Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại

Nhắc đến thành công của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại không thể

không nhắc đến vai trò của nhà văn trong nghệ thuật hư cấu nhiều dạng lời khác

nhau trong tác phẩm, đặc biệt ở phần lời văn gián tiếp. Đây là toàn bộ phần lời

của tác giả, của người kể chuyện có chức năng trình bày toàn bộ thế giới hình

tượng, kể cả các yếu tố nội dung, hình thức của lời nhân vật cho người đọc hiểu

rõ. Bài viết bước đầu nghiên cứu tiểu thuyết lịch ử iệt Nam đương đại ở

phương diện nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp qua lời gián tiếp một giọng và lời

gián tiếp hai giọng. Từ đó bài viết góp phần làm rõ những đặc trưng làm nên

thành công của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 1

Trang 1

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 2

Trang 2

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 3

Trang 3

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 4

Trang 4

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 5

Trang 5

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 6

Trang 6

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 7

Trang 7

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 8

Trang 8

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 9

Trang 9

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 10220
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại

Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại
13 
CHUYÊN MỤC 
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC 
NGHỆ THUẬT HƯ CẤU LỜI GIÁN TIẾP TRONG 
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 
(Khảo sát tác phẩm của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân 
Khánh, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Mộng Giác) 
 ĐOÀN THỊ HUỆ* 
Nhắc đến thành công của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại không thể 
không nhắc đến vai trò của nhà văn trong nghệ thuật hư cấu nhiều dạng lời khác 
nhau trong tác phẩm, đặc biệt ở phần lời văn gián tiếp. Đây là toàn bộ phần lời 
của tác giả, của người kể chuyện có chức năng trình bày toàn bộ thế giới hình 
tượng, kể cả các yếu tố nội dung, hình thức của lời nhân vật cho người đọc hiểu 
rõ. Bài viết bước đầu nghiên cứu tiểu thuyết lịch ử iệt Nam đương đại ở 
phương diện nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp qua lời gián tiếp một giọng và lời 
gián tiếp hai giọng. Từ đó bài viết góp phần làm rõ những đặc trưng làm nên 
thành công của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. 
Từ khóa: nghệ thuật trần thuật, hư cấu, lời gián tiếp, tiểu thuyết lịch sử 
Nhận bài ngày: 30/9/2019; đưa vào biên tập: 8/10/2019; phản biện: 26/10/2019; 
duyệt đăng: 15/3/2020 
1. GIỚI THIỆU 
Trong Sự đan cài các lớp ngôn ngữ 
trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975”, 
Ngô Thị Quỳnh Nga đã đánh giá cao 
nghệ thuật hư cấu lời văn trần thuật 
của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 
năm 1975: “Sự kết hợp đa dạng các 
hình thức ngôn ngữ đã đem lại sự 
khởi sắc cho tiểu thuyết lịch sử sau 
1975. Sự đổi mới trong ngôn ngữ tiểu 
thuyết lịch sử sau 1975 gắn với nhu 
cầu dân chủ hóa về ngôn ngữ, về 
nghệ thuật, nhu cầu bình đẳng, khách 
quan với lịch sử. Sự đổi mới này cho 
thấy các nhà văn sau 1975 đã không 
ngừng bứt phá làm mới mình, mạnh 
dạn thể nghiệm những hướng đi mới” 
(Ngô Thị Quỳnh Nga, 2010). Xét trên 
phương diện hư cấu nghệ thuật, sự 
* 
Trường Đại học Đồng Nai. 
 ĐOÀN THỊ HUỆ – NGHỆ THUẬT HƯ CẤU LỜI GIÁN TIẾP 
14 
kết hợp đa dạng các hình thức ngôn 
ngữ này là sự kết hợp đan cài hiệu 
quả giữa nghệ thuật hư cấu lời trực 
tiếp và lời gián tiếp trong tiểu thuyết 
lịch sử Việt Nam đương đại. Đặc biệt 
khi gia tăng nghệ thuật hư cấu lời gián 
tiếp, các nhà văn đã góp phần làm 
sinh động hóa bức tranh chung của 
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ 
XXI. Với nghệ thuật hư cấu lời gián 
tiếp hai giọng xuất hiện đan xen giữa 
cốt truyện, nhà văn đã trực tiếp bày tỏ 
suy nghĩ, quan điểm của mình trước 
các vấn đề, sự kiện lịch sử đã qua. 
Dụng công nhiều trong nghệ thuật hư 
cấu các lớp lời gián tiếp vừa hỗ 
trợ/đối kháng nhau vừa dung chứa/ 
tiêu trừ nhau, các nhà văn tiểu thuyết 
lịch sử Việt Nam đương đại đã gặt hái 
được những thành tựu nhất định khi 
kiến tạo thành công môi trường đối 
thoại đa chiều, công khai, dân chủ cho 
câu chuyện kể. Điều này đánh dấu sự 
đổi mới đột phá trong tư duy tự sự 
tiểu thuyết, xác lập nên nguyên tắc 
mới cho tiểu thuyết lịch sử Việt Nam 
đương đại ở nhu cầu luận giải quá 
khứ, suy tư về lịch sử dân tộc từ một 
góc nhìn rất sâu về lịch sử và những 
liên hệ rất mới về mối quan hệ giữa 
lịch sử với dân tộc. 
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 
Trong 150 thuật ngữ văn học, thuật 
ngữ “hư cấu nghệ thuật” được Lại 
Nguyên Ân (2004: 164) định nghĩa 
như sau: “Hư cấu nghệ thuật là một 
hoạt động đặc thù của sáng tạo nghệ 
thuật, trợ giúp cho việc dựng nên 
những dạng thức tồn tại có thể có và 
nói chung trợ giúp cho ý niệm về 
những gì có thể và cần phải có. Cái 
đặc tính năng sản của hư cấu được 
dựa trên cơ sở của tưởng tượng, là cái 
đảm bảo cho các việc tổ hợp, khái 
quát, tổng hợp trong quá trình hoạt 
động nghệ thuật”. Trong Từ điển văn 
học (bộ mới), ở mục từ, do Nguyễn 
Xuân Nam viết, hư cấu nghệ thuật 
trong sáng tác văn học được xem xét 
trên phương diện giá trị đóng góp: 
“Giá trị của hư cấu tùy thuộc vào vốn 
hiểu biết, trình độ nhận thức cuộc 
sống, lý tưởng thẩm mỹ và tài năng 
nghệ thuật của nhà văn Tùy theo 
thể loại văn học, tùy theo phương 
pháp sáng tác khác nhau, quá trình 
hư cấu diễn ra khác nhau và mang 
những sắc thái khác nhau” (Đỗ Đức 
Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn 
Tửu, Trần Hữu Tá, 2004: 59). Từ đây 
có thể hiểu, hư cấu là thủ pháp nghệ 
thuật đặc thù của hoạt động sáng tác 
văn chương. Mỗi nhà văn tùy theo trí 
tưởng tượng và tài năng sáng tạo 
nghệ thuật sẽ sử dụng hư cấu như 
phương thức nghệ thuật hiệu quả 
nhằm sáng tạo ra những giá trị mới, 
những yếu tố mới (như sự kiện, cảnh 
vật, nhân vật trong tác phẩm) nhằm 
làm nổi bật quy luật và bản chất cuộc 
sống. Trong chừng mực nhất định, hư 
cấu nghệ thuật vừa là đặc trưng thể 
loại vừa là thao tác nghệ thuật không 
thể thiếu trong tư duy sáng tạo tiểu 
thuyết. Từ vô vàn những gương mặt 
thật của cuộc sống đời thường và giữa 
muôn vàn các biến cố lịch sử trọng đại, 
thông qua việc thực hiện các biện 
pháp nghệ thuật đồng hóa và tái hiện 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
15 
bức tranh đời sống, bằng phương 
thức chọn lọc, tổng hợp, tái tạo, nhà 
văn hư cấu, sáng tạo nên tác phẩm 
văn học. Khi đó, hư cấu nghệ thuật trở 
thành yếu tố bộc lộ rõ nét năng lực 
sáng tạo dồi dào của nhà văn. 
Cùng với đó, ở tiểu thuyết lịch sử Việt 
Nam đương đại, lời kể là kiểu lời trần 
thuật chiếm số lượng lớn, có vai trò 
quan trọng giúp người kể chuyện tổ 
chức cấu trúc truyện kể. Nội dung 
truyện kể về cơ bản được hoàn chỉnh 
dần theo mạch trần thuật của người 
kể chuyện. Thông thường lời kể 
được thực hiện dưới dạng lời gián 
tiếp một giọng của người kể chuyện 
ngôi ba và người kể chuyện ngôi thứ 
nhất xưng “tôi”. Trong Lý luận văn 
học, tập thể tác giả đã thống nhất cho 
rằng: “Lời gián tiếp là toàn bộ phần 
lời văn của tác giả, của người trần 
thuật, hoặc người kể chuyện có chức 
năng trình bày toàn bộ thế giới hình 
tượng, kể cả các yếu tố nội dung, 
hình thức của lời nhân vật cho người 
đọc” (Phương Lựu và nhiều tác giả, 
2002: 335). Lời gián tiếp bao gồm hai 
dạng: lời gián tiếp một giọng và lời 
gián tiếp hai giọng (còn gọi là lời nửa 
trực ... 56). Đây là lời trực tiếp 
của người kể chuyện đồng thời cũng 
là lời của nhân vật xưng “tôi”. Cái “tôi” 
ấy cũng là người kể chuyện nên lời 
trực tiếp trở thành lời gián tiếp. Là lời 
gián tiếp nên nó có sức thuyết phục 
riêng, mang màu sắc cá tính, chủ thể 
rõ nét. Như thế, người kể chuyện đã 
có sự chuyển ngôi linh hoạt. Khi là lời 
của nhân vật, lúc lại là lời của tác giả. 
Sự thay đổi ngôi kể tạo điều kiện cho 
nhân vật tự ý thức về mình, về sứ 
mệnh, trách nhiệm của họ trước lịch 
sử. Điểm nhìn nội quan gắn liền hình 
thức tự quan sát của nhân vật xưng 
“tôi”, cùng sự tự thú và hình thức 
người kể chuyện tựa vào giác quan, đi 
sâu khám phá, lý giải chiều sâu tâm lý 
nhân vật, tạo nên sức hấp dẫn riêng 
cho trang tiểu thuyết. Ở Hồ Quý Ly, 
Nguyễn Xuân Khánh để toàn bộ câu 
chuyện lịch sử về xã hội Việt Nam thời 
cuối Trần đầu Hồ hiện lên sinh động 
với nhiều sự kiện, con người mang số 
phận cụ thể. Đi cùng sự kiện/xung đột 
lịch sử phức tạp là chuỗi diễn biến đời 
sống nội tâm phong phú, đa dạng của 
nhân vật lịch sử. Hơn nữa, trong vai 
trò người kể chuyện chính, nhân vật 
xưng “tôi” có nhiều lợi thế để hướng 
người đọc dịch chuyển dần về phía 
chủ đề chính của tác phẩm (trong khi 
chủ đề phụ vẫn được quan tâm). Điều 
này tạo nên sự chờ đợi, háo hức cho 
bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm. 
 ĐOÀN THỊ HUỆ – NGHỆ THUẬT HƯ CẤU LỜI GIÁN TIẾP 
18 
3.2. Nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp 
hai giọng/lời nửa trực tiếp 
Ưa chuộng hình thức trần thuật chủ 
quan hóa, tìm vào khám phá chiều 
sâu những ẩn ức thiên về đời sống 
nội tâm của nhân vật, tác giả tiểu 
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại 
dành nhiều ưu ái cho nghệ thuật hư 
cấu lời gián tiếp hai giọng biểu hiện cụ 
thể dưới hình thức lời nửa trực tiếp. 
Nghệ thuật hư cấu lời văn này “gián 
tiếp” ở cách kể chuyện nhưng “trực 
tiếp” trong ý thức, ngữ điệu và cảm 
xúc của nhân vật. Nếu nghệ thuật hư 
cấu lời gián tiếp một giọng là lời kể, 
lời tả có nhiệm vụ tái hiện, phân tích, 
lý giải thế giới khách quan, sự việc, 
con người cũng như tái hiện, phân 
tích, lý giải lời nói, ý thức nhân vật thì 
nghệ thuật hư cấu lời gián tiếp hai 
giọng là lời kể có hấp thu lời nhân vật. 
Tức là trong lời của người kể chuyện 
cùng lúc có cả lời trực tiếp hoặc lời 
gián tiếp biểu hiện suy nghĩ của nhân 
vật. Trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam 
đương đại, nghệ thuật hư cấu lời gián 
tiếp hai giọng thể hiện rõ sự đối thoại 
với ý thức khác của cùng đối tượng 
miêu tả. Việc hư cấu lời văn này cho 
phép tác giả chuyển di linh hoạt điểm 
nhìn trần thuật (từ khách quan sang 
nội quan), tạo tính đa thanh phức điệu, 
đa chủ đề cho tác phẩm. 
Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân 
sử dụng khá nhiều nghệ thuật hư cấu 
lời gián tiếp hai giọng là lời nửa trực 
tiếp, khắc họa đời sống tinh thần, tái 
hiện rõ nét con người bên trong nhân 
vật lịch sử. Đây là đoạn văn ghi lại 
tâm trạng của Thị Lộ: “Đã bao lần 
nàng tự hỏi hay là mình đòi hỏi chồng 
quá quắt trong hoàn cảnh chinh chiến, 
ông ấy còn gánh vác trách nhiệm Thái 
Sơn của nghĩa quân, giặc Minh còn 
giày xéo đất Đại Việt, nàng được thế 
này cũng đã quá sung sướng, lễ giáo 
và quân pháp ưu ái cho riêng nàng đã 
gây ra tị hiềm mà chồng nàng phải 
chịu đựng trong ấm ức. Nàng điểm lại 
rất nhanh trong ký ức nhiều năm qua, 
từ ngày nàng gặp chàng văn nhân 
mảnh khảnh trong một buổi chợ ở 
Nghi Tàm” (Nguyễn Quang Thân, 
2011: 39). Đặc tả tâm trạng nhân vật 
Tư Tề khi phải vâng lệnh vua cha vào 
thành Đông Quan làm con tin trước 
ngày diễn ra hội thề lịch sử, Nguyễn 
Quang Thân sử dụng nghệ thuật hư 
cấu lời gián tiếp hai giọng: “Chàng 
không ngán vào thành làm con tin 
nhưng chàng buồn vì từ đây phải rời 
xa vệ quân tinh nhuệ của chàng, 
chàng đã cùng họ vào sinh ra tử bao 
năm, biết bao giờ mới trở lại? Chàng 
chợt nghĩ tới Phạm Vấn khi vua cha 
nhắc tới Nguyên Long. Phải chăng cái 
ông cậu quý hóa ấy đã sắp đặt để bây 
giờ chàng là ông thiếu úy duy nhất 
không còn một tấc sắt, một mống lính? 
Cả lũ họ Phạm ấy đang nhe răng giũa 
vuốt với chàng mà chàng có tội gì cơ 
chứ ngoài việc là con trai của chúa 
công yêu quý của họ?” (Nguyễn 
Quang Thân, 2011: 301). 
Bức tranh tâm trạng nhân vật được 
dệt nên từ nhiều cung bậc tình cảm, 
cảm xúc. Mỗi nhân vật có tâm trạng, 
nỗi niềm tâm sự riêng. Tất cả được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
19 
nhà văn tái hiện bằng lời gián tiếp hai 
giọng/lời nửa trực tiếp - trực tiếp bày 
tỏ cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Đó 
là tâm trạng của Thị Lộ khi đứng trước 
sự lựa chọn giữa nỗi khao khát 
thường tình, nhu cầu được hưởng 
hạnh phúc chính đáng của người vợ 
với sự khắc kỷ cần có của mỗi cá 
nhân trong hoàn cảnh đất nước có 
biến. Câu văn trên về hình thức là lời 
gián tiếp của người kể chuyện nhưng 
trực tiếp ở phương thức thể hiện tâm 
trạng của nhân vật nên được gọi là lời 
nửa trực tiếp. Nỗi ưu tư canh cánh 
trong lòng cùng sự yêu thương, thấu 
hiểu của Thị Lộ dành cho chồng cũng 
hiển lộ rõ nét. Cũng như thế, nỗi buồn 
của Tư Tề khi phải rời xa vệ quân tinh 
nhuệ của mình cũng được lột tả: “Biết 
bao giờ mới trở lại?”. Giọng văn nao 
nao buồn thể hiện niềm dự cảm bất 
an của Tư Tề trước sự đề phòng, đố 
kỵ của Phạm Vấn. 
Như vậy, với nghệ thuật hư cấu lời 
gián tiếp hai giọng/lời nửa trực tiếp, 
Nguyễn Quang Thân vừa miêu tả, 
thuật kể vừa đi sâu miêu tả thế giới 
bên trong nhân vật dưới sự phân tích 
khách quan của người kể chuyện. 
Điểm nhìn trần thuật linh hoạt di 
chuyển tìm vào cảm giác và ý thức 
nhân vật lịch sử. Đa dạng hóa điểm 
nhìn trần thuật là biểu hiện cụ thể của 
phương thức trần thuật tiểu thuyết 
hiện đại và hậu hiện đại. 
Đến với Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân 
Khánh), người đọc dễ nhận ra nhiều 
sự kiện lịch sử đã được thực tại hóa 
trong cảm xúc nhân vật, được diễn 
đạt dưới hình thức lời nửa trực tiếp: 
“Đôi môi khô héo của ông không khỏi 
nhếch một nụ cười chua chát. (). 
Nhân từ ư? Thương dân ư? Những 
đức hạnh tốt đẹp đó thử hỏi trên đời 
này có ông vua nào hơn được cha 
con ông? Thế mà tại sao, tại sao 
nước Đại Việt này vẫn đói khát, loạn 
lạc; tại sao cơ đồ của tổ tiên ông lại 
ngả nghiêng” (Nguyễn Xuân Khánh, 
2010: 158-159). Người kể chuyện hay 
đúng hơn là nhà văn đã hư cấu lời kể 
chuyện xen lẫn lời trực tiếp bộc lộ tâm 
trạng, khiến cảm xúc nhân vật được 
truyền thẳng đến bạn đọc. Đó là cảm 
giác ăn năn hối lỗi gần như bất lực 
của ông vua già Nghệ Tông ở vào 
giây phút cuối đời. Ngẫm lại, hơn ba 
mươi năm ở ngôi, ông chưa làm được 
điều gì để chấn hưng đất nước. Trái 
lại, ông chỉ được hưởng ba năm thái 
bình. Sau đó, đất nước loạn lạc, chiến 
tranh liên miên, người dân đói khổ. 
Ông lúng túng không tìm ra hướng đi 
cho lịch sử. Đến tận giây phút cuối đời, 
ông tự dằn vặt bản thân và nghĩ rằng 
vì ông mà cơ nghiệp nhà Trần bị hủy. 
Lời văn bộc lộ trực tiếp cảm xúc nhân 
vật khiến người đọc hiểu rõ hơn bi 
kịch cười ra nước mắt của vị vua cuối 
nhà Trần. 
Ở đoạn khác, Nguyễn Xuân Khánh sử 
dụng nghệ thuật hư cấu lời nửa trực 
tiếp đặc tả bi kịch người trí thức trong 
hoàn cảnh loạn li: “Ông là người viết 
sử, người chiêm bốc. Toàn những 
chuyện đùa chơi với lửa cả. () Ta 
run sợ khi nghĩ đến điều đó, bởi chữ 
nghĩa có thể đảo điên biến ác thành 
 ĐOÀN THỊ HUỆ – NGHỆ THUẬT HƯ CẤU LỜI GIÁN TIẾP 
20 
thiện hay thiện chuyển sang ác”. 
(Nguyễn Xuân Khánh, 2010: 42). Hư 
cấu lời nửa trực tiếp, đi sâu khắc họa 
đời sống nội tâm nhân vật Sử Văn 
Hoa, Nguyễn Xuân Khánh trực tiếp 
đặt ra vấn đề trước lịch sử: Người trí 
thức, họ là ai? Họ đại diện cho cái gì, 
cho giai cấp nào trong xã hội? Trước 
hết phải thừa nhận: người trí thức 
không là công cụ thực thi quyền lực 
của một triều đại hay giai cấp nào. Họ 
là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. 
Khát vọng của họ là phục vụ chân lý. 
Nhưng ở vào thời cuộc “thiên túy”, 
chân lý không thuộc về ai nên họ bế 
tắc. Hồ Quý Ly muốn dùng trí thức để 
cai trị xã hội là điều hợp lý. Nhưng vì 
không hiểu họ nên ông dùng quyền 
lực áp đặt. Thái độ bất hợp tác của 
Trần Nguyên Đán, sự ra đi của Phạm 
Sinh, Chu Văn An, sự chống đối của 
Sử Văn Hoa là kết quả tất yếu. 
Nghệ thuật hư cấu lời nửa trực tiếp 
trong trường hợp này có tác dụng bộc 
lộ suy nghĩ, cảm xúc nhân vật về sự 
dấn thân của người trí thức trong sứ 
mệnh bảo vệ tính chân thật, khách 
quan của lịch sử. Qua đó, tập thể tác 
giả tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương 
đại cũng đã ngầm xác tín với bạn đọc 
rằng: sự thật lịch sử hay nói khác là 
sự chân thực cần có ở tiểu thuyết lịch 
sử là sự chân thành và trung thực của 
nhà văn trong việc giải mã lịch sử. Sự 
chân thực đó phải gắn với thước đo 
giá trị về sự chân thực trong cuộc 
sống. Đảm bảo được điều này, tiểu 
thuyết lịch sử sẽ hấp dẫn được bạn 
đọc. Như thế, người đọc mới có thể 
qua tiểu thuyết lịch sử minh định được 
nhiều giá trị cuộc sống còn náu mình 
trong kho tàng lịch sử văn hóa dân tộc. 
Trong Sông Côn mùa lũ, nghệ thuật 
hư cấu lời nửa trực tiếp được Nguyễn 
Mộng Giác ưu ái sử dụng ở những tiết 
đoạn đặc tả tâm tư, suy nghĩ bên 
trong nhân vật, đặc biệt là các nhân 
vật chính/nhân vật trung tâm của tác 
phẩm. Trước quyết định tiến quân ra 
Bắc diệt Trịnh phò Lê, lòng Nguyễn 
Huệ ngổn ngang bao suy tính trù liệu: 
“Không! Không! Ông không thể dừng 
lại làm một quan Trấn thủ thu mình 
tận hưởng tuổi đời trong cái thành cũ 
ven con sông Hương trầm lặng này! 
() Không! Không thể như thế được! 
Hoặc ông ngồi vững trên lưng ngựa 
giong cương cho lịch sử đưa xa về 
phía trước, cho đúng với ước nguyện 
của mọi người. Hoặc ông mù quáng 
kìm cương để con ngựa lịch sử hất 
ông xuống bùn và dày lên mà tiến?” 
(Nguyễn Mộng Giác, 2003: 946-947). 
Về mặt hình thức, đây là lời gián tiếp 
một giọng của người kể chuyện ngôi 
ba nhưng thực chất tiết đoạn trên là 
lời đặc tả trực tiếp tâm trạng, suy nghĩ 
của Nguyễn Huệ trước quyết định hệ 
trọng: hoặc vững bước tiến lên thuận 
theo đà quay của lịch sử hoặc sớm an 
phận, chấp nhận cương vị vị tướng 
miền biên viễn theo sự sắp đặt của 
vua anh. Từ đó, Nguyễn Mộng Giác 
giúp người đọc hiểu rõ hơn quá trình 
vận động, sự tự ý thức của Nguyễn 
Huệ trước quyết định táo bạo làm thay 
đổi cục diện lịch sử. Từ bấy lâu, trong 
tâm hồn ông luôn nung nấu ngọn lửa 
khát khao đấu tranh thống nhất đất 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
21 
nước. Ngọn lửa ấy được thắp lên từ 
quá trình nhận thức, suy tư, chiêm 
nghiệm của nhân vật về thời đại, bản 
thân, về vận mệnh quê hương, xứ sở. 
Gặp gió thời đại, nó nhanh chóng lớn 
mạnh thành bó đuốc rực cháy, soi 
đường dẫn lối cho vạn người cùng 
tiến bước. 
4. KẾT LUẬN 
Không giễu nhại hay hoài nghi, phủ 
nhận bản chất lịch sử, sức hấp dẫn 
của nghệ thuật hư cấu lời văn trần 
thuật gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử 
Việt Nam đương đại chủ yếu tựu trung 
ở tính đối thoại. Nguyên lý đối thoại là 
nguyên lý cơ bản của tiểu thuyết hiện 
đại. Tính đối thoại trong tiểu thuyết 
lịch sử Việt Nam đương đại cho thấy 
xu thế tiểu thuyết hóa đang là xu thế 
nổi bật của văn học Việt Nam giai 
đoạn sau Đổi mới. Nó ảnh hưởng 
đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, 
kết cấu trần thuật, thể hiện quan niệm 
tác giả ở nhu cầu đảm bảo tính dân 
chủ trong tự sự. Không chỉ đối thoại 
với lịch sử, khi hư cấu các dạng lời 
văn trần thuật, tác giả tiểu thuyết lịch 
sử Việt Nam đương đại còn chú ý 
làm đa dạng hóa các dạng lời văn, 
làm mới hình thức kể chuyện, gia 
tăng trường nhìn, đề cao tính đối thoại 
của tác phẩm. 
Khởi điểm của nghệ thuật hư cấu lời 
gián tiếp trong tiểu thuyết lịch sử Việt 
Nam đương đại là nghệ thuật hư cấu 
là lời kể, tả, lời trần thuật của người 
kể chuyện ẩn danh (ngôi ba) hoặc 
xưng “tôi” và sau là lời nửa trực tiếp 
mang giọng điệu của chính nhân vật 
trong câu chuyện kể. Trong tiểu thuyết 
lịch sử Việt Nam đương đại, ứng với 
người kể chuyện ngôi ba hoặc ngôi 
thứ nhất xưng “tôi”, nghệ thuật hư cấu 
lời gián tiếp một giọng thể hiện cụ thể 
dưới hình thức lời kể, lời tả nhằm mục 
đích thuật, tả, khắc họa tính cách 
nhân vật một cách chân thực, rõ nét. 
Song hành cùng nghệ thuật hư cấu lời 
gián tiếp một giọng, việc sử dụng 
thuần thục nghệ thuật hư cấu lời gián 
tiếp hai giọng/lời nửa trực tiếp là một 
thành công của tập thể tác giả tiểu 
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại. Sử 
dụng ở tần suất cao dạng lời văn nửa 
trực tiếp, tác giả tiểu thuyết lịch sử 
Việt Nam đương đại đã tạo nên tính 
song điệu cho tác phẩm, thực hiện 
thành công sự dung hợp giữa lời/ 
giọng của người kể chuyện ngôi ba 
với lời/giọng của nhân vật được kể 
đến trong câu chuyện kể. Sự kết hợp 
linh hoạt ấy trực tiếp tạo nên tính đa 
thanh phức điệu cho tiểu thuyết hiện 
đại và hậu hiện đại, khắc phục tính 
đơn âm một bè trong tiểu thuyết lịch 
sử Việt Nam giai đoạn trước.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên). 2004. Từ 
điển văn học bộ mới. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 
2. Hoàng Quốc Hải. 2011. Bão táp cung đình. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 
 ĐOÀN THỊ HUỆ – NGHỆ THUẬT HƯ CẤU LỜI GIÁN TIẾP 
22 
3. Hoàng Quốc Hải. 2011. Huyền Trân công chúa. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 
4. Hoàng Quốc Hải. 2011. Thăng Long nổi giận. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 
5. Lại Nguyên Ân. 2004. 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nx. Đại học Quốc gia. 
6. Ngô Thị Quỳnh Nga. 2010. Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 
1975.  truy cập ngày 2/3/2019. 
7. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên). 2012. Lịch sử và văn hóa – Cái nhìn nghệ thuật 
Nguyễn Xuân Khánh. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 
8. Nguyễn Mộng Giác. 2003. Sông Côn mùa lũ, tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn học, Trung Tâm 
nghiên cứu Quốc học. 
9. Nguyễn Quang Thân. 2011. Hội thề. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 
10. Nguyễn Xuân Khánh. 2010. Hồ Quý Ly. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ,. 
11. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc 
Hòa, Thành Thế Thái Bình. 2002. Lý luận văn học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_hu_cau_loi_gian_tiep_trong_tieu_thuyet_lich_su_vi.pdf