Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán
Mục tiêu nghiên cứu về chất lượng Báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng kiểm toán đều hướng về yếu tố quyết định chất lượng và các nhà nghiên cứu ở cả hai lĩnh vực đã thực hiện, tập hợp các biến làm gia tăng hoặc suy giảm chất lượng. Mục đích của bài báo nhằm tổng quan khái niệm về chất lượng BCTC, chất lượng kiểm toán và cách thức đo lường cả hai khái niệm này. Tiếp đến, thảo luận về mối quan hệ tương hỗ giữa chất lượng BCTC và chất lượng kiểm toán. Từ đó hiểu hơn mối tương quan giữa hai khái niệm, cũng như cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán
MOÁI QUAN HEÄ GIÖÕA CHAÁT LÖÔÏNG BAÙO CAÙO TAØI CHÍNH VAØ CHAÁT LÖÔÏNG KIEÅM TOAÙN PGS.TS. Mai Thị Hoàng Minh* ThS. Nguyễn Vĩnh Khương* Mục tiêu nghiên cứu về chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng kiểm toán đều hướng về yếu tố quyết định chất lượng và các nhà nghiên cứu ở cả hai lĩnh vực đã thực hiện, tập hợp các biến làm gia tăng hoặc suy giảm chất lượng. Mục đích của bài báo nhằm tổng quan khái niệm về chất lượng BCTC, chất lượng kiểm toán và cách thức đo lường cả hai khái niệm này. Tiếp đến, thảo luận về mối quan hệ tương hỗ giữa chất lượng BCTC và chất lượng kiểm toán. Từ đó hiểu hơn mối tương quan giữa hai khái niệm, cũng như cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai. Từ khóa: Chất lượng kiểm toán, chất lượng BCTC, biến đại diện chất lượng. The relationship between the financial reporting quality of and audit quality of financial statements The primary goal studies on the financial reporting quality and audit quality is to understand the determinants of quality and the researchers in both fields were identified, a set of variables increases or quality deterioration. The purpose of the paper to review the concept of financial reporting quality and audit quality and how to measure both concepts. Discuss the relationship between the financial reporting quality and audit quality. Finally, helps to understand the relationship between the two concepts, as well as opportunities for future research. Key words: Financial reporting quality; audit quality; quality proxies. 1. Giới thiệu đều cố gắng đưa ra các thành phần tạo nên “chất lượng cao” BCTC/ kiểm toán nhưng chưa đưa ra Chất lượng luôn là sự thách thức và là mối quan một khái niệm rộng rãi về chất lượng. Vì vậy, đầu tâm hàng đầu mà bất kỳ tổ chức và doanh nghiệp tiên tác giả định nghĩa về chất lượng báo cáo tài nào đều phải đối mặt trong quá trình hoạt động của chính và chất lượng kiểm toán dựa trên các nghiên mình. Chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng cứu trước đây. Nói chung, “chất lượng” được định kiểm toán có tầm quan trọng đối với cơ quan quản nghĩa là mức độ xuất sắc về một điều gì đó, được đo lý, do đó, đây là chủ đề rất được sự quan tâm bởi lường dựa trên việc so sánh với những việc tương các nhà nghiên cứu hàn lâm. Vì vậy, trước khi phân tự (Từ điển Oxford, 2015). tích mối liên hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán thì cần xác định khái niệm Cả về chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng cho cả hai khái niệm này. Trong bài báo này, tác giả kiểm toán chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động kinh thông qua tổng quan về khái niệm chất lượng kiểm tế tại doanh nghiệp, vì vậy, sự thay đổi về hoạt động toán và chất lượng báo cáo tài chính nhằm thu hẹp tại doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chất lượng dần khoảng cách từ hai khái niệm. Cả hai lĩnh vực BCTC và chất lượng kiểm toán. Đây cũng là tiền * Trường Đại học Kinh tế TP.HCM; Khoa Kế toán-Kiểm toán_Trường Đại học Kinh tế-Luật NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 11 NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI đề của cả hai khái niệm. Do đó, tác giả tiếp tục đưa Luật Kế toán Việt Nam (2015) không có mục ra các biến đại diện nhằm đo lường hai khái niệm riêng để nêu các đặc tính có liên quan đến chất này. Từ đó, đưa ra mối tương quan giữa các biến đo lượng thông tin BCTC, tuy nhiên khi so sánh nội lường nhằm tìm thấy mối quan hệ giữa chất lượng dung trình bày trong chương “Những quy định BCTC và chất lượng kiểm toán. chung” với phần khuôn khổ khái niệm của AAA, FASB, IASB, PCG, có thể thấy rằng những thuộc 2. Khái niệm và đo lường chất lượng báo cáo tính về được liệt kê tại mục “Yêu cầu KT” và tại tài chính chuẩn mực chung (Bộ Tài chính, 2002), theo đó, - Khái niệm chất lượng báo cáo tài chính các thuộc tính thuộc về CLTT BCTC bao gồm: Hiện tại, chưa có định nghĩa về chất lượng báo Trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, có thể cáo tài chính chung được chấp nhận rộng rãi trong hiểu được, có khả năng so sánh. các tài liệu học thuật (McDaniel, Martin và Maines, Dựa trên khuôn mẫu lý thuyết, có thể định 2002; Cohen, Krishnamoorthy và Wright, 2004). nghĩa chất lượng báo cáo tài chính ở mức độ cao Tuy nhiên, khuôn mẫu lý thuyết về báo cáo Tài khi có mức độ cao hơn về tính đầy đủ, khách quan, chính giúp xác định các thang đo phù hợp cho chất không có sai sót và cung cấp thông tin có giá trị dự lượng báo cáo tài chính. Theo khuôn mẫu lý thuyết, đoán hoặc xác thực hữu ích hơn về tình hình tài các báo cáo tài chính cung cấp “thông tin về các chính và hiệu quả kinh doanh của công ty. nguồn lực kinh tế của tổ chức và các nghĩa vụ của - Đo lường chất lượng báo cáo tài chính tổ chức” và “thông tin về ảnh hưởng của giao dịch và các sự kiện khác làm thay đổi nguồn lực kinh tế Các nghiên cứu hàn lâm đã sử dụng các biện và nghĩa vụ của tổ chức”(FASB, 2010). Do đó, mục pháp khác nhau để đo lường chất lượng báo cáo tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp các góc nhìn tài chính. Các biện pháp này có được những khía về công ty dựa trên các thông tin. cạnh khác nhau về chất lượng được mô tả trong 12 Số 132 - tháng 10/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN khuôn mẫu lý thuyết. Ví dụ, một số nghiên cứu cộng sự, 2002). Trong các nghiên cứu tổng hợp, sự tập trung vào khía cạnh hoàn thiện của chất lượng khác biệt về tính hữu ích của các báo cáo tài chính báo cáo tài chính, đo lường chất lượng như mức nhìn chung được đo bằng cách kiểm tra sự khác độ công bố thông tin tự nguyện (Botosan, 1997; biệt về lợi nhuận bất thường xung quanh việc phát Botosan và Plumlee, 2002). Các nghiên cứu khác hành các báo cáo (ví dụ: hệ số chi trả thu nhập). Sự tập trung vào giá trị xác thực và giá trị dự đoán. Ví phụ thuộc vào báo cáo tài chính của thị trường có dụ: thước đo về chất lượng dồn tích được sử dụng thể phản ánh những nhận thức của các nhà đầu tư rộng rãi do Dechow và Dichev (2002) phát triển, có về ... u cầu của các nhà đầu tư” để kiểm toán “cao hơn” như là cung cấp “sự đảm bảo đáp ứng các cuộc kiểm toán độc lập và đáng tin cậy lớn hơn cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung và “thông tin truyền thông của ủy ban kiểm toán thực các nghiệp vụ kinh tế của công ty trên cơ sở hệ tốt” về báo cáo tài chính, công bố, kiểm soát nội bộ thống báo cáo tài chính và các đặc điểm của công và khả năng hoạt động liên tục. PCAOB đặc biệt lưu ty”. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn không kết hợp ý rằng định nghĩa này là phù hợp với khuôn mẫu lý các khía cạnh đầu vào và quy trình về chất lượng thuyết số 8 với cách tiếp cận dựa trên “kết quả” và kiểm toán được coi là quan trọng với một số bên có trọng tâm “nhu cầu của khách hàng”. liên quan (Knechel và cộng sự, 2013). Tuy nhiên, không giống như hầu hết các định Từ các quan điểm trên, các cơ quan ban hành và nghĩa của chất lượng BCTC, PCAOB nói thêm rằng quản lý như PCAOB và IAASB đánh giá chất lượng ngoài việc đánh giá kết quả, cần cân nhắc đến đầu kiểm toán dựa trên các yếu tố đầu vào và quá trình vào và quy trình, vì tất cả đều là các yếu tố quyết kiểm toán, cũng như các kết quả kiểm toán, xem định quan trọng cho chất lượng kiểm toán. Để hỗ một cuộc kiểm toán có chất lượng cao khi bằng trợ dự án PCAOB và các quan điểm khác nhau của chứng kiểm toán có đầy đủ và thích hợp. Theo quan các bên liên quan đến cuộc kiểm toán, Viện Chất điểm này, ngay cả khi một ý kiến kiểm toán thực tế lượng Kiểm toán (CAQ) cho biết định nghĩa chất là hợp lý, cuộc kiểm toán vẫn được xem là có chất lượng kiểm toán phải bao gồm vai trò của ủy ban lượng thấp nếu các thủ tục kiểm toán được áp dụng kiểm toán, tuân thủ các quy định và chuẩn mực, hệ trong quá trình kiểm toán dùng làm cơ sở để xác thống kiểm soát chất lượng của công ty kiểm toán, định ý kiến kiểm toán là không đầy đủ. Các công cũng như liên kết đến việc kiểm soát chất lượng ty kiểm toán có thể có các quan điểm khác nhau về của PCAOB và các chuẩn mực chuyên nghiệp (ví chất lượng kiểm toán, xác định các cuộc kiểm toán dụ như kiến thức, kinh nghiệm...). Phù hợp với có chất lượng cao hơn từ những việc đã hoàn thành khái niệm này, Hội đồng Chuẩn mực kiểm toán và theo các chính sách và thủ tục của công ty. dịch vụ đảm bảo quốc tế (IAASB) tập trung vào quy Cuối cùng, theo quan điểm của các nhà đầu tư trình kiểm toán như một thước đo về chất lượng: và những người sử dụng báo cáo tài chính, chất “Theo quan điểm của IAASB, chất lượng kiểm lượng kiểm toán ở mức độ cao là cuộc kiểm toán toán có thể đạt được khi ý kiến của kiểm toán viên mà kiểm toán viên cung cấp ý kiến kiểm toán có về các báo cáo tài chính có thể dựa trên bằng chứng thông tin (DeFond và Zhang 2014). Các bên liên đầy đủ, phù hợp thu được bởi nhóm dịch vụ kiểm quan khác nhau có thể có quan điểm khác nhau về toán thực hiện (IAASB 2013, trang 10).” định nghĩa chính xác (và các thước đo tốt nhất) về Nghiên cứu hàn lâm về chất lượng kiểm toán chất lượng kiểm toán nhưng đều đồng nhất về việc đã chủ yếu sử dụng một định nghĩa dựa trên tiếp tập trung vào yếu tố đầu vào, quá trình kiểm toán cận trên cơ sở kết quả về chất lượng kiểm toán của và kết quả đầu ra. Ngay cả các bên liên quan như DeAngelo (1981): Chất lượng kiểm toán đánh giá các nhà đầu tư, những người dường như quan tâm bởi một kiểm toán viên sẽ phải đạt cả hai yêu cầu: nhiều hơn đến kết quả đầu ra, có thể hiểu rằng các khi khám phá ra một sự vi phạm trong hệ thống kế kết quả đầu ra mang tính xác suất và yếu tố đầu vào 14 Số 132 - tháng 10/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN và quá trình kiểm toán sẽ làm tăng khả năng đạt đồng của công ty kiểm toán - khách hàng. Cách đo được kết quả đầu ra. lường dựa trên kết quả đầu ra được phân loại thành Do đó, định nghĩa về chất lượng kiểm toán của thay đổi báo cáo tài chính, gian lận, vấn đề truyền chúng tôi tập trung vào quan điểm này. Cụ thể, chất thông của kiểm toán viên, chất lượng báo cáo tài lượng kiểm toán ở mức độ cao là cuộc kiểm toán chính và nhận thức. Cách tiếp cận này sử dụng cung cấp mức bảo đảm cao hơn mà ở đó kiểm toán phương pháp thử nghiệm và xem các biến này là viên đã có đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để biến đại diện cho chất lượng kiểm toán. Mặc dù, chứng minh rằng báo cáo tài chính được trình bày do tính chất của việc thu thập dữ liệu, các nghiên trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị. cứu thử nghiệm có xu hướng tập trung nhiều hơn vào các biện pháp dựa trên quá trình kiểm toán (Ví - Đo lường chất lượng kiểm toán dụ: các quyết định về kế hoạch kiểm toán, đánh Theo tổng quan các nghiên cứu trước đây, có giá bằng chứng, sử dụng chuyên gia...) (Knechel nhiều cách thức đo lường về chất lượng kiểm toán và cộng sự, 2013) và cách đo lường dựa trên nhận đã được sử dụng (Francis, 2004). DeFond và Zhang thức về kết quả đầu ra (ví dụ như nhận thức của các (2014) dựa trên các nghiên cứu tổng hợp cho rằng nhà đầu tư về chất lượng kiểm toán). đo lường chất lượng kiểm toán từ một trong hai Các biến đại diện cho chất lượng kiểm toán có quan điểm: đầu vào đến quá trình kiểm toán (ví dụ: mức tương quan cao với nhau, chất lượng kiểm quy mô công ty kiểm toán) và kết quả của quá trình toán là khái niệm đa hướng, không có cách đo kiểm toán (ví dụ như ý kiến kiểm toán). Hơn nữa, lường có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp các nhà nghiên cứu phân loại cách tiếp cận yếu tố nghiên cứu về chất lượng kiểm toán. đầu vào thành các vấn đề liên quan đến đặc điểm của kiểm toán viên và các vấn đề liên quan đến hợp Ngoài ra, một số biến đại diện cho chất lượng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 15 NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI kiểm toán không phù hợp với các khái niệm về chất dồn tích, thao túng thu nhập. lượng kiểm toán và không thể khái quát hóa cho Thư hai, đo lường chất lượng báo cáo tài chính tất cả các công ty hoặc theo thời gian. Ví dụ, báo và chất lượng kiểm toán nói chung không thể tách cáo kiểm tra PCAOB ghi nhận sự thiếu sót đôi khi rời khi sử dụng các kết quả đầu ra như là biến đại được sử dụng như một thước đo chất lượng kiểm diện cho chất lượng. Vì vậy, mặc dù chất lượng toán. Tuy nhiên, thay vì sử dụng một phương pháp kiểm toán và chất lượng báo cáo tài chính là những lựa chọn thống kê, PCAOB sử dụng phương pháp khái niệm riêng biệt, do đó, nên sử dụng các biến tiếp cận dựa trên rủi ro đại diện khác nhau. Chất lượng báo cáo tài chính Do đó, khó có thể đưa ra các kết luận rõ ràng trước kiểm toán so với chất lượng báo cáo tài chính về chất lượng kiểm toán dựa trên kết quả kiểm tra. sau kiểm toán nhìn chung không đáng lưu ý. Ví dụ, chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm Tóm lại, vì chất lượng kiểm toán phụ thuộc vào toán không được chú ý một cách riêng biệt bằng quan điểm khác nhau của các bên liên quan, vì vậy, cách đo lường mức độ thay đổi báo cáo, sai lệch báo không có một thước đo phù hợp cho tất cả quan cáo tài chính hoặc quản trị thu nhập như là biến điểm. Do đó, các nhà nghiên cứu cần xác định đại diện cho chất lượng. khía cạnh, quan điểm về chất lượng kiểm toán để lựa chọn biến đại diện phù hợp. Hơn nữa, các nhà Thứ ba, cả chất lượng báo cáo tài chính và chất nghiên cứu nên xem xét việc sử dụng biến đại diện lượng kiểm toán đều bị ảnh hưởng mạnh bởi các dựa trên yếu tố đầu vào, quá trình và kết quả đầu ra nghiệp vụ kinh tế. Mặc dù, cách đo lường này có (Francis, 2011; Knechel và cộng sự, 2013; DeFond nhiều cách đo như các khoản thu nhập bất thường và Zhang, 2014). và chi phí kiểm toán bất thường. Điều này cho thấy rằng các thước đo về chất lượng báo cáo tài chính 4. Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài và chất lượng kiểm toán có thể thấp hơn do sự thay chính và chất lượng kiểm toán đổi hoặc không đồng đều giữa tiêu chuẩn ngành Từ các định nghĩa về chất lượng báo cáo tài giữa các công ty. chính và chất lượng kiểm toán là các khái niệm Cuối cùng, rất ít nghiên cứu đề cập các vấn đề nghiên cứu khác nhau. Chất lượng báo cáo tài liên quan đến đo lường chất lượng báo cáo tài chính chính được hiểu là mức độ mà báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán thường là trường hợp nội phản ánh tình trạng “sức khỏe” của công ty, trong sinh. Quan điểm cho rằng chất lượng kiểm toán khi chất lượng kiểm toán đạt được khi mức độ đảm là yếu tố quyết định chất lượng báo cáo tài chính bảo rằng kiểm toán viên có đủ bằng chứng thích sau kiểm toán được các nghiên cứu trước đây đồng hợp rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và thuận (DeFond và Zhang, 2014). Tuy nhiên, quan hợp lý tình trạng “sức khỏe” công ty. Mặc dù là các niệm cho rằng mối quan hệ giữa chất lượng báo khái niệm nghiên cứu khác nhau, chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán theo cách cáo tài chính và chất lượng kiểm toán thường có đo hồi quy lặp lại ít được xem xét. Ví dụ, nhiều khả mối liên hệ. năng kỳ vọng về chất lượng kiểm toán ảnh hưởng Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây lúng túng về đến chất lượng báo cáo tài chính trước kiểm toán. sự phân biệt giữa chất lượng báo cáo tài chính và 5. Kết luận chất lượng kiểm toán và sử dụng cùng biến đại diện cho chất lượng báo cáo tài chính hoặc chất lượng Bài viết đưa ra các quan điểm nhìn nhận về chất kiểm toán. Ví dụ: gian lận, kiện tụng, chất lượng lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán 16 Số 132 - tháng 10/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN thông qua các nghiên cứu trước đây. Từ các quan 9. Brown-Liburd, H. L, J. Cohen, and G. Trompeter. điểm khác nhau, các biến đại diện cho cách thức 2013. Effects of earnings forecasts and heightened đo lường hai khái niệm cũng được bàn luận. Từ professional skepticism on the outcomes of client-auditor negotiation. Journal ofBusiness đó, cung cấp góc nhìn toàn diện hơn về hai khái Ethics 116 (2): 311-325; niệm và tạo tiền đề cho các nghiên cứu tương lai. 10. Center for Audit Quality (CAQ). 2013. Audit Nghiên cứu trong tương lai về chất lượng báo cáo quality indicators [Letter to the PCAOB]; tài chính và chất lượng kiểm toán có thể cung cấp 11. Chen, Q., K. Kelly, and S. E. Salterio. 2012. Do cái nhìn sâu hơn về các yếu tố quyết định và ảnh changes in audit actions and attitudes consistent with increased auditor skepticism deter aggressive hưởng của chất lượng nếu xét đến những thay đổi earnings management? An experimental và khác nhau về tình hình kinh tế có thể ảnh hưởng investigation. Accounting, Organizations and đến báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán. Society 37 (2): 95-115; 12. Clor-Proell, S. M., C. A. Proell, and T. D. Warfield. 2014. The effects of presentation salience and TÀI LIỆU THAM KHẢO measurement subjectivity on nonprofessional 1. Ahmed, A. S., M. Neel, and D. Wang. 2013. Does investors’ fair value judgments. Contemporary mandatory adoption of IFRS improve accounting Accounting Research 31 (1): 45-66. quality? Preliminary evidence. Contemporary 13. DeAngelo, L. 1981. Auditor size and audit quality. Accounting Research 30 (4): 1344-1372; Journal of Accounting and Economics 3 (3): 183–199; 2. Barth, M., W. Landsman, and M.H. Lang. 14. Dechow, P. M. and I. D. Dichev. 2002. The quality of 2008. International accounting standards and accruals and earnings: The role of accrual estimation accounting quality. Journal of Accounting errors. The Accounting Review 77 (s-1): 35-59; Research 46 (3): 467-498; 15. Dechow, P, W. Ge, and C. Schrand. 2010. 3. Botosan, C. A. 1997. Disclosure level and the cost of Understanding earnings quality: A review equity capital. The Accounting Review.72 (3): 323-349; of theproxies, their determinants and their 4. Botosan, C. A. and M. A. Plumlee. 2002. A consequences. Journal of Accounting and re-examination of disclosure level and the Economics 50 (2): 344-401; expected cost of equity capital. Journal of 16. DeFond, M. and J. Zhang. 2014. A review of Accounting Research 40 (1): 21-40; archival auditing research. Journal of A ccounting 5. Brandon, D. M., A. D. Crabtree, and J. J. Maher. and Economics 58 (2): 275-326; 2004. Nonaudit fees, auditor independence, and 17. Francis, J.R. 2011. A framework for understanding bond ratings. Auditing: A Journal of Practice & and researching audit quality. Auditing: AJournal Theory 23 (2): 89-103; of Practice & Theory 30 (2): 125–152; 6. Bratten, B., L.M. Gaynor, L. McDaniel, N.R. 18. International Auditing and Assurance Standards Montague, and G. Sierra. 2013. The Audit of Board (IAASB). 2013. A Framework for Audit Fair Values and Other Estimates: The Effects of Quality (Consultation Paper, January 2013). New Underlying Environmental, Task, and Auditor- York: International Federation ofAccountants; Specific Factors. Auditing: A Journal of Practice 19. Knechel, R. W., G. V. Krishnan, M. Pevzner, L. B. Shefchik, & Theory 32 (Supplement 1): 7-44; and U.K. Velury. 2013. Auditing quality: Insights from 7. Bratten, B., R. Jennings, and C. M. Schwab. the academic literature. Auditing: A Journal of Practice 2015. The effect of using a lattice model to & Theory 32 (Supplement 1): 385-421; estimate reported option values. Contemporary 20. Müller, M. A., E. J. Riedl, and T. Sellhorn. 2015. Accounting Research 32 (1): 192-222; Recognition versus disclosure of fair values. The 8. Bratten, B., M. Causholli, and U. Khan. Accounting Review 90 (6): 2411-2447; 2016a. Usefulness of fair values for predicting 21. Public Company Accounting Oversight banks’ future earnings: Evidence from other Board (PCAOB). 2015a. Concept Release on comprehensive income and its components. AuditQuality Indicators (Release No. 2015-005, Review of Accounting Studies 21 (1): 280-315; July 1, 2015). Washington, DC: PCAOB. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 17
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_va_chat_luong.pdf