Mối quan hệ giữa lượng mây và bức xạ sóng dài đi ra tại đỉnh khí quyển trên khu vực Nam Bộ
Dựa trên số liệu OLR và lượng mây có độ phân giải 1,0×1,0 độ kinh vĩ của
NCEP/NCAR trong thời kì 1981 – 2012, mối quan hệ giữa lượng mây và bức xạ sóng dài đi ra tại
đỉnh khí quyển (OLR) trên khu vực Nam Bộ đã được xem xét thông qua việc phân tích, so sánh
đặc điểm phân bố không gian, biến đổi theo thời gian và mối quan hệ tương quan giữa chúng. Kết
quả cho thấy rằng, đặc điểm phân bố và diễn biến trong năm của lượng mây và OLR là ngược
nhau, khu vực hoặc thời gian có lượng mây lớn thì OLR nhỏ và ngược lại. Trên khu vực Nam Bộ,
OLR thường có giá trị lớn trong mùa khô và trong các năm El Nino, song trong các năm La Nina
và trong mùa mưa thì lại có giá trị nhỏ. Trong thời kỳ 1981-2012, OLR trên khu vực có xu thế
giảm khoảng 3,6 W/m2/thập kỉ, còn lượng mây lại có xu thế tăng khoảng 0,2%/thập kỉ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa lượng mây và bức xạ sóng dài đi ra tại đỉnh khí quyển trên khu vực Nam Bộ
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 116 Mối quan hệ giữa lượng mây và bức xạ sóng dài đi ra tại đỉnh khí quyển trên khu vực Nam Bộ Chu Thị Thu Hường1,*, Bùi Thị Hợp1, Trần Đình Linh1, Vũ Thanh Hằng2 1Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, 41A Đường Phú Diễn, Cầu Diễn, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam 2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 30 tháng 11 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 11 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 12 năm 2018 Tóm tắt: Dựa trên số liệu OLR và lượng mây có độ phân giải 1,0×1,0 độ kinh vĩ của NCEP/NCAR trong thời kì 1981 – 2012, mối quan hệ giữa lượng mây và bức xạ sóng dài đi ra tại đỉnh khí quyển (OLR) trên khu vực Nam Bộ đã được xem xét thông qua việc phân tích, so sánh đặc điểm phân bố không gian, biến đổi theo thời gian và mối quan hệ tương quan giữa chúng. Kết quả cho thấy rằng, đặc điểm phân bố và diễn biến trong năm của lượng mây và OLR là ngược nhau, khu vực hoặc thời gian có lượng mây lớn thì OLR nhỏ và ngược lại. Trên khu vực Nam Bộ, OLR thường có giá trị lớn trong mùa khô và trong các năm El Nino, song trong các năm La Nina và trong mùa mưa thì lại có giá trị nhỏ. Trong thời kỳ 1981-2012, OLR trên khu vực có xu thế giảm khoảng 3,6 W/m2/thập kỉ, còn lượng mây lại có xu thế tăng khoảng 0,2%/thập kỉ. Từ khóa: Lượng mây, bức xạ sóng dài đi ra, Nam Bộ. 1. Mở đầu OLR là một trong những nhân tố quan trọng phản ánh sự biến đổi của hoàn lưu cũng như những đặc trưng khí hậu trên mỗi vùng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng, sự biến đổi của OLR có liên quan đến lượng mây và có mối liên hệ chặt chẽ đến sự thay đổi nhiệt độ không khí ở bề mặt. Như chúng ta đã biết, lớp phủ mây đóng một vai trò quan trọng quyết định năng lượng mặt trời đến Trái Đất cũng như năng lượng mà _______ Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-981244579. Email: ctthuong@hunre.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4342 Trái Đất phản xạ và phát ra vào không gian vũ trụ. Hầu hết các đám mây phản xạ bức xạ mặt trời rất tốt. Trung bình trên toàn cầu, mây phản xạ khoảng 20% năng lượng từ Mặt Trời trở lại vũ trụ. Đồng thời, những đám mây còn hấp thụ và phản xạ bức xạ sóng dài từ bề mặt và khí quyển, làm giảm đáng kể lượng năng lượng mất đi vào không gian vũ trụ. Bởi vậy, những thay đổi trong lớp phủ mây, thường được đặc trưng bởi lượng mây tổng quan, sẽ làm thay đổi cán cân bức xạ cũng như nhiệt độ không khí bề mặt. Những nhận định trên đã được kiểm chứng trong nghiên cứu của Edward Graham (2008). Nghiên cứu này đã sử dụng số liệu tái phân tích trong thời kỳ 1974-2006 của NOAA để xem xét những biến đổi của OLR và khí hậu trên quy C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 117 mô toàn cầu. Kết quả cho thấy rằng, OLR có quan hệ với nhiệt độ, độ ẩm và độ vẩn đục của khí quyển, đặc biệt là độ ẩm trong tầng đối lưu giữa (700400hPa). Trên những vùng sa mạc khô và nóng, OLR thường có giá trị cao nhất. Ngược lại, trên các vùng biển, nơi có đối lưu mạnh như vùng biển nhiệt đới Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, OLR thường có giá trị nhỏ nhất [1]. Bên cạnh đó, những biến đổi của OLR trên mỗi vùng có thể xác định được những biến đổi của gió mùa, mhà mưa, lượng mưa,... Theo Kousk và cs (1988), giá trị ngưỡng của OLR là 240 W/m2 có thể được sử dụng để xác định thời điểm khởi đầu mùa mưa và ngày kết thúc mùa mưa trên khu vực Nam Mỹ. Cụ thể, khi OLR nhỏ hơn 240 W/m2 thì mùa mưa bắt đầu hoạt động, còn khi OLR lớn hơn 240 W/m2 thì mùa mưa trên khu vực Nam Mỹ kết thúc. Các giá trị dị thường của OLR sẽ cho biết thông tin về dị thường của lượng mưa xảy ra trên khu vực [2]. Tương tự, mối quan hệ giữa OLR và lượng mưa trên khu vực Nam Mỹ cũng được Gonzalez M. và cs (2007) xác định để mô tả thời kỳ bắt đầu gió mùa mùa hè (SM). Từ đó cho thấy, OLR có quan hệ chặt chẽ với lượng mưa và sự tiến triển của mây đối lưu [3]. Theo Brant Liebmann và C.Roberto Mechoso (2010), thời kỳ SM ở Nam Mỹ bắt đầu thì OLR thường nhỏ hơn 200W/m2 [4]. Còn Bernard Fontaine và cs (2008) lại cho rằng,OLR nhỏ hơn 180 W/m2 sẽ là cơ sở để xác định ngày bắt đầu mùa mưa trên khu vực Tây Phi [5]. Hơn nữa, Prasad và cs (2000) cũng cho thấy rằng, OLR trên khu vực vịnh Bengal (22,5°N; 92,5°E) và phía Nam Ấn Độ Dương (30°S; 97,5°E) có liên quan đến lượng mưa SM trên khu vực Ấn Độ [6]. Chính vì thế, một số tác giả đã coi OLR là nhân tố để dự báo lượng mưa trên mỗi khu vực như Bansod.S.D và cs (2004) đã sử dụng OLR trong dự báo lượng mưa trong mùa mưa ở Ấn Độ [7], còn E.Omogbai và J Hum Ecol (2010) thì dự báo lượng mưa mùa mưa ở Nigeria [8]. Ngoài ra, Jeyasu Takimoto và Jun Matsumoto (2004) chỉ ra rằng, khi OLR trên khu vực phía Tây Nhật Bản đạt tới 230 W/m2 và duy trì trong 10 ngày thì mùa Bão sẽ hình thành [9]. Theo John L và cs (2003), OLR có mối quan hệ rất tốt với hiện tượng ENSO. Khi OLR giảm thì lượng mưa trên khu vực Đông Nam Á tăng và ngược lại [10]. Ở Việt Nam, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa OLR với nhiệt độ không khí bề mặt cũng hiện tượng rét đậm và nắng nóng trên lãnh thổ Việt Nam, Chu Thị Thu Hường và cs (2011, 2012) đã sử dụng số liệu OLR của NCEP/NCAR và số liệu quan trắc Tx, Ttb tại 67 trạm trên lãnh thổ trong thời kỳ 1961-2007. Kết quả phân tích cho thấy, sự biến đổi của OLR có quan hệ chặt chẽ đến lượng mây và nhiệt độ không khí bề mặt. Vùng có lượng mây càng lớn hoặc nhiệt độ không khí bề mặt càng nhỏ hoặc thỏa mãn cả hai điều kiện thì OLR sẽ càng nhỏ và ngược lại. Nghiên cứu cũng cho thấy, trong năm El Nino, OLR thường lớn hơn trong năm La Nina hay không ENSO. Bên cạnh đó, OLR càng lớn thì SNNN càng nhiều, SNRĐ sẽ càng ít và ngược lại. Trong các năm El Nino hoặc năm sau thời kỳ này, SNNN tăng mạnh, thậm chí tăng lên ... i thỏa mãn tiêu chuẩn tương ứng với α = 0,05, α = 0,01 như trong bảng 1. Nói cách khác, HSTQ sẽ có xác n 1l 2 ttl m 1t 2 ttl n 1l ttlttl t YYXX XXYY r C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 119 suất phạm sai lầm loại 1 (hay mức ý nghĩa) là 0,05 hoặc 0,01 hay mức tin cậy tương ứng là 0,95 (95%) hoặc 0,99 (99%). Cụ thể, với 32 năm quan trắc (1981-2012) thì HSTQ đạt được ứng với mức ý nghĩa bằng 0,05 (hoặc mức tin cậy 95%) sẽ là 0,349 và ứng với mức ý nghĩa bằng 0,01 (hoặc mức tin cậy 99%) là 0,449. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Phân bố theo không gian của OLR và lượng mây 3.1.1. Trên khu vực Việt Nam và lân cận Để thấy được sự biến đổi theo không gian của OLR và lượng mây trên khu vực Việt Nam và lân cận trong mùa khô và mùa mưa đã được đưa ra trong hình 1. Có thể thấy, lượng mây trong mùa khô trên khu vực Việt Nam và lân cận biến đổi trong khoảng từ 40 đến 50%. Riêng trên khu vực phía Đông Ấn Độ và phía Bắc vịnh Ben Gan, lượng mây giảm xuống chỉ còn khoảng 15-30%. OLR có sự biến đổi theo không gian rất rõ rệt, có sự xen kẽ của các dải OLR cao và thấp: dải OLR cao nằm dọc theo vĩ tuyến khoảng từ 12 - 30oN. Nơi có OLR lớn nhất (lớn hơn 270W/m2) được xác định là vùng có lượng mây thấp nhất và vùng trung tâm Biển Đông (nơi chịu ảnh hưởng của áp cao cận nhiệt Bắc Thái Bình Dương). Trong mùa mưa, lượng mây trên các khu vực đều tăng lên và đạt khoảng 65-70%. Do ảnh hưởng của gió mùa tây nam, trên vùng Tây Nguyên và Nam bộ, lượng mây cao hơn, còn OLR thì đạt giá trị thấp hơn so với các vùng trên cùng lãnh thổ. Trên lãnh thổ Việt Nam, OLR có xu hướng giảm dần từ Bắc xuống Nam trong cả hai mùa với OLR trung bình năm ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ tương ứng là 244,1, 242,2 và 232,5W/m2. Trên Biển Đông, OLR trung bình năm cũng chỉ đạt 236,4 W/m2. Kết quả này cho thấy, cường độ OLR trên khu vực Nam Bộ thấp nhất trong cả nước. 3.1.2. Trên khu vực Nam bộ Có thể nói, sự biến đổi của OLR có liên quan đến sự biến đổi của lượng mây. Điều này đã được thể hiện qua bản đồ phân bố theo không gian của chúng. Hình 2 cho thấy, ở hầu hết các tháng trong năm, cả lượng mây và OLR đều có phân bố theo hướng đông - tây hoặc tây bắc - đông nam. Cụ thể, trong thời gian từ tháng 11 đến tháng 3, OLR/lượng mây giảm/tăng dần theo hướng từ tây bắc đến đông nam. Ngược lại, trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 10, OLR lại tăng dần theo hướng từ tây bắc đến đông nam, còn lượng mây thì có xu thế giảm dần từ bắc xuống nam. Hơn nữa, do lượng mây tổng quan trong các tháng mùa mưa thường lớn hơn (khoảng 20 đến 30%) và mức độ biến đổi theo không gian cũng ít hơn trong các tháng mùa khô nên OLR trong mùa mưa cũng thấp hơn trong mùa khô. Trong mùa khô, OLR trên vùng đông Nam Bộ lớn hơn vùng tây Nam Bộ, phía Bắc lớn hơn phía Nam, nhất là trong tháng 4, OLR giảm xuống còn 252,8 W/m2. Trong mùa mưa, OLR giảm mạnh với giá trị trung bình tháng nhỏ hơn 219 W/m2. Cường độ OLR phân bố khá đồng đều giữa đông Nam Bộ và tây Nam Bộ. OLR ở phía Tây Bắc Nam Bộ nhỏ hơn so với phía Đông Nam. Tất nhiên, phân bố của OLR và lượng mây gần như là ngược nhau. Trong các tháng mùa khô, lượng mây trung bình tháng nhỏ hơn 70% (chỉ khoảng 60,8% vào tháng 2). Trên cùng một vùng thì lượng mây cũng có sự phân bố không đều. Lượng mây phía Bắc nhỏ hơn phía Nam (ở tây Nam Bộ), phía tây nhỏ hơn phía đông (ở đông Nam Bộ). Từ tháng 3, lượng mây bắt đầu tăng lên và có sự phân bố không gian gần như trái ngược so với các tháng trước. Đặc biệt, càng xuống vùng vĩ độ thấp, lượng mây càng giảm và ngược lại. Trong các tháng mùa mưa, lượng mây tăng rõ rệt so với các tháng trước (trên 82%). Lượng mây lớn nhất là ở phía tây bắc của Đông Nam Bộ (Tây Ninh và Bình Phước) và nhỏ nhất là ở phía Đông Nam và Nam của Tây Nam Bộ (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh). Vùng biển phía Đông Nam có lượng mây nhỏ hơn trên đất liền. Tháng 10, lượng mây giảm đi và có sự phân bố khá đồng đều trên toàn khu vực (khoảng 80 – 82%), chỉ có ở Bà Rịa Vũng Tàu nhỏ hơn 80%. C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 120 Hình 2. Bản đồ phân bố OLR và lượng mây tổng quan trong từng tháng ở Nam Bộ giai đoạn 1981 - 2012. Trong đó, trường màu nền đặc trưng cho giá trị OLR (W/m2), còn các đường liền màu trắng đặc trưng cho lượng mây (%). C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 121 3.2. Sự biến đổi theo thời gian của OLR và lượng mây 3.2.1. Biến trình năm của OLR và lượng mây Cường độ bức xạ sóng dài có phân bố khá rõ ràng trong các tháng.OLR thường có giá trị lớn hơn trong thời kỳ mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4) và nhỏ hơn trong thời kỳ mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10). Trong thời kỳ mùa đông, OLR trung bình trong từng tháng thường biến đổi từ 240 đến 270W/m2. Đặc biệt, trong các tháng 1, 2 và 3, OLR đều có giá trị lớn hơn 260W/m2. Ngược lại, trong các tháng mùa hè, OLR dao động từ 202 đến 220 W/m2với giá trị nhỏ nhất xảy ra trong tháng 9. Biến trình năm của OLR có 1 cực đại (tháng 2) và 1 cực tiểu (tháng 9) với biên độ năm cao đạt khoảng 67,3W/m2. Hình 3. Biến trình năm của OLR và lượng mây ở Nam Bộ. Hình 4. Xu thế biến đổi của OLR (trái) và lượng mây (phải) trên khu vực Nam Bộ. 3.2.2. Xu thế biến đổi của OLR và lượng mây trung bình năm trong thời kỳ 1981 – 2012 OLR trung bình năm trên khu vực Nam Bộ có sự biến động qua các năm (Hình 4), với mức độ biến động giữa năm khoảng 20W/m2. Đặc biệt, trong các năm El Nino (1982-1983, 1987, 1991-1992, 1994-1995, 1997-1998, 2002-2003, 2004-2005) OLR thường cao hơn, còn trong các năm La Nina (1984, 1996, 1999 – 2000, 2008, 2011), OLR thường có giá trị thấp hơn so với trung bình nhiều năm (Hình 4). Điều này có thể lí giải thông qua lượng mây, những năm El Nino vùng phía Tây Bắc TBD phát triển dòng giáng nên trời quang mây hơn dẫn tới OLR lớn. Ngược lại những năm La Nina mây đối lưu lại phát triển mạnh hơn trên vùng này nên trời nhiều mây, OLR giảm. Hơn nữa, trong thời kỳ 1981-2012, OLR trên khu vực Nam Bộ đang có xu thế giảm với tốc độ giảm khoảng 3,6W/m2/thập kỉ. Kết quả này cũng phù hợp với xu thế tăng của lượng mây (0,2%/thập kỷ) (Hình 4). 3.3. Mối quan hệ giữa lượng mây với OLR trên khu vực Nam Bộ Mối quan hệ giữa lượng mây tổng quan với OLR được xác định bằng việc phân tích các HSTQ giữa chúng. Với các HSTQ tính toán được như trên thì lượng mây tổng quan có tương quan âm với OLR, với giá trị tuyệt đối của HSTQ lớn hơn 0.7 (tháng 10 đến tháng 4). Các tháng còn lại C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 122 thì HSTQ có giá trị tuyệt đối lớn hơn 0,35, là thời gian trùng với mùa mưa của khu vực nên lượng mây tổng quan trong khoảng thời gian này thường lớn hơn, vừa làm cản trở BXMT đến bề mặt Trái đất lại vừa cản trở phát xạ sóng dài từ bề mặt đất đi ra không gian vũ trụ. Riêng có tháng 7 thì HSTQ dương nhưng rất nhỏ và chưa đạt độ tin cậy. Như vậy, OLR thường có giá trị lớn ở những nơi quang mây hay lượng mây ít. Đúng thế, khi bầu không khí khô và quang mây sẽ tạo điều kiện cho bề mặt đất hấp thụ được lượng BXMT lớn đồng thời phát xạ sóng dài của bề mặt đất cũng được thuận lợi, OLR sẽ tăng. Trong suốt thời kì 1981 – 2012 thì lượng mây có tương quan âm với OLR khi những năm có lượng mây tăng thì OLR giảm và ngược lại (hình 5). Vào các năm 1983, 1992, 1997 - 1998, 2004 - 2005, 2010 thì lượng mây thấp hơn hẳn so với các năm khác, đồng thời đó cũng là những năm có OLR đạt trị số gần như cao nhất trong cả thời kì. Những năm kể trên là những năm El Nino điều đó càng chứng tỏ thêm một điều rằng ENSO có ảnh hưởng không hề nhỏ đến OLR. Mối quan hệ nghịch biến của lượng mây và OLR cũng được thể hiện rất rõ qua đồ thị (Hình 6). Như vậy, có thể thấy rằng, ở Nam Bộ, lượng mây tổng quan có ảnh hưởng lớn đến OLR.Trong thời kỳ mùa mưa, lượng mây cao nên OLR nhỏ hơn so với các tháng mùa khô. Bảng 1. Hệ số tương quan giữa OLR và lượng mây Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Lượng mây & OLR -0.76 -0.92 -0.91 -0.83 -0.41 -0.56 0.07 -0.38 -0.51 -0.77 -0.89 -0.89 Hình 5. Lượng mây tổng quan và OLR giai đoạn 1981 - 2012 ở Nam Bộ. Hình 6. Mối quan hệ giữa lượng mây tổng quan và OLR ở Nam Bộ. 4. Kết luận Nghiên mối liên hệ giữa lượng mây và OLR ở Nam Bộ, bài viết đã sử dụng chuỗi số liệu tái phân tích trong thời kì 1981 – 2012 và thu được một số kết luận như sau: - Đặc điểm phân bố không gian của OLR và lượng mây là ngược nhau và đều thay đổi theo thời gian trong năm. Khu vực có lượng mây nhỏ thì OLR lớn và ngược lại. Vào mùa khô, từ tây bắc đến đông nam, lượng mây trên khu vực tăng lên còn OLR lại giảm xuống. Vào mùa mưa, lượng mây giảm từ bắc xuống nam còn OLR tăng từ tây bắc xuống đông nam. - Lượng mây và OLR có biến động lớn trong năm, mức biến đổi lần lượt vào khoảng 34% (lượng mây) và 30% (OLR). OLR nhỏ C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 123 trong thời kỳ có lượng mây nhỏ và lớn trong thời kỳ có lượng mây lớn. - Lượng mây và OLR có tương quan âm và chặt chẽ với nhau, đặc biệt trong mùa thu, đông, xuân (trị tuyệt đối của HSTQ lớn hơn 0,7). - Xu thế biến đổi theo thời gian của lượng mây và OLR phản ánh tốt mối liên hệ giữa chúng. Trong giai đoạn 1981-2012, lượng mây lại có xu thế tăng khoảng 0,2%/thập kỉ còn OLR có xu thế giảm khoảng 3,6 W/m2/thập kỉ. - Sự thay đổi của lượng mây và OLR có liên quan đến hoạt động của ENSO. Trong năm El-Nino (La-Nina), OLR thường có giá trị cao hơn (thấp hơn) trung bình nhiều năm. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được hỗ trợ từ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số TNMT.2016.05.07. Các tác giả xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo [1] Edward Graham (2008), The Guide: A site selection tool for extremely large telescopes using climate, IAP Research Report, Vol.9, pp.257-269. [2] Kousky, V. E. (1988), Pentad outgoing longwave radiation climatology for the South American sector, Revista Brasileira de Meteorologia., Vol.3, pp. 217–231. [3] Gonzalez M., C. S. Vera (2007), The nature of the rainfall onset over central South America, Atmósfera, Vol.20(4), pp. 377-394. [4] Bernard Fontaine, Samuel Louvet and Pascal Roucou (2008), Definition and redictability of an OLR based West African monsoon onset, International Journal of Climatology, Vol.13, pp. 1787-1798. [5] Brant Liebmann and Carlos R. Mechoso (2010), The South American Monsoon System, The Global Monsoon System Research and Forecas, Vol.9, pp. 137-158. [6] Prasad, S.D. Bansod andS.S. Sabade (2000), Forecasting Indian summer monsoon rainfall by outgoing longwave radiation over the Indian Ocean, International Journal of Climatology, Vol.20, pp. 105–114. [7] Bansod.S.D (2004), Outgoing long-wave radiation over the Tropical Pacific and Atlantic Ocean and Indian summer monsoon rainfall, Theoretical and Applied Climatology, Vol. 77, pp. 185-193. [8] Omogbai and J Hum Ecol (2010), An Empirical Prediction of Seasonal Rainfall in Nigeria, International Interdisciplinary Journal of Man- Environment Relationship, Vol.32(1), pp. 23-27. [9] Ieyasu Takimoto and Jun Matsumoto (2004), Large-scale changes associate with the end of Baiu season in western Japan, ISMA, Vol. 87(1), pp.339-344. [10] John L. Mcbride, Malcolm R. Haylock, and Neville Nicholls (2003), Relationships between the Maritime Continent Heat Source and the El Nino–Southern Oscillation Phenomenon, American Meteorological Society, Vol.16, pp. 2905-2914. [11] Chu Thị Thu Hường và cộng sự, Nghiên cứu mối quan hệ giữa bức xạ sóng dài tại giới hạn trên của của khí quyển đến một số yếu tố và hiện tượng khí hậu cực trị ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, 2011. [12] Chu Thị Thu Hường, Phan Văn Tân (2012), Mối quan hệ giữa nắng nóng và rét đậm trên lãnh thổ Việt Nam với bức xạ sóng dài đi xa, Tạp chí Khí tượng Thủy văn, Số 614, Tháng 2/2012, pp. 8-14. [13] https://www.esrl.noaa.gov/psd/data/gridded/data. noaa.hrc.html. C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 116-124 124 The Relationship Between Cloud Cover and Outgoing Longwave Radiation in the Southern of Vietnam Chu Thi Thu Huong1, Bui Thi Hop1, Tran Dinh Linh1, Vu Thanh Hang2 1Hanoi University of Natural Resources and Environment, 41A Phu Dien, Cau Dien, Hanoi, Vietnam 2VNU Hanoi University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam Abstract: Using 1,00×1,00 resolution data of the Outgoing Longwave Radiation (OLR) and the cloud cover from NCEP/NCAR during the 1981 – 2012 period, the relationship between the cloud cover and the OLR in the Southern of Vietnam was investigated by analyzing and comparing the spatial distribution, temporal evolution and their correlation. The results show that the characteristics of the spatial distribution and the year cycle of cloud cover and OLR are inversely correlated. The region or time that the cloud cover is great, the OLR is small and vice versa. In the Southern of Vietnam, the OLR value is largest (or smallest) in the dry (or rainy) season and in the El-Nino (La- Nina) years. In addition, during the 1981-2012period, the OLR in this region shows a downward trend about 3.6 W/m2/decade, while the cloud cover tends to increase by 0.2%/decade. Keywords: Cloud cover, Outgoing Longwave Radiation, the Southern of Vietnam.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_luong_may_va_buc_xa_song_dai_di_ra_tai_dinh.pdf