Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam

Nợ công không chỉ là nỗi bận tâm của nước nghèo mà còn cả của nước giàu, đồng thời là vấn đề chung của nhân loại vì nó là không khí sống của thương mại hiện đại và là một phần quan trọng không thể thiếu trong chính sách tài chính của mỗi quốc gia. Hãng tin CNBC dẫn số liệu từ Viện Tài chính Quốc tế (IIF) cho biết khối nợ toàn cầu đã đạt mức 217 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 3/2017, tương đương 327% tổng sản phẩm trong nước (GDP) của cả thế giới.[4] Vì vậy, nợ công cần phải được quản lý và sử dụng hợp lý, hiệu quả,minh bạch nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất kỳ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Đây là chủ đề “nóng” với nhiều vấn đề quan trọng được đưa ra bàn luận, mổ xẻ từ nghị trường của Quốc hội (QH), các hội nghị, hội thảo cũng như được dư luận xã hội quan tâm nhưng chưa có sự đồng thuận cao, trong đó nổi lên 3 nội dung: phạm vi nợ công; ai là người quản lý nợ công và vấn đề an toàn nợ công của Việt Nam. Do đó, bài viết góp phần trao đổi và phân tích làm rõ thêm những vấn đề nêu trên

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 8340
Bạn đang xem tài liệu "Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam

Lạm bàn về nợ công và quản Lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam
 Kieåm tOAÙN nôï coâng - naâng cao hieäu quaû quaûn lyù vaø söû duïng caùc khOAÛN nôï coâng
 Laïm baøn veà nôï coâng vaø
 quaûn lyù hieäu quaû nôï coâng hieän nay 
 taïi Vieät Nam
 PGS.TS. Nguyễn Đình Hòa*
 ợ công không chỉ là nỗi bận tâm của nước nghèo mà còn cả của nước giàu, đồng thời là vấn 
 đề chung của nhân loại vì nó là không khí sống của thương mại hiện đại và là một phần quan 
 trọng không thể thiếu trong chính sách tài chính của mỗi quốc gia. Hãng tin CNBC dẫn số 
 liệuN từ Viện Tài chính Quốc tế (IIF) cho biết khối nợ toàn cầu đã đạt mức 217 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 
 3/2017, tương đương 327% tổng sản phẩm trong nước (GDP) của cả thế giới.[4]
 Vì vậy, nợ công cần phải được quản lý và sử dụng hợp lý, hiệu quả,minh bạch nếu không thì khủng 
 hoảng nợ công có thể xảy ra với bất kỳ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả 
 nghiêm trọng. Đây là chủ đề “nóng” với nhiều vấn đề quan trọng được đưa ra bàn luận, mổ xẻ từ nghị 
 trường của Quốc hội (QH), các hội nghị, hội thảo cũng như được dư luận xã hội quan tâm nhưng chưa có 
 sự đồng thuận cao, trong đó nổi lên 3 nội dung: phạm vi nợ công; ai là người quản lý nợ công và vấn đề 
 an toàn nợ công của Việt Nam. Do đó, bài viết góp phần trao đổi và phân tích làm rõ thêm những vấn đề 
 nêu trên.
 Từ khóa: Nợ công, phạm vi nợ công; an toàn nợ công; cơ quan quản lý nợ công.
 Public debt and effective management of public debt in Vietnam
 Public debt is not only a concern of the poor but also of the rich country, and is the common problem 
 of mankind as it is the living air of modern commerce and an essential and indispensable part of each 
 country’s financial policy. CNBC news agency cited data from the Institute of International Finance (IIF) 
 said the global debt volumes reached US $ 217 trillion at the end of March/2017, 327% of the equivalent 
 domestic product (GDP) of the world. Therefore, public debt must be managed and used in a rational, 
 efficient and transparent manner; otherwise the public debt crisis may occur to any country at any time 
 and leave behind consequences. The topic of “hot” with many important issues to be discussed, dissected 
 from the Congress, conferences, seminars as well as social attention but no co-interest. High pros, in which 
 emerged 3 contents: public debt range; Who is managing public debt and public debt security in Vietnam? 
 Therefore the article contributes to the discussion and analysis further clarifies the issues mentioned above.
 keywords: Public debt, public debt; Public debt security; Public debt management agency.
 1. Phạm vi nợ công trả thay). Một số nước còn quy định phạm vi nợ 
 1.1. Sự khác biệt trong cách tính nợ công của công bao gồm cả nợ chính quyền địa phương (Anh, 
 Việt Nam và thế giới Canada, Hoa Kỳ, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Bungaria, 
 Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Ấn Độ, Philippines, Đài Loan, 
 Phạm vi nợ công của hầu hết các nước đều bao 
 gồm nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo Macedonia), nợ của một số doanh nghiệp nhà 
 lãnh (các khoản bảo lãnh của Chính phủ (CP) mà nước (Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Macedonia, Anh), nợ 
 người được bảo lãnh không trả được nợ, CP phải khu vực an sinh xã hội (Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ).
 *Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng Nghiệp vụ kiểm toán
6 Số 117 - tháng 7/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
 Mặc dù, khái niệm về nợ công tương đối rõ ràng Nam) và các quỹ ASXH. Tuy nhiên, việc không tính 
và mang tính trực quan cao là các nghĩa vụ nợ của đến nghĩa vụ tài chính tại các DNNN thông thường, 
Nhà nước, nhưng cách thức tính toán và phạm vi CP không đảm bảo thanh toán, là đúng với quy ước 
bao hàm có sự khác biệt nhất định giữa các quốc của IMF. Tuy nhiên, cũng phải nhận thức một thực 
gia. Để đảm bảo khả năng so sánh và kiểm soát rủi tế rằng ở các nước phát triển, số DNNN rất ít hay 
ro nợ công trên phạm vi toàn cầu, Quỹ Tiền tệ Quốc không đáng kể do đó việc tính nợ của DNNN hay 
tế (IMF) đưa ra một khung tiếp cận chung trong không tính không có ý nghĩa thống kê nhưng ở Việt 
tính toán về nợ công được sử dụng như chuẩn mực Nam thì DNNN là một bộ phận quan trọng của 
trong thống kê [5]. Cách tiếp cận của IMF bao gồm kinh tế nhà nước, giữ vai trò chủ đạo nắm giữ một 
hai cấu phần chính, xác định các chủ thể nợ công khối lượng lớn tài sản của quốc gia lại có ý nghĩa 
và các công cụ nợ công. Theo định nghĩa của IMF, thống kê rất lớn. Do đó, theo chúng tôi QH, CP nên 
nợ công bao gồm nợ của Chính phủ trung ương và cân nhắc để đưa nợ của DNNN vào nợ công thì phù 
Chính quyền địa phương. Trong đó, nợ Chính phủ hợp hơn với thông lệ quốc tế và thực tiễn đã xảy 
trung ương không chỉ bao gồm nợ của các cơ quan ra ở Việt Nam. Bởi như trường hợp của Vinashin, 
ở cấp Trung ương như các bộ, cơ quan thuộc Chính dù nợ của Vinashin không được tính vào nợ công, 
phủ, cơ quan lập pháp, tư pháp, Chủ tịch nước (Tổng nhưng khi Tập đoàn này mất khả năng thanh toán 
thống) mà còn bao gồm các đơn vị sử dụng vốn trên thị trường quốc tế, CP đã không thể lờ đi trách 
ngân sách nằm ngoài Chính phủ (các đơn vị thực nhiệm trả nợ của mình, bởi nếu không gánh trách 
hiện một chức năng chuyên biệt của Chính phủ về y nhiệm đó thì mức tín nhiệm của Trái phiếu Chính 
tế, giáo dục, an sinh xã hội, xây dựng được kiểm phủ (TPCP) sẽ bị hạ xuống thấp, lãi suất TPCP buộc 
soát và tài trợ tài chính hoàn toàn bởi Chính phủ phải tăng lên mà vẫn không thể phát hành đủ để bù 
Trung ương) và các quỹ an sinh xã hội. vào bội chi ngân sách hàng năm. Những chi phí của 
 Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới(WB), những hệ lụy này là không nhỏ để khắc phục so với 
nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm: việc đối xử nó là nợ công. Ngoài ra còn xảy ra một 
(1) Nợ của Chính phủ Trung ương và các Bộ, ban, thực tế là DNNN đã bị các chủ nợ bắt giữ tàu vận 
ngành Trung ương; (2) Nợ của các cấp chính quyền tải của các con nợ này khi tham gia giao thông trên 
địa phương; (3) Nợ của Ngân hàng Trung ương;  ...  thuyết phục, bởi lẽ chức năng giám sát là 
lý nợ thuộc Ngân hàng Trung ương (Đan Mạch), cơ 
 không thuộc 3 cơ quan này, mà quyền năng giám 
quan quản lý nợ có quyền tự quyết cao, trực thuộc 
 sát tối cao nợ công là của QH trong đó có các vị Đại 
CP (Thụy Điển, Áo, Bồ Đào Nha, Ai Len...)
 biểu QH này. Nếu quy về một mối mà đảm bảo sự 
 Do đó, theo chúng tôi, cần xác định rõ vai trò, công khai minh bạch và hiệu quả thì không ngại 
nhiệm vụ, mục đích của các cơ quan chủ trì/liên “gây ra sự xáo trộn” mà phải kiên quyết đột phá để 
quan, đồng thời đảm bảo cơ chế phối hợp trong cắt bỏ những “khối u” này.[7]
 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 117 - tháng 7/2017 9
 Kieåm tOAÙN nôï coâng - naâng cao hieäu quaû quaûn lyù vaø söû duïng caùc khOAÛN nôï coâng
 3. An toàn nợ công trạng “bảo lãnh ngầm” của Chính phủ đối với các 
 3.1. Rủi ro nợ công hiện nay của Việt Nam khoản nợ của DNNN (cả các dự án PPP) đang tạo 
 ra tâm lý ỷ lại nguy hiểm.
 Để xác định được mức an toàn nợ công, trước 
 hết chúng ta cần phải nhận diện đầy đủ các rủi ro c) Áp lực tỷ giá và rủi ro khủng hoảng tiền tệ
 nợ công hiện nay của chúng ta. Trong cơ cấu nợ công thì nợ công nước ngoài 
 của Việt Nam chiếm khoảng 47% tổng nợ công và 
 Kinh nghiệm của các nước cũng đã cho thấy, 
 quản lý nợ công hiệu quả, an toàn không chỉ giới hạn hơn 76% tổng nợ nước ngoài của quốc gia. Nợ công 
 ở việc duy trì mức nợ công trong phạm vi các chỉ số nước ngoài cộng với nợ tư nhân nước ngoài hiện 
 (các ngưỡng) nợ đề ra. Điều quan trọng là phải đánh chiếm trên 37% GDP. Nợ nước ngoài có rủi ro rất 
 giá được mức độ rủi ro liên quan đến danh mục nợ khác so với nợ trong nước. Chẳng hạn, khi đồng 
 công để chủ động có biện pháp đối phó thích hợp, tiền mất giá, nợ nước ngoài tính bằng nội tệ sẽ tăng 
 có thể là rủi ro tỷ giá hoặc lãi suất (rủi ro thị trường) lên khiến cho việc thanh toán nợ của Chính phủ trở 
 hay rủi ro về kỳ hạn, rủi ro thanh khoản, rủi ro tái nên khó khăn hơn nhiều. Điều này cũng tạo thách 
 tài trợ nợ. Các nước có thị trường vốn phát triển, thức rất lớn cho việc điều hành tỷ giá hiện nay. Hơn 
 tính thanh khoản cao, thường quan tâm nhiều đến nữa, bản thân các DNNN cũng vay nợ ngoại tệ rất 
 rủi ro thị trường; trong khi các nước có thị trường nhiều nên càng có động cơ để gây áp lực khiến cho 
 vốn chưa phát triển thì lại thường quan tâm nhiều NHNN khó điều chỉnh tỷ giá mà điển hình là đề 
 hơn đến rủi ro kỳ hạn và quay vòng vốn (tái tài trợ nghị hạch toán lỗ tỷ giá vào giá thành sản xuất điện 
 nợ). Các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cho của các Tập đoàn Than và Khoáng sản (TKV) hay 
 thấy yếu tố rủi ro kỳ hạn là rất quan trọng đối với Điện lực Việt Nam (EVN) vừa qua. Như vậy, công 
 các nước đang phát triển. Các quốc gia có cơ cấu về cụ tỷ giá của NHNN vô hình trung bị biến thành 
 thời hạn vay không phù hợp, nếu khi gặp biến động công cụ quản lý rủi ro tỷ giá cho các DNNN. Khi 
 sẽ không thể quay vòng nợ, do đó rất dễ rơi vào vòng chính sách tỷ giá bị trói buộc cũng khiến cho chính 
 xoáy của khủng hoảng nợ. sách tiền tệ giảm hiệu lực và nguy cơ thường trực 
 đối diện với rủi ro khủng hoảng tiền tệ.
 Theo chúng tôi, nợ công của ta hiện nay có 
 những rủi ro sau đây: d) Rủi ro nợ thương mại và trò chơi Ponzi (đảo nợ)
 a) Nợ phân tán và kỷ luật ngân sách lỏng lẻo Nợ công nước ngoài của Việt Nam chủ yếu vẫn 
 là nợ ưu đãi nhưng vay thương mại cũng đã tăng 
 Ràng buộc ngân sách của Việt Nam quá lỏng 
 nhanh với lý do là Việt Nam đã chuyển sang nước 
 lẻo mà giới chuyên môn gọi là ràng buộc ngân 
 thu nhập trung bình. Ngay cả các khoản ODA 
 sách mềm, là biểu hiện của kỷ cương, kỷ luật tài 
 thì loại ODA vốn vay đang chiếm tỷ trọng ngày 
 khóa yếu kém. Chính điều này làm cho các quyết 
 càng lớn, từ mức gần 80% giai đoạn 1993-2000, 
 định chi tiêu hay vay nợ dễ bị lạm dụng và tùy tiện. 
 lên 93% giai đoạn 2006-2010, và 95,7% giai đoạn 
 Biểu hiện rõ nhất là con số quyết toán ngân sách 
 2011-2012. Trong khi đó, vay thương mại tăng lên 
 luôn cao hơn nhiều so với dự toán. Nợ công phải 
 cũng có nghĩa là lãi suất vay nợ cũng tăng lên. Lãi 
 lấy chiến lược tài chính quốc gia và chính sách tài 
 suất tăng lên cùng với mức nợ công cao sẽ làm tăng 
 khóa làm kim chỉ nam, phải tuân thủ những ràng 
 tốc độ gia tăng nợ công rất nhanh, có nguy cơ vượt 
 buộc này.
 ra ngoài tầm kiểm soát của trò chơi Ponzi.
 b) Nghĩa vụ nợ tiềm ẩn tăng nhanh
 đ) Chi tiêu lãng phí và đầu tư sai địa chỉ
 Không chỉ Chính phủ vay mà bản thân DNNN 
 Có một thực trạng chung là các Chính phủ 
 cũng đi vay nhưng hiệu quả kém khiến cho nghĩa 
 thường có xu hướng muốn chi tiêu nhiều hơn so 
 vụ nợ tiềm ẩn của Chính phủ tăng lên. Mặc dù theo 
 với nguồn thu.
 Luật Nợ công chỉ những khoản nợ DNNN được 
 Chính phủ bảo lãnh mới tính vào nợ công, song có Chính phủ của một quốc gia nếu luôn chi tiêu 
 cơ sở để cho rằng cả những khoản nợ không được nhiều hơn so với nguồn thu từ thuế, tức là để tình 
 bảo lãnh cũng có thể biến thành nợ công. Tình trạng bội chi ngân sách kéo dài, thì nợ công sẽ tăng 
10 Số 117 - tháng 7/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
nhanh. Để bù đắp vào bội chi ngân sách, Chính chuyên gia kinh tế khuyến nghị rằng, nếu nợ công/
phủ có hai lựa chọn, hoặc là in thêm tiền để bù GDP quá lớn, 65%-80% GDP, thì dù vay bằng hình 
vào, hoặc là đi vay thêm tiền, chủ yếu thông qua thức nào, GDP sẽ bị ảnh hưởng xấu, thậm chí có 
phát hành Trái phiếu Chính phủ (trái phiếu trong thể dẫn đến tăng trưởng âm, vì hầu hết tiền đều 
nước và quốc tế), hoặc vay vốn ODA. Và cũng bởi phải dùng để trả nợ chứ không còn đủ để đầu tư 
vậy, biến động lãi suất Trái phiếu Chính phủ, hoặc cho kinh tế. Còn phải đánh giá thực trạng nợ, tình 
biến động đánh giá xếp hạng Trái phiếu Chính phủ 
 hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, tiền tệ, nhu 
của các tổ chức xếp hạng uy tín là thước đo hết cầu về vốn đầu tư phát triển, hệ số tín nhiệm của 
sức tiêu biểu đánh giá tín nhiệm đối với Chính phủ quốc gia Theo các chuyên gia kinh tế, đôi vơi 
đó và sức khỏe của nền kinh tế đó. Pháp luật Việt cac quốc gia mới nổi hay đang phat triên, nợ công/
Nam không cho phép in tiền để bù vào bội chi ngân GDP ở mức 40% la ty lê đươc đê xuât va ty lê nay 
sách nên chỉ có con đường đi vay và phát hành Trái không nên bi pha vơ trong dai han.
phiếu Chính phủ.
 Ngay cả khi chưa tính đúng và đủ nợ công, tỷ lệ 
 Với tình trạng bội chi ngân sách kéo dài nhiều nợ công/GDP của Việt Nam đã xấp xỉ 65%, cao thứ 
năm, đương nhiên nợ công trở thành vấn đề bức hai ASEAN, chỉ sau Singapore có tỷ lệ nợ công lên 
bách nhất của CP và nền kinh tế Việt Nam hiện đến 104,7% GDP. Tuy nhiên, phần lớn nợ công của 
nay; giai đoạn 2006 -2016, tỷ lệ bội chi ngân sách/ Singapore là vay từ dân cư của quốc đảo này bằng 
GDP tăng từ mức 0,99% lên đến 8,24%. chính đồng nội tệ với mức lãi suất rất thấp nên nợ 
 Theo số liệu được công bố chính thức của CP, công không chịu tác động rủi ro tỷ giá hay mất khả 
trong giai đoạn 2011-2015, nợ công tăng bình quân năng chi trả. Singapore cũng là quốc gia hiếm hoi 
18,5%/năm, gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng của Châu Á được đánh giá tín nhiệm ở mức cao 
GDP. Năm 2015, nợ công tăng gấp 2,3 lần năm nhất AAA (cùng với nền kinh tế Hồng Kông).
2010; gấp 7,6 lần năm 2005 và 14,8 lần năm 2001. 
 So sánh với các quốc gia đang trong giai đoạn 
Cách đây 15 năm, nợ công chỉ chiếm 36,5% GDP 
 phát triển, nợ công/GDP của họ hầu hết thấp hơn 
và hiện đã chiếm gần 65% GDP. Chính phủ đã phải 
 mức 40%, các quốc gia này hầu hết có mức đánh 
áp dụng phương pháp vay đảo nợ để có nguồn tiền 
 giá tín nhiệm dao động từ A- đến AA+, trong khi 
trả nợ công: năm 2013 phải đảo nợ 47.000 tỷ đồng, 
 mức tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam hiện ở 
chỉ một năm sau đó con số đảo nợ đã tăng lên mức 
 mức BB-.
106.000 tỷ đồng, con số này năm 2015 đã là 125.000 
tỷ đồng, và năm 2016 tiếp tục phải đảo nợ 95.000 Điều này có nghĩa Việt Nam phải chi trả lãi cao 
tỷ đồng. Việc phân bổ, sử dụng vốn vay cho đầu hơn so với các quốc gia phát triển tương đương 
tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, trên thực tế đã khi đi vay nợ và nợ phải trả hàng năm lớn hơn 
có một số dự án vay lại vốn vay ODA, ưu đãi, bảo nhiều so với các quốc gia khác (vì quy mô nợ 
lãnh Chính phủ phát sinh rủi ro không trả được lớn hơn, mức lãi suất TPCP cao hơn). Kết quả là, 
nợ, phải thực hiện tái cơ cấu tài chính, chuyển sang nguồn thu từ thuế sẽ phải dành nhiều hơn cho trả 
hình thức Nhà nước đầu tư hoặc Quỹ Tích lũy phải nợ, giảm tỷ lệ tiền dành cho đầu tư phát triển (đầu 
ứng trả thay; còn thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư cho giáo dục, y tế). Chi thường xuyên và chi trả 
tư với cân đối trả nợ. Đầu tư dàn trải và đầu tư sai nợ tăng nhanh khiến dư địa chi đầu tư phát triển 
địa chỉ với 12 dự án nghìn tỷ thua lỗ là minh chứng bị hạn chế, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong cơ 
thuyết phục. cấu chi vẫn ở mức thấp và giảm qua các năm (tỷ 
 trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN 
 e) Quy mô và tốc độ tăng của nợ công Việt Nam 
gây rủi ro cho tăng trưởng kinh tế giảm từ 26,5% năm 2011 xuống còn 20% năm 
 2016. Bình quân giai đoạn 2011-2015 là 24,3%). 
 Để đo mức nợ công hay kiểm soát nợ công ở Đây chính là nguyên nhân khiến tăng trưởng kinh 
ngưỡng an toàn, các quốc gia cần phải xác định tế của Việt Nam khó bền vững, chưa tính đến hiệu 
được các tỷ lệ nợ công/GDP. quả đầu tư và các vấn đề về tham nhũng, thể chế 
 Nhìn chung, các tổ chức tài chính quốc tế và yếu kém.
 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 117 - tháng 7/2017 11
 Kieåm tOAÙN nôï coâng - naâng cao hieäu quaû quaûn lyù vaø söû duïng caùc khOAÛN nôï coâng
 f) Nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ công, h) Quản lý nợ công còn phân tán, thiếu cơ chế 
 điều này khiến nền kinh tế sẽ khó giữ ổn định trước phối hợp
 các biến động của thế giới và khu vực Hệ lụy của việc này là công tác tổng hợp báo 
 Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính cáo, quyết toán, thống kê số liệu nợ công chưa kịp 
 phủ tập trung vào một số đồng tiền chính bao gồm: thời, đầy đủ, chính xác theo quy định dẫn đến việc 
 đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ Bộ Tài chính tổng hợp nợ công có thể chưa đầy đủ 
 trọng 16%; Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và Euro các khoản nợ Chính phủ, chính quyền địa phương. 
 chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng tiền Đặc biệt việc kiểm toán để xác định trách nhiệm 
 khác.[9]. vay, trả nợ, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, bố 
 trí vốn đối ứng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.
 Quốc gia chủ nợ ODA lớn nhất của Việt Nam là 
 Nhật Bản. Mặc dù Việt Nam được vay vốn ODA từ 3.2. Xác định mức an toàn nợ công
 Nhật Bản với mức lãi suất cực thấp nhưng lại phải Hiện vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn chung về 
 vay bằng đồng Yên (JPY). Đồng JPY liên tục tăng ngưỡng an toàn nợ công mà có thể áp dụng đối với 
 giá trong khi đồng VND mất giá, điều này khiến tất cả các quốc gia. Việc các chỉ tiêu nợ công của 
 gánh nặng trả nợ ODA cho Nhật Bản là lớn, chi phí từng nước cần được xác định trên cơ sở các yếu tố 
 vay vốn ODA thực tế rất cao. như tình hình kinh tế vĩ mô, khả năng trả nợ, hiệu 
 Như vậy, các biến động kinh tế Mỹ, các nền kinh quả sử dụng nguồn vốn Để hỗ trợ cho các nước 
 tế lớn, động thái lãi suất của FED hoặc đồng USD trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp luật 
 tăng giá sẽ tác động mạnh lên áp lực trả nợ công về nợ công, nhất là ở các nước đang phát triển, các 
 hàng năm của Việt Nam. Nền kinh tế khó giữ ổn tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân 
 định trước các biến động kinh tế khu vực và thế giới. hàng Thế giới cũng đã xây dựng và công bố một số 
 chỉ dẫn cơ bản về quản lý nợ công, song những chỉ 
 g) Nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ công 
 dẫn này cũng chỉ dừng ở mức tham khảo.
 của Việt Nam
 Theo thông lệ quốc tế, ngương nơ công tôi ưu 
 Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ khó tiếp cận 
 (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng 
 hơn với ODA, Việt Nam chỉ có thể phát hành 
 trưởng kinh tế) thông thương cho cac nươc phat 
 TPCP với mức lãi suất cao để có tiền đảo nợ và bù 
 triên la 90%, cac nươc đang phat triên co nên tang 
 đắp bội chi. Việt Nam hiện đã trở thành quốc gia có 
 tôt la 60% va co nên tang kem la 30 - 40%. Vì vậy, 
 thu nhập trung bình, nguồn vốn vay ưu đãi viện trợ 
 mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 
 phát triển ODA đang giảm dần.
 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vươt 
 Theo kế hoạch, tháng 7/2017, World Bank sẽ ngương tôi ưu co thê tiềm ẩn rui ro.
 chấm dứt cho Việt Nam vay ODA. Đến 2019, Ngân 
 Nếu chỉ số nợ công/GDP của một quốc gia thể 
 hàng Phát triển châu Á (ADB), các nhà tài trợ song 
 hiện quy mô nợ công so với quy mô của nền kinh 
 phương cũng không còn dành ưu đãi ODA cho 
 tế thì chỉ số nợ công trên bình quân đầu người thể 
 Việt Nam.
 hiện trung bình mỗi người dân của quốc gia này 
 Điều này có nghĩa, để có tiền đảo nợ và bù đắp đang gánh bao nhiêu nợ.
 bội chi, Việt Nam buộc phải phát hành trái phiếu 
 Để đánh giá mức độ bền vững nợ công cũng 
 trong nước và quốc tế với mức lãi suất cao do tín 
 như các rủi ro liên quan, bên cạnh quy mô nợ công 
 nhiệm Chính phủ ở mức quá thấp (BB-). Không 
 trên GDP, cần phải sử dụng các chỉ tiêu khác như 
 chỉ rủi ro nợ công tăng mà tăng trưởng sẽ tiếp tục 
 nghĩa vụ trả nợ hàng năm so với GDP và thu ngân 
 chịu tác động tiêu cực hơn.
 sách; chi trả lãi vay so với chi thường xuyên; tỷ lệ 
 Một số nền kinh tế quy mô nợ công lớn nhưng trả lãi vay so với dư nợ; tỷ lệ giữa vay mới so với số 
 rủi ro thấp do tín nhiệm Chính phủ cao, lãi suất trả nợ cũ; nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân 
 thấp, vay bằng đồng nội tệ và chủ yếu là vay nợ từ sách. Hiện vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn chung về 
 người dân trong nước. Bản thân các quốc gia này ngưỡng an toàn nợ công mà có thể áp dụng đối với 
 cũng là chủ nợ lớn của thế giới. tất cả các quốc gia. Các chỉ tiêu nợ công của từng 
12 Số 117 - tháng 7/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

File đính kèm:

  • pdflam_ban_ve_no_cong_va_quan_ly_hieu_qua_no_cong_hien_nay_tai.pdf