Mối quan hệ giữa chất lượng quản trị doanh nghiệp, mức độ tập trung ngân hàng và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Bài viết này khảo sát tác động của chất lượng quản trị doanh nghiệp và mức độ tập trung ngân hàng
với tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu bảng cho các ngành kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn 2006-2017. Kết quả cho thấy (i) mức độ tập trung ngân hàng có ảnh hưởng ngược chiều đến
sự tăng trưởng của các ngành phụ thuộc nhiều vào nguồn tài trợ bên ngoài; và (ii) chất lượng quản
trị doanh nghiệp tốt sẽ làm giảm thiểu tác động của mức độ tập trung ngân hàng đối với tăng trưởng
kinh tế. Theo đó, quản trị doanh nghiệp tốt là một phương tiện quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng
và sự thịnh vượng ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi như Việt Nam, nơi mà các khu vực
tài chính đang phát triển với mức độ tập trung ngân hàng cao
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa chất lượng quản trị doanh nghiệp, mức độ tập trung ngân hàng và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 1 ____________________________________________________ 1 Trường Đại học Kinh Tế Tp.HCM MỐI QUAN HỆ GIỮA CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP, MỨC ĐỘ TẬP TRUNG NGÂN HÀNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM CORPORATE GOVERNANCE, BANK CONCENTRATION AND ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM Lê Văn, Nguyễn Khắc Quốc Bảo1 Ngày nhận bài: 17/4/2020 Ngày chấp nhận đăng: 12/05/2020 Ngày đăng: 05/10/2020 Tóm tắt Bài viết này khảo sát tác động của chất lượng quản trị doanh nghiệp và mức độ tập trung ngân hàng với tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu bảng cho các ngành kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2006-2017. Kết quả cho thấy (i) mức độ tập trung ngân hàng có ảnh hưởng ngược chiều đến sự tăng trưởng của các ngành phụ thuộc nhiều vào nguồn tài trợ bên ngoài; và (ii) chất lượng quản trị doanh nghiệp tốt sẽ làm giảm thiểu tác động của mức độ tập trung ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế. Theo đó, quản trị doanh nghiệp tốt là một phương tiện quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng và sự thịnh vượng ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi như Việt Nam, nơi mà các khu vực tài chính đang phát triển với mức độ tập trung ngân hàng cao. Từ khóa: Chất lượng quản trị doanh nghiệp, mức độ tập trung ngân hàng, tăng trưởng kinh tế. Abstract This paper examines the impacts of corporate governance quality and bank concentration on economic growth by using panel data of Vietnam industries from 2006 to 2017. It is found that (i) bank concentration negatively affects industries with the high dependence on external financing; and (ii) positive corporate governance mitigates such negative impact on the economy. Accordingly, corporate governance quality is a key driver to enhance growth and prosperity in emerging and developing economies such as Vietnam, where industries highly depend on external financing resources. Keywords: Corporate governance quality, bank concentration, economic growth. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 2 Trong bài viết này, cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm từ những nghiên cứu trước sẽ được trình bày trong Phần 2; phương pháp và dữ liệu nghiên cứu được trình bày trong Phần 3; kết quả nghiên cứu và những thảo luận liên quan được trình bày trong Phần 4; và kết luận được trình bày trong Phần 5. 2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm từ những nghiên cứu trước Mức độ quản trị doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định tăng trưởng kinh tế, đặc biệt thông qua ảnh hưởng đến thị trường vốn và phân bổ nguồn lực. Mức độ quản trị doanh nghiệp cũng khuyến khích đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng. Điều này đặc biệt phù hợp với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay. Để xây dựng cơ sở lý thuyết đáng tin cậy cho bài viết, các nghiên cứu về tác động tích cực của chất lượng quản trị doanh nghiệp đối với nền kinh tế được tổng hợp như sau: Thứ nhất, quản trị doanh nghiệp ảnh hưởng tích cực đến thành quả của doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này được chứng minh qua các nghiên cứu về tác động của quản trị doanh nghiệp đến (i) khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ; (ii) quyết định đầu tư; (iii) quyết định phân phối lợi tức; và (iv) trong giai đoạn khủng hoảng tài chính. Theo đó, chất lượng quản trị doanh nghiệp cao sẽ giảm chi phí sử dụng vốn nợ (Doidge và cộng sự, 2007; và Attig và cộng sự, 2008) và giảm chi phí sử dụng vốn cổ phần (Cueto 2008, 2013; Bae và cộng sự, 2012; Bai và cộng sự, 2004; Chen và cộng sự, 2009, 2011; Morey và cộng sự, 2009; Balasubramanian và cộng sự, 2010; Ammann và cộng sự, 2011; và Claessens và cộng sự, 2014). Với việc giảm chi phí sử dụng vốn, doanh nghiệp sẽ gia tăng cơ hội tiếp cận 1. Giới thiệu Có thể nói doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp có bền vững thì kinh tế vĩ mô mới phát triển ổn định. Bên cạnh vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ, quản trị là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Do đó, việc quản trị doanh nghiệp tốt sẽ có ảnh hưởng tích cực đến bộ mặt nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của quản trị doanh nghiệp, bài viết sẽ nghiên cứu tác động của quản trị doanh nghiệp tới nền kinh tế thông qua mối liên hệ với mức độ tập trung ngân hàng và sự tăng trưởng kinh tế. Để góp phần đưa ra cơ sở cho việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, bài viết sẽ trình bày nghiên cứu về mối liên hệ giữa quản trị doanh nghiệp, tập trung ngân hàng và tăng trưởng kinh tế theo quy mô ngành. Nghiên cứu này là cấp thiết trong bối cảnh tác động của quản trị doanh nghiệp đối với nền kinh tế đã được tiếp cận trên giác độ vi mô và vĩ mô. Theo đó, các chính sách tăng trưởng và phát triển sẽ được xem xét cho phù hợp với mỗi ngành kinh tế. Mục tiêu nghiên cứu của bài viết bao gồm việc đánh giá tác động của mức độ tập trung ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế và chất lượng quản trị doanh nghiệp đến mối quan hệ giữa mức độ tập trung ngân hàng và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện những mục tiêu nghiên cứu này, bài viết sẽ: (i) nghiên cứu mối quan hệ giữa mức độ tập trung ngân hàng và quản trị doanh nghiệp của các ngành kinh tế Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2017; (ii) cho thấy rằng mức độ tập trung ngân hàng cao sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế; và (iii) cho thấy rằng trong những ngành kinh tế có mức độ phụ thuộc tài chính cao, việc thực hiện quản trị doanh nghiệp tốt sẽ hạn chế ảnh hưởng của mức độ phụ thuộc vào các nguồn tài trợ bên ngoài. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 3 chất lượng quản trị doanh nghiệp cao. Theo đó, chất lượng quản trị doanh nghiệp là một nhân tố then chốt quyết định tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tại các thị trường mới nổi. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh được mối quan hệ giữa ba nhân tố là quản trị doanh nghiệp, tập trung ngân hàng và t ... 7), chất lượng quản trị doanh nghiệp (CGQ) của một quốc gia được xác định là trung bình cộng của ba (03) chỉ tiêu: (i) AS đo lường chất lượng thông tin kế toán (accounting standard), được thể hiện qua chỉ tiêu số 1.18 trong báo cáo thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới; (ii) ES là thước đo mức độ mượt của thu nhập (earnings smoothing); và (iii) SPS là tính đồng bộ của giá cổ phiếu (stock price synchronicity). Thứ năm, các biến kiểm soát: Kế thừa các nghiên cứu của Djankov và cộng sự (2008b), Rajan và Zingales (1998), Fisman (2001), Faccio và cộng sự (2006), Khwaja và Mian (2005), Claessens và cộng sự (2008), và Diallo (2017), bài viết sử dụng các biến kiểm soát sau đây: nhu cầu đầu tư; và chỉ tiêu Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế để đại diện cho nguồn lực tự tài trợ. Cả hai chỉ tiêu này đều do Tổng cục Thống kê công bố. Thứ ba, mức độ tập trung ngân hàng: Bài viết vận dụng nghiên cứu của Diallo (2017) để sử dụng hai thang đo cho biến độc lập này, bao gồm tỷ trọng tài sản của ba ngân hàng lớn nhất trên toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam; và mức độ tập trung thị trường được thể hiện qua chỉ số Herfindahl-Hirschman (“HHI”), được tính bằng tổng bình phương thị phần của tất cả các công ty/ doanh nghiệp trên toàn thị trường. Chỉ số HHI cũng được sử dụng để kiểm định tính bền vững của mô hình. Thứ tư, chất lượng quản trị doanh nghiệp: Kế thừa nghiên cứu của De Nicolo và cộng sự Bảng 2. Các biến kiểm soát trong mô hình nghiên cứu Biến Diễn giải Biến Diễn giải Biến Diễn giải Ct1 Tín dụng tư Ct4 Tự do kinh doanh Ct7 Tự do đầu tư Ct2 Chi tiêu chính phủ Ct5 Tự do tiền tệ Ct8 Tự do tài chính Ct3 Tự do tài khóa Ct6 Tự do thương mại Ct9 Tự do kinh tế Nguồn: The Global Economy 3.3. Dữ liệu nghiên cứu Tốc độ tăng trưởng kinh tế và nhu cầu các nguồn tài trợ bên ngoài của mỗi ngành kinh tế được tham khảo từ từ cơ sở dữ liệu của Tổng Cục Thống kê trong giai đoạn 2006-2017 và có thống kê mô tả được tổng hợp như sau: Bảng 3. Thống kê mô tả tăng trưởng kinh tế và nhu cầu các nguồn tài trợ bên ngoài của các ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2017 Tiêu chí Tăng trưởng kinh tế Nhu cầu tài trợ bên ngoài Số quan sát 216 216 Giá trị trung bình 0.0891 0.2874 Độ lệch chuẩn 0.1989 0.7367 Giá trị tối đa (max) 1.4391 0.9862 Giá trị tối thiểu (min) -1.2491 -2.5398 Skewness -0.1435 -1.8731 Kurtosis 21.2096 3.4556 Nguồn: Tổng Cục Thống kê Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 6 Kết quả nghiên cứu tại Bảng 5 cho thấy cả 9 mô hình đều đạt được kỳ vọng dấu của giả thuyết nghiên cứu, tức là sự tập trung ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế; trong bối cảnh đó, chất lượng quản trị doanh nghiệp chính là động lực thúc đẩy phát triển cho nền kinh tế thông qua sự tương tác tích cực vào mối quan hệ giữa tập trung ngân hàng và tăng trưởng kinh tế. Các mô hình (10) và (15) có ý nghĩa thống kê ở mức chấp nhận được là 10%. 4.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4 cho thấy mô hình đạt kỳ vọng dấu đúng với giả thuyết nghiên cứu ở cả 9 mô hình (tương ứng với 9 biến kiểm soát). Khi tỷ trọng tài sản của ba (03) ngân hàng lớn nhất nền kinh tế đại diện cho mức độ tập trung ngân hàng, có 8 trên 9 mô hình có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 10%. Trong đó, các mô hình (2), (3), (5), (6), (8) và (9) có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Các chỉ số 3-Bank, HHI, AS, ES, SPS và CGQ tại Việt Nam 3-Bank HHI AS ES SPS CGQ Hình 1. Các chỉ số tập trung ngân hàng và chất lượng quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam Nguồn: World Bank, WITS, WEF, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội Để đo lường mức độ tập trung ngân hàng, bài viết sử dụng hai biến đại diện là (i) tỷ trọng tài sản của ba ngân hàng lớn nhất trong tổng tài sản hệ thống ngân hàng (3-Bank), được lấy từ Cơ sở dữ liệu về phát triển tài chính toàn cầu (GFDD) của Ngân hàng Thế giới (World Bank); và (ii) chỉ số Herfindahl-Hirschmann (HHI), được định nghĩa là tổng của bình phương của thị phần, do World Integrated Trade Solution (WITS) công bố. Để đo lường chất lượng quản trị doanh nghiệp (CGQ), đề tại sử dụng giá trị đại diện là trung bình cộng của các chỉ số (i) chất lượng thông tin kế toán (AS); (ii) độ mượt của thu nhập (ES); và (iii) tính đồng bộ của giá cổ phiếu (SPS). Trong đó, dữ liệu AS được tham khảo từ Báo cáo thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), dữ liệu ES và SPS được tổng hợp từ Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các biến kiểm soát được tham khảo từ The Global Economy. Các chỉ số 3-Bank, HHI và CGQ được minh họa theo hình sau: Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 7 Bảng 4. Tăng trưởng kinh tế, mức độ tập trung ngân hàng (chí số 3-Bank) và chất lượng quản trị doanh nghiệp Growth (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Const 0.0973*** 0.0939*** 0.0941*** 0.0930*** 0.0950*** 0.0937*** 0.1064*** 0.0962*** 0.0929*** (0. 0175) (0.0180) (0.0180) (0.0180) (0.0176) (0.0180) (0.0170) (0.0176) (0.0179) FD × BC -0.9012** -1.1112*** -1.0878*** -1.0390** -1.2309*** -1.0835*** -0.5271* -1.1912*** -1.1630*** (0.3623) (0.4157) (0. .4117) (0.3874) (0.4312) (0.4065) (0.3072) (0.4421) (0.4168) FD × BC × CGQ 1.3475* 1.5059** 1.3941** 1.2556* 1.5936** 1.6367** 0.3415 1.6526** 1.4477** (0. .6873) (0. .7127) (0.6934) (0.6646) (0.7142) (0.7398) (0.6871) (0.7462) (0.6915) FD × Ct1 0.1383** (0. .0608) FD × Ct2 3.7423** (1.5928) FD × Ct3 0.3052** (0.1318) FD × Ct4 0.3948** (0.1613) FD × Ct5 0.3792** (0.1480) FD × Ct6 0.2530** (0.1071) FD × Ct7 0.5886 (0.4338) FD × Ct8 0.6999** (0.3000) FD × Ct9 0.5120** (0.2042) Số trong ngoặc là độ lệch chuẩn, mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1% lần lượt được ký hiệu bởi *, ** và *** Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 8 5. Kết luận Với bằng chứng thực nghiệm có được từ các ngành kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2006-2017, bài viết cho thấy mức độ tập trung ngân hàng có tác động ngược chiều đến sự tăng trưởng các ngành kinh tế phụ thuộc về tài chính. Một khi quản trị doanh nghiệp tốt, mức độ tập trung ngân hàng ít gây hại cho tăng trưởng kinh tế. Kết quả này nhất quán với bằng chứng được đưa ra tại các thị trường mới nổi và phát triển như các nghiên cứu trước đây của Nayaran và cộng sự (2015) và Diallo (2017). Bảng 5. Tăng trưởng kinh tế, mức độ tập trung thị trường (chỉ số HHI) và chất lượng quản trị doanh nghiệp Growth (10) (11) (12) (13) (14) (15) (16) (17) (18) Const 0.0989*** 0.0992*** 0.1012*** 0.0990*** 0.1027*** 0.0954*** 0.1021*** 0.1025*** 0.1013 (0.0178) (0.0182) (0.0182) (0.0182) (0.01784) (0.0182) (0.0178) (0.0179) (0.0181) FD × HHI -6.7558** -7.1586 -5.0335 -7.0749 -4.7377 -8.7345** -1.4819 -4.4607 -4.9910 (3.1503) (5.2064) (5.3529) (5.0246) (4.5663) (4.1761) (2.0250) (4.7244) (5.0308) FD × HHI × CGQ 9.0160* 8.6302 6.1039 7.2467 6.0578 11.8973* 5.7692 6.0641 5.9355 (5.0310) (6.3713) (6.0120) (5.3943) (5.7100) (6.1975) (4.5767) (6.1684) (5.6548) FD × Ct1 0.1844* (0.0961) FD × Ct2 3.8562 (3.6178) FD × Ct3 0.1904 (0.3147) FD × Ct4 0.4350 (0. .3979) FD × Ct5 0.1769 (0.2682) FD × Ct6 0.3543* (0. 1946) FD × Ct7 -0.4509 (0.3817) FD × Ct8 0.3161 (0.5565) FD × Ct9 0.2867 (0.4469) Số trong ngoặc là độ lệch chuẩn, mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1% lần lượt được ký hiệu bởi *, ** và *** Kết quả cũng cho thấy rằng, mặc dù chất lượng quản trị doanh nghiệp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng nhân tố quan trọng hơn để tăng trưởng kinh tế chính là sự điều phối của Chính phủ. Cụ thể, một nền kinh tế càng ít tập trung, mức độ tự do càng cao (thể hiện qua các chỉ số đại diện cho biến kiểm soát), nền kinh tế một quốc gia sẽ càng phát triển. Kết quả nghiên cứu nhất quán với bằng chứng thực nghiệm của Petersen và Rajan (1995), Black và Strahan (2002), Diallo và Zhang (2017), Diallo (2017) và Diallo và Koch (2018). Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 9 việc giảm mạnh sự tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong khủng hoảng tài chính. Đối với các thị trường mới nổi như Việt Nam, việc Chính phủ tăng cường chất lượng quản trị doanh nghiệp và giảm tập trung của ngân hàng sẽ làm giảm đáng kể sự suy giảm của tốc độ tăng trưởng kinh tế. Điều quan trọng nhất là sự gia tăng mức độ quản trị doanh nghiệp sẽ làm tăng khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ bên ngoài và giảm chi phí đi vay cho các doanh nghiệp. Điều này sẽ thúc đẩy đầu tư và đổi mới, và gia tăng việc làm trong khi tạo động lực phát triển kinh tế nói chung. Kết quả có nhiều ý nghĩa đối với Chính phủ và nhà hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Thứ nhất, nghiên cứu học thuật về quản trị doanh nghiệp tại những quốc gia này còn hạn chế, chưa thể đưa ra kết luận về mối quan hệ giữa định giá, hiệu quả hoạt động và quản trị doanh nghiệp. Thứ hai, mối liên hệ giữa quản trị doanh nghiệp, mức độ tập trung ngân hàng và tăng trưởng kinh tế vẫn chưa được khai thác. Thực tế, chúng ta quan sát được chất lượng quản trị doanh nghiệp thấp, các hệ thống tài chính kém phát triển và các hệ thống ngân hàng tập trung ở nhiều nền kinh tế mới nổi. Điều này có ảnh hưởng tổng thể của Tài liệu tham khảo Ammann, M., Oesch, D., Schmid, M. M. (2011). Corporate governance and firm value: international evidence. Journal of Empirical Finance 18, 36-55. Attig, N., Guedhami, O., Mishra, D. (2008). Multiple large shareholders, control contests, and implied cost of equity. Journal of Corporate Finance 14, 721-737. Bai, C.E., Lui, Q., Lu, Z., Song, F.M., Zhang, J. (2004). Corporate governance and market valuation in China. Journal of Comparative Economics 32, 599-616. Bae, K.-H., Baek, J.-S., Kang, J.-K., Liu, W.-L. (2012). Do controlling shareholders’ expropriation incentives imply a link between corporate governance and firm value? Theory and evidence. Journal of Financial Economics 105, 412-435. Balasubramanian, N., Black, B.S., Khauna, V. (2010). The relation between firm-level corporate governance and market value: A case study of India. Emerging Markets Review 11, 319-340. Black, S.E., Strahan, P.E. (2002). Entrepreneurship and bank credit availability. Journal of Finance 5, 2807- 2833. Chen, K.C.W, Chen, Z., Wei, K.C.J. (2009). Legal protection of investors, corporate governance, and the cost of equity capital. Journal of Corporate Finance 12, 424-448. Chen, K.C.W, Chen, Z., Wei, K.C.J. (2011). Agency costs of free cash flows and the effect of shareholder rights on the implied cost of capital. Journal of Finance and Quantitative Analysis 46, 171-207. Claessens, S., Feijen, E., Laeven, L. (2008). Political connections and preferential access to finance: the role of campaign contributions. Journal of Financial Economics 88, 554-580. Claessens, S., Ueda, K., Yafeh, Y. (2014). Institutions and financial frictions: Estimating with structural restrictions on firm value and investment. Journal of Development Economics 105, 412-435. Claessens, S., Yurtoglu, B.B. (2013). Corporate governance in emerging markets. Emerging Markets Review 15, 1-33. Cornett, M.M., McNutt, J.J., Tehranian, H. (2010). The financial crisis, internal corporate governance, and the performance of publicly-traded U.S. bank holding companies. SSRN: https://ssrn.com/ abstract=1476969. Cueto, D.C. (2008). Corporate governance and ownership structure in emerging markets: evidence from Latin America. SSRN: Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020 10 Cueto, D.C. (2008). Substitutability and complementarity of corporate governance mechanisms in Latin America. International Review of Economics & Finance 25, 310-325. De Nicolo, G., Laeven, L., Ueda, K. (2008). Corporate governance quality: Trends and real effects. Journal of Financial Intermediation 17, 198-228. Diallo, B. (2017). Corporate Governance, Bank Concentration and Economic Growth. Emerging Markets Review 32, 28-37. Diallo, B., Koch, W. (2018). Bank concentration and schumpeterian growth: Theory and international evidence. The Review of Economics and Statistics 100(3). 489-501. Diallo, B., Zhang, Q. (2017). Bank concentration and sectoral growth: Evidence from Chinese Provinces. Economics Letters 154. 77-80. Djankov, S., Lopez-de-Silanes, F., Porta, R.L., Shleifer, A. (2008b). The law and economics of self-dealing. Journal of Financial Economics 88, 430-465. Doidge, C., Karolyi, G.A., Stulz, R.M. (2007). Why do countries matter so much for corporate governance? Journal of Financial Economics 86, 1-39. Faccio, M., McConnell, J.J., Masulis, R.W. (2006). Political connections and corporate bailouts. Journal of Finance 61, 2597-2635. Fisman, R. (2001). Estimating the value of political connections. American Economic Review 91, 1095- 1102. Khanna, V., Zyla, R. (2010). Corporate governance matters to investors in emerging Market companies. IFC, The World Bank Group. 1-15. Khwaja, A.I., Mian, A. (2005). Do lenders favor politically connected firms? Rent provision in an emerging financial market. Quarterly Journal of Economics 120, 1371-1411. Johnson, S., Boone, P., Breach, A., Friedman, E. (2000). Corporate governance in the Asian financial crisis. Journal of Financial Economics 58, 141-186. Morey, M., Gottesman, A., Baker, E., Godridge, B. (2009). Does better corporate governance result in higher valuations in emerging markets? Another examination using new data set. Journal of Banking and Finance 33(2), 254-262. Petersen, M.A., Rajan, R.G. (1995). The effect of credit market competition on lending relationships. Quarterly Journal of Economics 110, 407-443. Rajan, R., Zingales, L. (1998). Financial dependence and growth. American Economic Review 88, 559-587.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_chat_luong_quan_tri_doanh_nghiep_muc_do_tap.pdf