Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá

Trần Thuỳ Mai là nhà văn nữ với phong cách sáng tác mang đậm

bản sắc giới cũng như bản sắc văn hoá truyền thống. Điều đó được thể hiện

rõ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, với kiểu nhân vật mặt nạ, nhân vật

văn hoá mang các chuẩn mực đạo đức cộng đồng Sử dụng phương pháp

khảo sát văn bản, so sánh đối chiếu văn hoá, văn học, bài báo khẳng định tài

năng nghệ thuật và những đóng góp của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng

các kiểu loại nhân vật và lưu trữ những giá trị văn hoá.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 1

Trang 1

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 2

Trang 2

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 3

Trang 3

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 4

Trang 4

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 5

Trang 5

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 6

Trang 6

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 9800
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy mai từ góc nhìn văn hoá
 Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
ISSN 1859-1612, Số 1(57)/2021: tr.5-11 
Ngày nhận bài: 03/8/2020; Hoàn thành phản biện: 10/8/2020; Ngày nhận đăng: 11/8/2020 
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ* 
HOÀNG THỊ HUẾ1,* 
NGUYỄN XUÂN THÀNH2, NGUYỄN PHƯỚC MINH NHẬT3,** 
1Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
2Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
3Sinh viên, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
*Email: hoangthihue@dhsphue.edu.vn 
**Email: npmnhat@dhsphue.edu.vn 
Tóm tắt: Trần Thuỳ Mai là nhà văn nữ với phong cách sáng tác mang đậm 
bản sắc giới cũng như bản sắc văn hoá truyền thống. Điều đó được thể hiện 
rõ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, với kiểu nhân vật mặt nạ, nhân vật 
văn hoá mang các chuẩn mực đạo đức cộng đồng Sử dụng phương pháp 
khảo sát văn bản, so sánh đối chiếu văn hoá, văn học, bài báo khẳng định tài 
năng nghệ thuật và những đóng góp của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng 
các kiểu loại nhân vật và lưu trữ những giá trị văn hoá. 
Từ khoá: Trần Thuỳ Mai, nhân vật, mặt nạ, văn hoá, đạo đức. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trần Thùy Mai là một gương mặt nhà văn nữ khá quen thuộc với bạn đọc trong và ngoài 
nước từ trước đến nay. Sống gắn bó với đất và người xứ Huế từ nhỏ, nét nhu mì, u hoài 
mà nồng nàn bạo liệt của con người và cảnh vật của thành phố cổ kính này đã thấm đẫm 
những trang văn của bà. Nhắc đến Trần Thuỳ Mai, độc giả trong và ngoài nước thường 
nói nhiều đến một phong cách sáng tác giàu bản sắc giới và bản sắc văn hoá vùng miền. 
Điều đó thể hiện rõ không chỉ trong ngôn ngữ và các phương diện khác của tác phẩm, mà 
còn được khẳng định rõ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Với sự am hiểu sâu sắc về 
văn hoá, lịch sử, con người kết hợp với sự trải nghiệm cá nhân, vốn sống phong phú, 
những nhân vật của bà luôn mang dấu ấn riêng rất độc đáo và ấn tượng. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Dạng thức nhân vật mặt nạ 
Chất lượng của một tác phẩm văn học nằm phần lớn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Đó 
là thế giới hiện thực về con người được nhà văn hình tượng hoá một cách nghệ thuật 
thông qua lăng kính cảm xúc, trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ. Giá trị biểu đạt về 
đời sống, đọng lại trong bạn đọc chính là những suy tư về số phận con người trong tác 
phẩm. Vì vậy, có thể xem xét ở nhiều tiêu chí khác nhau để thấy sự đa dạng, phong phú 
trong nghệ thuật xây dựng các dạng thức nhân vật của nhà văn Trần Thuỳ Mai. Khi khảo 
sát những truyện ngắn tiêu biểu của bà, có thể thấy sự tồn tại một kiểu loại nhân vật có thể 
xem là nhân vật mặt nạ, dù không hoàn toàn theo đúng hàm nghĩa này. Vào thời gian 
6 HOÀNG THỊ HUẾ và cs. 
khoảng 9.000 năm trước, mặt nạ đã được người nguyên thủy tạo ra nhằm thể hiện niềm 
thành kính với thần linh, ma quỷ hay tổ tiên. Ngoài các mặt nạ biểu thị nhân diện, còn có 
những loại mặt nạ mang gương mặt của thú vật. Mặt nạ ban đầu mang chức năng nghi lễ 
nên rất to lớn, dị thường. Như vậy, mặt nạ ra đời không phải để biểu diễn giải trí mà vì tín 
ngưỡng và tôn giáo. Vì ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mặt nạ trở thành chủ đề quan trọng trong 
việc nghiên cứu nhân học và tôn giáo học. “Mặt nạ là khái niệm phức hợp và đa nghĩa 
trong văn hoá dân gian. Mặt nạ của văn hoá dân gian gắn với niềm vui của sự đổi thay và 
hoá thân, phủ định sự trùng hợp ngu độn của sự vật với bản thân chúng, là sự đổi dạng, 
biến hình, là hiện thân của yếu tố chơi diễn của sự sống” [2; tr.81]. Trong sáng tác của 
Trần Thuỳ Mai, do sự chế định của văn hoá, đa số những nhân vật của Trần Thuỳ Mai lựa 
chọn sống phần đời còn lại của mình trong một kiểu con người mặt nạ. Ở tác phẩm của 
bà, mặt nạ mang một số ý nghĩa mới, khác với bản chất nguyên khởi của nó. Con người 
sử dụng mặt nạ để hoá thân vào một thân phận khác, nếu trong truyền thống, là thần linh 
chẳng hạn, để đủ tự tin trong giao tiếp với đấng siêu nhiên, thì, trong truyện ngắn của 
Trần Thuỳ Mai, sử dụng mặt nạ là để ẩn mình trong một sự thật khác, hoặc giấu đi một sự 
thật. Mặt nạ biểu thị cho sự tráo trở lẫn sự đa đoan của con người, đồng thời mặt nạ cũng 
biểu thị cho ý niệm về hiện tượng “nhiều hơn một mặt”. Mặt nạ trong truyện ngắn Trần 
Thuỳ Mai được sử dụng để che giấu một quá khứ, một bí mật cuộc đời, một nỗi niềm đau 
đáu từ những cô đơn, hoang hoải trong phận người... Đằng sau mặt nạ nhiều khi là sự 
trống rỗng đáng sợ của một cuộc đời vô nghĩa, do đã đánh mất lý do sống của đời mình, 
như nhân vật Cường, Niết, Hạnh, Trang... 
Trong cuộc sống thường ngày, kiểu nhân vật mặt nạ này được một bầu không khí đặc 
biệt nào đó bao phủ, tồn tại giữa đời thực như một mảnh nhỏ của một thế giới khác nào 
đó. Một phần cũng do mặc cảm sợ hãi thế giới của ta bỗng hoá thành thế giới của kẻ 
khác, nên Cường, Vũ, hay người hoạ sĩ, nhân vật Niết... chấp nhận ẩn thân trong những 
mặt nạ của con người bổn phận, trách nhiệm, phận vị, sống những ngày còn lại của cuộc 
đời mình trong vỏ bọc, không phải là mình, rơi vào bi kịch đánh mất mình, như kiểu 
nhân vật “bị chặt đầu”, do buộc phải đoạn lìa bản ngã, chỉ sống với những hoá thân 
trong kiểu mặt nạ mình mang vác. 
Trong truyện ngắn Em Dung, con đập và dòng sông trở thành hình tượng đa nghĩa giàu 
tính ẩn dụ, trong lời của người cha nói với con trai: “Con đập là kỷ cương của dòng 
sông nhưng nó không phải là chính dòng sông”. Lời của người cha đã mở ra hàm ngôn 
về bi kịch của những phận người phải sống sau mặt nạ, sống đời trách nhiệm, phận vị 
mà không được là chính mình. Mãi sau này, chứng kiến những sóng gió và khổ đau của 
bố mẹ mình, hai con người đang cầm tù cuộc đời nhau trong một cuộc hôn nhân không 
hạnh phúc, người con trai mới thấu hiểu. 
 Nhân vật tôi – người vợ, trong Bức tranh cuối cùng, sống nhẫn nhịn, vâng lời chồng, 
cưng con, chiều lòng cả họ hàng, chu toàn mọi việc nhưng chưa một lần nếm trải mùi vị 
của hạnh phúc, dù chỉ là hạnh phúc vợ chồng đời thường. Nhân vật người hoạ sĩ thì 
sống như một mảnh rời, được ghép bất đắc dĩ vào tổng  ... i mình, tài sản tinh thần duy nhất của mình - là đứa 
con. Phản ứng khóc tức tưởi, phá nát các con búp bê đất sét, đào luôn ụ đất sét sau nhà 
đổ xuống sông, là hành động phản vệ của con người ý thức những lo lắng hiện hữu 
trong cuộc đời mình được nhưng bất lực. 
Bên cạnh nỗi ám ảnh đánh mất / bất lực trước điều / người mình yêu thương, nỗi ghê sợ 
truyền kiếp đối với xác thịt con người bắt nguồn từ những tác động sâu xa của các quy 
tắc văn hoá Huế, tác động của nền giáo dục, tôn giáo... mà nhân vật được thụ hưởng: 
“Trước đó nhiều năm, hai vợ chồng đã ít nói với nhau. Tối đến, trước khi ngủ, tôi niệm 
kinh trước bàn Phật, không hiểu sao tôi cứ kéo dài những lời tụng ra, để khi vào phòng 
8 HOÀNG THỊ HUẾ và cs. 
thì anh đã ngủ. Hồi mới cưới, mỗi lần ôm tôi vào lòng anh thường trêu tôi, bảo tôi trên 
giường trông thật giống cô bé không thuộc bài bị gọi lên bục giảng. Sau nhiều năm, mỗi 
lần cố thức đợi tôi, anh không còn nụ cười âu yếm chế giễu ấy nữa. Vẻ chịu đựng của 
tôi cuối cùng đã làm anh tự ái. Có gì đó như một cơn dông âm ỉ giữa tôi và anh. Sau 
chuyện cái tượng của thằng Hân, anh rút về bên phòng vẽ, ngủ luôn bên đó. Về sau, 
chúng tôi đã trở lại hòa thuận, nhưng anh cũng không quay về nữa. Nước mắt tôi nhiều 
đêm chảy ướt gối. Tôi không hiểu điều gì xảy ra. Tôi yêu chồng, một lòng tận tụy với 
chồng. Vậy mà mỗi lúc anh gần tôi, chẳng hiểu sao một nỗi ghê sợ tự thâm tâm làm tôi 
chùn lại, như con ốc thu mình vào vỏ cứng...” (Bức tranh cuối cùng). 
Căn nguyên của những tín niệm mà nhân vật người vợ không thể vượt qua bắt nguồn từ 
cách nhìn thân xác theo quan niệm của chủ nghĩa khổ hạnh, cấm dục trong tư tưởng nhà 
Phật. Sau này, khi người chồng mất, nhìn thấy nỗi ghê sợ truyền kiếp của mình trên 
gương mặt cậu con trai tên Hân, nhận ra mọi chuyện, thì cũng đã muộn. Người chồng, 
người yêu của bà - hạnh phúc và khổ đau của đời bà - giây phút quay về với bà, không 
phải để sống, mà để chết, cái níu tay cuống quýt của người chồng, lời khẩn cầu mong 
được ở lại bên mình, trong giây phút lâm chung, như một sự níu kéo, một mặc cảm hối 
hận, tiếc nuối đến từ cả hai phía. Để sau đó là sự mở lòng của bà với hai mẹ con cô Thảo - 
người tình và cô con gái riêng của chồng. Tình huống truyện đặt trường tiếp nhận của độc 
giả dưới một cái nhìn mới, một hàm nghĩa mới, buộc độc giả phải tìm kiếm xem xét nét 
nghĩa mặt sau của chi tiết, sự kiện đó. Ở đây, nhà văn muốn nói đến hiện tượng xé bỏ mặt 
nạ, quay trở về với con người thật của chính mình của các nhân vật. 
Con đập, dòng sông, hay bức tượng đất sét ngây ngô của cậu bé Hân... là những ẩn dụ. 
Ngôn ngữ ở đây không còn là “công cụ diễn đạt của con người nữa mà là nơi cư ngụ 
của tâm hồn con người” [4; tr.96]. Ngôn ngữ trở thành ngôi nhà của chủ thể sáng tạo, nó 
chứa đựng và chuyển tải giúp nhà văn những nỗi niềm sâu kín là các quy ước văn hoá 
ẩn trong những hành xử, sinh hoạt của người Huế bao đời nay. Hình tượng văn học đã 
dẫn đưa người đọc tới miền thẳm sâu của ý thức, vô thức trong mỗi người, chạm tới 
những trầm tích văn hoá của dân tộc. Mỗi con người sẽ phải tự quyết định và lựa chọn 
cho mình những ứng xử thích hợp, bởi nó sẽ phân biệt con người với các loài vật khác, 
làm nên cái khác của mỗi cá nhân. “The biological choice of human beings does not 
distinguish human beings from other animals; it is through ethical choice that human 
beings really distinguish themselves from animals Human biological choice and 
ethical choice are two essentially different choices, the former being the choice of 
human form, the latter the choice of human nature” [5; tr.58]. Nhân vật mặt nạ biểu thị 
cho sự che giấu đi cái thật, càng chứa đựng nhiều ẩn dụ, nhân vật mặt nạ của Trần Thuỳ 
Mai càng khắc hoạ sâu hơn những ý niệm văn hoá, tôn giáo đã chi phối, ảnh hưởng sâu 
sắc đến đời sống con người, buộc họ phải chọn phương thức mặt nạ để ẩn thân. Và cũng 
để thấy rằng con người xưa nay vốn đa đoan. Bản chất mặt nạ là để bao phủ lên mặt 
thật, cuộc đời cũng không thiếu những người đeo mặt nạ lâu đến mức lạc mất mặt thật 
mà không hề có cảm giác thiếu thốn hay mất đi bản ngã. Cái hay của Trần Thuỳ Mai là 
nhân vật đã biết xé bỏ mặt nạ để nhận thức bi kịch đóng vai của đời mình. 
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI... 9 
2.2. Dạng thức nhân vật mang màu sắc văn hóa 
Ảnh hưởng của văn hoá cũng chi phối đến nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, kết 
cấu, ngôn ngữ Trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, ít có truyện nào có kết thúc 
sáng tỏ bằng một lựa chọn dứt khoát, cũng ít có nhân vật nào bất chấp đạo lý để thực 
hiện ước mơ của mình, (Quyên, Ni, Khánh, người hoạ sĩ...). Văn hoá Huế, một phần ảnh 
hưởng đến triết lý sống của người Huế, phần khác, còn là không gian tinh thần của 
người dân xứ Huế. Đằng sau tính cách của các nhân vật, cách hành xử, các mô típ, biểu 
tượng...vv, là các quy ước văn hoá. Nhà văn Trần Thùy Mai, qua những trang văn của 
mình, đã lưu giữ những giá trị truyền thống của dân tộc: “Tran Thuy Mai’s stories are 
full of Hue culture, Hue soul, from nature to daily life, customs to characters of Hue 
people. It is the special and distinguishable value of Tran Thuy Mai’s short stories in 
Vietnam contemporary literature” [6; tr.31]. 
Dẫu không phải là con vua cháu chúa, nhưng nếp nghĩ, nếp sống, sinh hoạt... mang vẻ 
trang nghiêm, đài các của một thời quá khứ vẫn được nâng niu, gìn giữ và gần như trở 
thành một nét tính cách đặc trưng của con người xứ Huế. Đó là cuộc sống của những 
con người như Trang (Khói trên sông Hương), cô tiểu thư khuê các Thể Cúc (Thể Cúc), 
Minh và Lan (Thương nhớ Hoàng Lan), là Bội Hoàn, là Phượng (Huyền thoại về loài 
chim phượng), hay chị Trúc (Chị Hai ơi), chị Vân, Vy, Mi, Kiều Dung... Nét riêng đó 
trong tính cách người Huế đã được Trần Thùy Mai thể hiện khá rõ trong tác phẩm của 
mình. “Trong mối quan hệ với người khác, người Huế lấy cái tâm làm gốc. Cái tâm bao 
gồm tình thương, sự nhường nhịn, lòng bao dung để bỏ qua thù hận, sự điềm tĩnh để 
không cuồng tín...” [9; tr.13]. Người phụ nữ Huế từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của lễ giáo 
phong kiến, phải công, dung, ngôn, hạnh, tam tòng tứ đức, phải nhẫn nại hy sinh, chịu 
thương chịu khó, nhường nhịn và chịu đựng... để mọi cái tốt đẹp. Edgar Morin gọi đó là 
hiện tượng “đóng dấu ấn (imprinting) về văn hóa và chuẩn mực hóa (normalisation) với 
vai trò áp đặt của văn hóa. Những con người thuộc nền văn hóa nào đó, do cách nhận 
thức của họ đều sản sinh nền văn hóa và văn hóa này lại sản sinh ra cách nhận thức của 
con người” [3; tr.42]. Ngay từ khi ra đời, dấu ấn văn hóa đã ăn sâu vào bộ não ấu thơ 
của con người do quá trình ổn định hóa các tiếp xúc có chọn lọc. Sống trong môi trường 
văn hóa cung đình, người Huế xưa phải chịu những áp lực của các chuẩn mực văn hóa 
từ các triều đại vua nhà Nguyễn trong tương quan chung với văn hóa Việt Nam, văn hóa 
phương Đông. Đó là sự ấn định những ranh giới không thể vượt qua, những quan niệm 
không được truyền bá, không được chấp nhận, bị khinh ghét. Chị Vân không được yêu 
Luân bởi chị hơn Luân mười tuổi, chị Trúc bị đuổi khỏi nhà vì yêu một người chỉ đáng 
tuổi em mình (Chị Hai ơi). Truyện ngắn Thập tự hoa, Lễ cưới bạc cũng viết về những 
tình yêu lệch chuẩn – những chuẩn mực do thể chế văn hóa, do con người tạo ra để phục 
vụ cho tính ổn định của xã hội. 
Hiển nhiên, bên trong chuẩn mực luôn tồn tại những lệch chuẩn do sự khác biệt giữa các 
cá nhân trong thái độ đối với chuẩn mực, quy tắc, lề luật văn hóa. Họ có thể đặt mình ra 
ngoài lề, hoặc nổi loạn như Quỳnh Thơ trong Lửa hoàng cung, Vũ (Thuốc ba màu), 
Trang (Khói trên sông Hương), Mi (Thiên đường mong manh)... Họ đều là những con 
10 HOÀNG THỊ HUẾ và cs. 
người khao khát vượt thoát khỏi những chế định chuẩn mực của hữu hạn đời người, 
nhưng bất lực. Quyên trong Cánh cửa thứ chín khát khao “được cháy rực suốt quãng 
đời còn lại”, say mê khám phá, tìm kiếm những giá trị mới mà “anh, anh cũng là một 
thế giới”... “muốn cùng anh lang thang trên bãi hoa dầu trắng phau... sẽ chịu bỏng, chịu 
cháy để được đau đớn, được yêu thương, muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự 
tẻ lạnh... thấy anh ở bên tôi. Chúng tôi đang bay lên và đang lơ lửng trước vực thẳm... 
cánh cửa thứ chín”. Nhưng rồi Quyên đã khước từ những lựa chọn không tương hợp với 
các tín niệm của cô. Đó là trường hợp mà Edgar Morin gọi là sự thôi miên về văn hóa từ 
thời thơ ấu, khiến người ta nhìn thấy cái mà thực chất là không phải cái ấy, là cách làm 
cho con người mù lòa do che khuất những cái thật sự tồn tại. Nó khiến Quyên cam tâm 
dừng lại trong hai cánh cổng, khóc cho chính mình và một thế giới vừa vỡ tan. Bởi đó 
cũng là một nguyên lý “trong tình yêu, hữu tính được hiểu và được thực hiện chân 
chính, bản thể nhận được sự nhập thân đến cùng, đến đích, vào trong đời sống cá thể 
của con người” [10; tr.76]. Có lẽ Quyên hay những nhân vật khác của Trần Thuỳ Mai, 
con người ước mơ và con người hữu tính vừa đồng nhất vừa không đồng nhất, đầy mâu 
thuẫn. Theo ý kiến của Nie Zhenzhao, có thể thấy trong văn học đương đại Việt Nam, ý 
thức đạo đức thể hiện sự chấp nhận một trật tự chuẩn mực đạo đức, và đòi hỏi con 
người viết ra kinh nghiệm đạo đức, chia sẻ nó với những người khác: “the Vietnamese 
contemporary poets’ ethical consciousness represented an acceptance of an ethical 
standard order “Ethical consciousness requires human beings to write down ethical 
experience and share it with others” [5; tr.60]. Đó là những đóng góp của nhà văn Trần 
Thuỳ Mai trong việc xây dựng các nhân vật mặt nạ, nhân vật văn hoá mang các chuẩn 
mực đạo đức cộng đồng. 
3. KẾT LUẬN 
“Khám phá con người là khám phá một vũ trụ nhỏ, hành hình muôn đời của nhân loại 
là hành trình khám phá, tìm hiểu, đào sâu bản thể con người ở nhiều khía cạnh khác 
nhau. Giải mã đời sống bí ẩn của con người với vô thức, tiềm thức, bản năng, từ cội 
nguồn văn hóa dân tộc, nhân loại, những trăn trở về lẽ tồn – vong, sinh – diệt, khổ - 
lạc, là đích đến của nhiều ngành trong đó có văn chương” [7; tr.4]. Trong những trang 
văn của Trần Thùy Mai, những trăn trở về hạnh phúc và khổ đau của con người, nhất là 
người phụ nữ, luôn là những ám ảnh, như một nét riêng, làm nên tên tuổi của nhà văn. 
Dẫu ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhân vật trong truyện ngắn của bà cũng luôn đằm sâu một vẻ 
đẹp văn hoá Huế. Đó là những con người giàu tình nặng nghĩa, tha thiết yêu cuộc sống, 
yêu thiên nhiên, đất nước, có một đời sống nội tâm phong phú. Đặc biệt, con người nơi 
đây luôn mang nét dịu dàng, kín đáo, u trầm nhưng bạo liệt, dám sống, dám làm theo 
khát vọng cá nhân. Nhưng đồng thời, ẩn sâu trong đời sống tâm hồn của những con 
người ấy, luôn là những gánh nặng phận vị do ảnh hưởng của nền văn hoá cung đình 
không dễ nhạt phai. Sự am hiểu, gắn bó máu thịt với văn hóa Huế khiến Trần Thùy Mai 
chuyển hóa nhuần nhuyễn những đặc trưng văn hóa vùng miền, từ nếp sống, nếp nghĩ, 
thói quen của con người nơi đây đến những không gian, thời gian văn hóa, ngôn ngữ, 
giọng điệu... riêng biệt độc đáo, chỉ có ở chốn kinh thành Huế. Từ đó thấy được nét 
riêng, giá trị độc đáo của truyện ngắn Trần Thùy Mai trên văn đàn Việt Nam đương đại, 
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI... 11 
đồng thời khẳng định vai trò lưu giữ và sáng tạo văn hóa của văn học nói chung, truyện 
ngắn Trần Thùy Mai nói riêng, thông qua những hình mẫu nhân vật rất độc đáo. 
* Nghiên cứu được tài trợ bởi Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, Mã số đề tài: T.20-
NV.SV.01. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Duy Bắc (2008) (Chủ biên). Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh 
xây dựng nền kinh tế thị trường hiện nay, NXB Từ điển bách khoa và Viện Văn hoá, 
Hà Nội, tr.131. 
[2] Bakhtine. M (2006). Tác phẩm của François Rabelais và nền văn hoá dân gian trung 
cổ và phục hưng, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.80-81. 
[3] Edgar Morin (2008). Phương pháp 4. Tư tưởng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr.42. 
[4] Martin Heidegger (1999). Trên đường đến với ngôn ngữ, (trong sách “Tác phẩm triết 
học”), NXB Đại học Sư phạm Hà Nội (Trương Đăng Dung dịch và giới thiệu), tr.96. 
[5] Hue Hoang Thi, Nguyen Nguyen Hoang (2020), Traditional Culture in Contemporary 
Vietnamese Poetry: A Perspective from Nie Zhenzhao’s Ethical Literary Criticism, 
International Journal Interdisciplinary Studies of Literature, Vol.4, No.1, March 2020. 
indexed by Arts and Humanities Citation Index, published by Knowledge Hub 
Publishing Company (Hong Kong). 
[6] Hue Hoang Thi (2017). Identify of Vietnamese Traditional Culture Through 
Contemporary Literature, Journal of International Journal of Intensive Studies on 
Language, Literature, Art, and Culture, ISSN : 2597-7385 (media online),vol 1, No 2, 
2017, Universitas Negeri Malang Publisher, Indonesia. 
[7] Hoàng Thị Huế (2015). Ánh xạ từ biểu tượng Cái Tôi trong thơ một số nhà thơ Việt 
Nam đương đại, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 4, NXB Đại học Huế. 
[8] Rirchard David Precht (2011). Tôi là ai và nếu vậy thì bao nhiêu, NXB Dân trí, Hà Nội 
[9] Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001). Huế - Di tích và con người, NXB Đà Nẵng, tr.13. 
[10] Vladimir Soloviev (2005). Siêu lý tình yêu, NXB Văn hóa Thông tin Hà nội, tr.76. 
Title: THE ART OF BUILDING CHARATERS IN TRAN THUY MAI’S SHORT STORIES 
IN TERMS OF CULTURAL VIEW 
Abstract: Tran Thuy Mai is a female writer with a creative style of gender identity and 
traditionally cultural identity. This is clearly shown in the art of building characters such as 
mask characters, cultural characters bearing the ethical standards of the community,... Using 
text survey methods, comparing cultural and literary collation, this research affirms the 
contribution and artistic talent of writers in building character types and values of cultural 
retention and creation of literature in general and short stories of Tran Thuy Mai in particular. 
Keywords: Tran Thuy Mai, character, mask, culture, ethics. 

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_xay_dung_nhan_vat_trong_truyen_ngan_tran_thuy_mai.pdf