKTMT 
3.4. Xử lý và phân tích số liệu 
Thông tin thu thập từ các phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và quan sát được mã 
hóa, nhóm và phân tích theo chủ đề và nhóm câu hỏi. Các dữ liệu cũng được phân tích, 
tổng hợp và báo cáo theo tuyến (thành phố - quận/ ... iễm tác nhân hóa học 12 1 3 6 2 
Nhiễm vi sinh vật 16 3 6 6 1 
Bệnh mãn tính 0 0 0 0 0 
Tiền sử sản khoa 8 3 0 2 3 
Bất thường cơ thể 1 0 1 0 0 
Tâm lý 1 0 0 0 1 
Tiền sử dùng thuốc 4 1 1 1 1 
Lạm dụng thuốc lá, chất kích thích 7 1 5 0 1 
70 
Về việc dùng acid Folic: Câu trả lời thường gặp là bổ sung viên sắt- acid folic từ 
khi mang thai đến 1 tháng sau khi sinh, trong khi hướng dẫn của Vụ SKBM-TE và các tổ 
chức quốc tế thì nên bổ sung acid folic hàng ngày ít nhất là 1 tháng trước khi mang thai 
và trong 3 tháng đầu của thai kỳ với liều 400 mcg/ngày. 
Nguyên nhân của việc thiếu hụt kiến thức nói trên theo các đối tượng nghiên cứu 
là do thiếu các hoạt động tập huấn, hướng dẫn trong lĩnh vực CSSKTMT. 
4.4.3. Năng lực cung cấp dịch vụ 
Đa số cho rằng CSSKTMT là một lĩnh vực còn mới mẻ và họ cũng chưa được hướng 
dẫn nên họ chưa đủ tự tin và chưa đủ khả năng để hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng. 
“Bản thân ít nghe về CSSKTMT, chưa được tập huấn gì nên nghĩ rằng kiến thức 
chưa đủ, chưa đủ khả năng, chưa có tự tin để hướng dẫn, chưa có kỹ năng tư vấn cho 
phụ nữ.” - Nữ hộ sinh, Trạm y tế. 
Bảng 2: Kết quả quan sát về kỹ năng tư vấn (n=16) 
Kỹ năng tư vấn Tốt Chưa tốt Không làm 
Chào hỏi 14 2 0 
Tìm hiểu 8 6 2 
Lắng nghe 5 9 2 
Cung cấp thông tin 13 3 0 
Tìm hiểu khó khăn 0 6 10 
Thảo luận giải pháp 0 6 10 
Cam kết 6 6 4 
Tính bí mật, riêng tư 2 11 3 
Kết quả bảng 2 cho thấy trong 16 ca quan sát dịch vụ tư vấn thì chỉ có bước chào hỏi 
và cung cấp thông tin được làm tương đối tốt với tỉ lệ lần lượt là 14/16 ca và 13/16 ca. Các 
bước tìm hiểu những khó khăn cũng như thảo luận các giải pháp với khách hàng trong 
quá trình tư vấn chưa được làm tốt hoặc bị bỏ qua. 
Địa điểm tư vấn: Đa số các CSYT thường tiến hành việc tư vấn cho khách hàng ngày 
tại bàn tiếp đón hoặc khám bệnh nên không đảm bảo tính riêng tư, kín đáo. 
Phương tiện, tài liệu: Phần lớn CBYT trả lời rằng họ chưa có một bảng quy trình 
hoặc một bảng kiểm hướng dẫn về các vấn đề cần tư vấn trong CSSKTMT. Khi có khách 
hàng họ thường tư vấn theo những gì khách hàng hỏi hơn là hướng dẫn một cách bài bản và 
theo trình tự các bước như trong hướng dẫn của Chuẩn quốc gia về SKSS. Các quan sát tại 
10 địa điểm tư vấn cũng không ghi nhận thấy loại tài liệu truyền thông nào về CSSKTMT. 
71 
4.4.4. Các dịch vụ lâm sàng và cận lâm sàng về CSSKTMT sẵn có 
Nhìn chung số lượng khách hàng đến với mục đích chính là để được hướng dẫn 
và CSSKTMT còn ít, trung bình chỉ 2-3 ca một tháng. Ngay cả Trung tâm CSSKSS là 
nơi có số lượng khách hàng đông thì số lượng đến khám vì mục đích chuẩn bị mang thai 
cũng chỉ khoảng vài ca/ tuần. 
“Một tháng có vài ca đến khám và hỏi về việc chuẩn bị mang thai, đa số họ là 
những người trước đây đã có vấn đề như sẩy thai, sinh con có dị tật, hiếm muộn. Còn 
người bình thường đến để kiểm tra sức khoẻ để mang thai thì rất ít” 
 BS Sản phụ khoa tuyến thành phố 
Ngoài các đơn vị trong hệ thống CSSKSS, các khách hàng tìm kiếm dịch vụ 
CSSKTMT còn đến tại các cơ sở y tế khác để khám trước khi kết hôn hoặc mang thai. Ví dụ 
như: đến TTYTDP để tiêm chủng, đến Bệnh viện Da Liễu để khám bệnh lây truyền qua 
đường tình dục, đến Trung tâm Phòng chống HIV/ AIDS để xét nghiệm HIV, 
 “Chúng tôi cũng có khách hàng đến hỏi về các vấn đề CSSKTMT, nhưng cũng 
không nhiều, lâu lâu mới có 1-2 người. Còn nhiều người thì đến chủ yếu bên đội YTDP 
để tiêm phòng Rubella.”- BS. Sản phụ khoa tuyến quận/huyện. 
Các đơn vị điều trị vô sinh là nơi có nhiều khách hàng có nhu cầu về CSSKTMT 
hơn mặc dầu họ đến với mục đích chính là điều trị hiếm muộn. Tuy nhiên, việc khám và 
điều trị chủ yếu tập trung vào những vấn đề có khả năng gây vô sinh, chưa có hướng dẫn 
CSSKTMT một cách hệ thống cho các đối tượng này. 
“Đối tượng này tôi gặp khá nhiều, vì khoa này có điều trị hiếm muộn.Về phác đồ 
xử lý đối với những trường hợp cần CSSKTMT thì tôi chưa có” 
BS Sản phụ khoa tuyến thành phố 
Tại các trạm y tế: Những dịch vụ liên quan đến CSSKTMT hiện có tại tuyến xã/ 
phường gồm có: Khám phụ khoa, tư vấn SKSS, tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ mang 
thai, xét nghiệm VIA sàng lọc ung thư cổ tử cung, chẩn đoán có thai bằng que thử, xét 
nghiệm protein và đường niệu bằng que thử. Một số trạm y tế có xét nghiệm viêm gan B 
bằng que thử, xét nghiệm đường máu bằng lấy máu đầu ngón tay. Ngoài ra, các trạm y tế 
cũng cung cấp các biện pháp KHHGĐ căn bản như đặt vòng, cung cấp bao cao su và viên 
thuốc tránh thai. Về dịch vụ CSSKTMT, mỗi tháng chỉ có 1-2 ca đến hỏi thông tin về một 
số vấn đề liên quan như tiêm phòng rubella hoặc KHHGĐ khi họ có dự định mang thai. 
Tại các TTYT quận/ huyện: Thường có đầy đủ các phương tiện xét nghiệm và chẩn 
đoán căn bản như xét nghiệm máu, nước tiểu, siêu âm, một số đơn vị có cả máy chụp cắt lớp 
CT scanner. Các khoa Phụ - Sản tuyến quận/ huyện hiện nay chủ yếu tập trung vào các dịch 
vụ khám phụ khoa, chăm sóc thai nghén và đỡ đẻ. Vì lượng khách hàng đến khám chuyên 
về CSSKTMT còn ít nên dịch vụ này hầu như chưa được triển khai một cách có hệ thống. 
Tại các đơn vị tuyến thành phố: Có gần như đầy đủ các dịch vụ CSSKTMT. Những 
dịch vụ còn thiếu gồm có xét nghiệm về nhiễm sắc thể và một số xét nghiệm kỹ thuật cao về 
72 
miễn dịch. Đối với những xét nghiệm này thì thường mẫu nghiệm được lấy và gửi đi Huế 
hoặc thành phố Hồ Chí Minh hoặc chuyển bệnh nhân đi. Vì CSSKTMT chưa được truyền 
thông và quảng bá tốt nên lượng khách hàng ở tuyến thành phố cũng còn ít. 
Các dịch vụ về tiêm chủng và bổ sung acid folic 
Bổ sung acid folic: Trước năm 2005, có một số chương trình cấp bổ sung miễn 
phí viên sắt và acid folic cho phụ nữ mang thai, đặc biệt là ở những vùng khó khăn, do 
Chính phủ hỗ trợ thông qua các Dự án Dinh dưỡng của quốc gia. Những năm gần đây, 
các chương trình cấp miễn phí thu hẹp dần. Hiện nay, hàng năm chỉ còn một chương 
trình cấp miễn phí viên sắt-acid folic cho khoảng 1000 phụ nữ mang thai diện khó khăn 
từ nguồn của dự án Cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em. Mỗi phụ nữ được cấp 90 viên 
sắt – acid folic uống trong 3 tháng của thai kỳ. Đa số họ được cấp khi đến khám thai và 
tiêm phòng uốn ván vào tháng thứ 4 – 5 của thai kỳ. 
Tiêm phòng vắc xin: các đơn vị y tế dự phòng và các CSYT tuyến thành phố là 
những đơn vị cung cấp dịch vụ tiêm phòng vắc xin cho phụ nữ trước mang thai. Rubella là 
loại vắc xin thường được tiêm nhất. Thời điểm tiêm phòng Rubella là một cơ hội tốt để cung 
cấp thông tin và hướng dẫn cho phụ nữ về CSSKTMT. Tuy nhiên, qua trả lời phỏng vấn của 
cán bộ TTYTDP cho thấy rằng họ chưa được tập huấn gì về CSSKTMT, nếu được trang bị 
kiến thức về lĩnh vực này sẽ góp phần vào việc hướng dẫn và tư vấn cho phụ nữ tốt hơn về 
CSSKTMT khi họ đến tiêm phòng. 
4.4.5. Các hoạt động truyền thông về CSSKTMT 
Đã có một số hoạt động TTGDSK về những vấn đề liên quan đến CSSKTMT được 
thực hiện tại Đà Nẵng. Ví dụ: hoạt động truyền thông về CSSKSS vị thành niên – thanh 
niên, các biện pháp KHHGĐ, bệnh STI, tiêm chủng, phòng ngừa DTBS cũng đã được thực 
hiện bởi Trung tâm TTGDSK và các đơn vị khác. Tuy nhiên, các hoạt động TTGDSK chưa 
đề cập một cách hệ thống và bài bản về chủ đề CSSKTMT. 
“Đơn vị tôi thực hiện các hoạt động truyền thông sức khỏe nói chung nên đã có 
nhiều nội dung liên quan đến CSSKTMT được đăng tải trên truyền hình cũng như các ấn 
phẩm. Ví dụ các nội dung CSSKSS vị thành niên, các nội dung về KHHGĐ, các nội dung 
về hiếm muộn, các bệnh STIs, các nội dung hướng dẫn tiêm chủng cũng như đề phòng dị 
tật bẩm sinh.v.v Tuy nhiên nói chuyên sâu về CSTMT thì không có, hay đúng ra là 
chưa tổng hợp thành chuyên đề riêng.” – Cán bộ lãnh đạo Trung tâm TTGDSK. 
“Về các hoạt động TTGDSK về CSSKTMT thì trạm y tế chưa bao giờ thực hiện, 
không có tờ rơi gì về CSSKTMT.” - NHS Trạm y tế Hòa Xuân. 
4.4.6. Hệ thống đào tạo và giám sát hỗ trợ của ngành y tế về CSSKTMT 
Hầu hết các CBYT chưa được đào tạo, tập huấn về CSSKTMT 
“Chưa có ai được tập huấn chuyên về CSSKTMT. Chưa có đơn vị nào tổ chức 
tập huấn về CSSKTMT”- Các CBYT tuyến quận/ huyện. 
73 
4.5. CSSKTMT kết quả nghiên cứu từ các đối tượng nhận dịch vụ 
4.5.1. Cảm nhận về tầm quan trọng của CSSKTMT: 
Phần lớn đối tượng khách hàng trong nghiên cứu này cũng đều nghĩ rằng CSSKTMT 
đóng vai trò quan trọng đối với việc mang thai và sinh đẻ của người phụ nữ. 
 “Chăm sóc rồi mới trổ bông thì hay hơn chớ trổ bông rồi mới chăm sóc thì nói 
làm chi.” – Khách hàng nam giới. 
4.5.2 Kiến thức, thực hành về CSSKTMT 
Nguồn tiếp nhận thông tin: Những hiểu biết về CSSKTMT thường có được từ 
Internet, báo, đài, sách, đồng nghiệp, người lớn tuổi, trạm y tế, tiệm thuốc tây. Đặc biệt 
những phụ nữ ở thành phố, làm công việc văn phòng thì hay đề cập đến Internet và các trang 
web như là một nguồn thông tin mà họ thường xuyên tiếp cận. Ngoài ra, những ngày truyền 
thông dân số được tổ chức 2 lần trong một năm tại các TYT xã/phường cũng là lúc phụ nữ 
có thể được cung cấp các thông tin liên quan đến CSSKTMT. Tuy nhiên cũng có một số phụ 
nữ và nam giới trước đây chưa từng nghe nói và chưa từng biết đến CSSKTMT. 
Kiến thức về CSSKTMT: Có sự khác biệt giữa kiến thức của phụ nữ và nam giới. Phụ 
nữ dường như có kiến thức về CSSKTMT tốt hơn. Trả lời câu hỏi về những gì cần làm trước khi 
mang thai để thai phát triển tốt và sinh ra những đứa con khỏe mạnh thì phụ nữ thường đề cập 
đến tiêm phòng vắc xin, bổ sung viên sắt-acid folic, dinh dưỡng tốt, phòng tránh viêm gan B và 
các bệnh STIs. Với nam giới, khi được hỏi thì cho rằng phụ nữ nên ăn uống dinh dưỡng tốt và 
tâm lý thoải mái, nam giới nên kiêng rượu bia, giảm hút thuốc lá, dinh dưỡng dưỡng tốt, luyện 
tập thể dục thể thao. Một số nam giới có đề cập về việc tiêm phòng Rubella và viêm gan B cho 
người vợ trước khi mang thai, không ai biết về acid folic. 
Thực hành CSSKTMT: Những thực hành phổ biến nhất về CSSKTMT đối với phụ nữ: 
tiêm phòng vắc xin ngừa Rubella, uống viên sắt, dinh dưỡng hợp lý, tâm lý thoải mái. Đối với 
nam giới: Kiêng rượu bia, giảm thuốc lá, dinh dưỡng tốt và tập luyện thể dục thể thao 
4.5.3. Cảm nhận về dịch vụ tại các cơ sở y tế 
Những cảm nhận và đánh giá của khách hàng về các CSYT mà họ từng đến nhận 
dịch vụ thì rất khác nhau nhưng những vấn đề họ thường nêu ra là: 
- Chưa có truyền thông tư vấn về CSSKTMT một cách có hệ thống. 
- Thời gian làm thủ tục và chờ đợi để khám bệnh còn lâu. 
- Thái độ giao tiếp của nhân viên y tế đôi khi còn chưa tốt. 
- Thời gian dành cho tư vấn còn ít và chưa giải đáp hết được những thắc mắc của 
khách hàng. 
- Một số nơi phí dịch vụ y tế còn cao. 
74 
5. Kết luận 
- Các văn bản, tài liệu hướng dẫn về CSSKTMT đã có tương đối đầy đủ. Tuy 
nhiên, nhiều CBYT không biết nội dung CSSKTMT cũng đã có trong Chuẩn 
quốc gia về SKSS. 
- Phần lớn cán bộ y tế, đặc biệt là những người trực tiếp cung cấp dịch vụ chưa 
được trang bị các kiến thức về CSSKTMT. 
- Công tác tư vấn về CSSKTMT còn nhiều hạn chế: CBYT chưa tự tin, chưa có 
quy trình hướng dẫn, chưa có sự giám sát hỗ trợ tốt, thời gian dành cho tư vấn 
quá ít, khu vực tư vấn chưa đảm bảo tính riêng tư. 
- Các dịch vụ như tiêm phòng Rubella, bổ sung acid Folic đã được một số đơn vị y 
tế triển khai. 
- Hiểu biết của khách hàng về CSSKTMT còn hạn chế. 
6. Khuyến nghị 
Về tổ chức, quy trình 
- Xây dựng một kế hoạch hoặc dự án cụ thể nhằm cải thiện các hoạt động CSSKTMT 
- Tổ chức một hội thảo chuyên đề về CSSKTMT. 
- Sở Y tế ban hành các văn bản hướng dẫn và quy trình liên quan đến CSSKTMT. 
- Triển khai lồng ghép các dịch vụ CSSKTMT vào các dịch vụ CSSKSS hiện có. 
- Phát triển các dịch vụ chuyên sâu về CSSKTMT. 
Về truyền thông GDSK 
- Đối tượng truyền thông: Các cặp vợ chồng có kế hoạch sinh con, thanh niên chuẩn bị 
kết hôn. 
- Thời điểm thuận lợi để truyền thông: khi đi khám, đi tiêm phòng, khi đi đăng ký 
kết hôn, lồng ghép vào các hoạt động truyền thông khác. 
- Phương pháp truyền thông: Trực tiếp (nói chuyện, tư vấn), gián tiếp (phát thanh, 
truyền hình, tờ rơi, triển lãm ảnh, pano, áp phích). 
- Phương tiện truyền thông: Cần phát triển đa dạng các tài liệu truyền thông về 
CSSKTMT (tờ rơi, áp phích, pano, tranh lật). 
Về đào tạo và giám sát hỗ trợ 
- Nên tổ chức các lớp tập huấn có thời gian từ 3 – 5 ngày . 
- Lồng ghép các kiến thức về CSSKTMT vào nội dung đào tạo hàng năm cho 
mạng lưới cộng tác viên dân số - sức khỏe cộng đồng. 
- Nội dung đào tạo nên phù hợp với các loại đối tượng khác nhau. 
- Cần tổ chức tham quan học tập những mô hình CSSKTMT đã được triển khai ở 
một số tỉnh thành trong cả nước. 
75 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế, Quyết đinh 25/QĐ-BYT ngày 07/01/2011 Hướng dẫn chuyên môn về tư 
vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân. 
2. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1199/QĐ-TTg ngày 31/08/2012 Phê duyệt 
chương trình mục tiêu quốc gia dân số và KHHGĐ giai đoạn 2012-2015 
3. Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản thành phố Đà Nẵng, Báo cáo tổng hợp 
tình hình nhân lực mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2012. 
4. Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em – Bộ Y tế, Tài liệu đào tạo phòng ngừa khuyết tật 
bẩm sinh, 2012. tr.2. 
5. American College of Obstetricians and Gynecologists. Preconceptional care. ACOG 
Technical Bulletin No. 205, May 1995. Int J Gynaecol Obstet. 1995;50:201–7. 
6. Brundage SC. Preconception health care. Am Fam Physician. 2002;65:2507–14. 
7. Buie, E.M. An Examination of the Impact of Preconception Health on Adverse 
Pregnancy Outcomes through the Theoretical Lens of Reciprocal Determinism. 
A dissertation submitted in partial fulfillment of the requirements for the degree 
of Doctor of Philosophy. Department of Community and Family Health. College 
of Public Health. University of South Florida. Date of Approval: April 5, 2011 
8. Dewees, W.P. (1858). A treatise on the physical and medical treatment of 
children. 11th edition. Philadelphia: qtd. In Buie. 
9. Preconception care, Ayurveda style. Available on Oct. 2nd at: 
abode.com/node/1580. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_thuc_trang_he_thong_cham_soc_suc_khoe_truoc_mang.pdf