Kết quả điều trị bệnh lymphôm tế bào b lớn lan tỏa tái phát/ tiến triển bằng phác đồ imvp16 có hoặc không rituximab
Mục tiêu: đánh giá đáp ứng điều trị lymphom tế bào B lớn lan tỏa (LTBBLLT) tái phát/t iến triển với
phác đồ hóa trị IMVP16 có hoặc không sử dụng rituximab qua tỉ lệ đáp ứng, tỉ lệ sống còn toàn bộ, tỉ lệ
sống còn không bệnh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 63 bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển được
chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện Ung Bướu từ 01/01/2017 đến 31/12/2017.
Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng điều trị của nhóm có rituximab cao hơn nhóm không có rituximab với đáp ứng
toàn bộ là 73,3% so với 48,5% (p = 0,025). Các yếu tố ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ đáp ứng là thời gian tái
phát ≤12 tháng, giảm liều hóa trị và giai đoạn trễ. Thời gian kéo dài đáp ứng ở nhóm tái phát và tiến triển
lần lượt là 8,7 tháng và 4,9 tháng. Trung vị sống còn toàn bộ là 25 tháng, sống còn không bệnh tiến triển là
9 tháng. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 2 năm 53,5%, sống còn không bệnh tiến triển 2 năm 36,1%. Tỷ lệ sống
còn toàn bộ 2 năm ở nhóm có rituximab 64,4% cao hơn so với 40,1% ở nhóm không rituximab (p <0,05).
Thời gian tái phát/tiến triển sau 12 tháng, hóa trị có rituximab và nhóm bệnh tái phát là các yếu tố ảnh
hưởng đến sống còn toàn bộ. Tuy nhiên những yếu tố này chưa là yếu tố tiên lượng độc lập. Nhìn chung
độc tính trong nhóm hóa trị có rituximab cũng tương đương với độc tính trong nhóm hóa trị không
rituximab.
Kết luận: Về điều trị bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển có CD 20(+) không đủ điều kiện ghép,
phối hợp rituximab với hóa trị IMVP16 cho tỉ lệ đáp ứng điều trị, sống còn toàn bộ, sống còn không bệnh
khá tốt
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị bệnh lymphôm tế bào b lớn lan tỏa tái phát/ tiến triển bằng phác đồ imvp16 có hoặc không rituximab
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 69 KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH LYMPHÔM TẾ BÀO B LỚN LAN TỎA TÁI PHÁT/ TIẾN TRIỂN BẰNG PHÁC ĐỒ IMVP16 CÓ HOẶC KHÔNG RITUXIMAB NGUYỄN TRẦN ANH THƯ1, PHẠM XUÂN DŨNG2, LÊ HUY HOÀNG3, TRẦN THỊ DUY LINH4 Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Trần Anh Thư Email: bsntanhthuub@gmail.com Ngày nhận bài: 1/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 BSCKII. Khoa Nội huyết học, hạch - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 TS.BSCKII. Giám đốc Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM, Trưởng Bộ môn Ung Bướu ĐHYK Phạm Ngọc Thạch 3 Bác sĩ Khoa Nội huyết học, hạch - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 Điều dưỡng Khoa Nội huyết học, hạch - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Lymphôm không Hodgkin là nhóm bệnh lý tăng sinh tế bào lymphô ác tính với các biểu hiện lâm sàng đa dạng, có khuynh hướng lan tràn sớm và đáp ứng điều trị khác nhau. Theo phân loại WHO 2008 và cập nhật WHO 2016, lymphom tế bào B lớn lan tỏa là phân nhóm thường gặp nhất, chiếm 30% LKH chung. Mặc dù đã có nhiều cải thiện rõ rệt về đáp ứng cũng như sống còn nhưng LKH tái phát/tiến triển vẫn là điều đáng lo ngại với các nhà lâm sàng, tỷ lệ tái phát/ kháng trị chiếm khoảng 30 - 40% bệnh nhân sau khi điều trị ban đầu, đặc biệt là lymphôm tế bào B lớn lan tỏa (LTBBLLT). Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có phác đồ chuẩn để điều trị cho LTBBLLT tái phát/tiến triển, và vai trò rituximab trên nhóm bệnh nhân này không mang lại sự khác biệt có ý nghĩa. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hóa trị liều cao và ghép tế bào gốc là lựa chọn điều trị cho bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển còn nhạy cảm hóa trị. TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá đáp ứng điều trị lymphom tế bào B lớn lan tỏa (LTBBLLT) tái phát/t iến triển với phác đồ hóa trị IMVP16 có hoặc không sử dụng rituximab qua tỉ lệ đáp ứng, tỉ lệ sống còn toàn bộ, tỉ lệ sống còn không bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 63 bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển được chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện Ung Bướu từ 01/01/2017 đến 31/12/2017. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng điều trị của nhóm có rituximab cao hơn nhóm không có rituximab với đáp ứng toàn bộ là 73,3% so với 48,5% (p = 0,025). Các yếu tố ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ đáp ứng là thời gian tái phát ≤12 tháng, giảm liều hóa trị và giai đoạn trễ. Thời gian kéo dài đáp ứng ở nhóm tái phát và tiến triển lần lượt là 8,7 tháng và 4,9 tháng. Trung vị sống còn toàn bộ là 25 tháng, sống còn không bệnh tiến triển là 9 tháng. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 2 năm 53,5%, sống còn không bệnh tiến triển 2 năm 36,1%. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 2 năm ở nhóm có rituximab 64,4% cao hơn so với 40,1% ở nhóm không rituximab (p <0,05). Thời gian tái phát/tiến triển sau 12 tháng, hóa trị có rituximab và nhóm bệnh tái phát là các yếu tố ảnh hưởng đến sống còn toàn bộ. Tuy nhiên những yếu tố này chưa là yếu tố tiên lượng độc lập. Nhìn chung độc tính trong nhóm hóa trị có rituximab cũng tương đương với độc tính trong nhóm hóa trị không rituximab. Kết luận: Về điều trị bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển có CD 20(+) không đủ điều kiện ghép, phối hợp rituximab với hóa trị IMVP16 cho tỉ lệ đáp ứng điều trị, sống còn toàn bộ, sống còn không bệnh khá tốt. Từ khóa: Lymphôm tế bào B lớn lan tỏa tái phát/tiến triển, rituximab. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 70 Vì thế, khi tiếp cận bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển, chúng ta phải xác định bệnh nhân có đủ điều kiện ghép tế bào gốc hay không?! Nếu đủ điều kiện ghép, các phác đồ cứu vớt như DHAP, ESHAP, ICE rituximabđược thực hiện nhằm mục đích giúp cho bệnh nhân đạt lui bệnh một phần hay hoàn toàn trước ghép. Những phác đồ này cho tỷ lệ đáp ứng đến 60% và sống còn toàn bộ 3 năm 49%, nhưng độc tính khá cao[9]. Nếu không đủ điều kiện ghép do tuổi, bệnh lý đi kèm hoặc thể trạng kém, bệnh nhân sẽ được hóa trị các phác đồ cứu vớt ít tác dụng phụ hơn nhằm mục đích kéo dài sống còn như IMVP16, CEPP-B, EPOCH ± rituximabTại Việt Nam, vai trò của hóa trị liều cao và ghép tế bào gốc đã góp phần quan trọng trong điều trị LTBBLLT tái phát/tiến triển, mặc dù số lượng bệnh nhân ghép chưa nhiều. Như vậy, vẫn còn rất nhiều trường hợp không đủ điều kiện ghép sẽ được hóa trị các phác đồ cứu vớt ít tác dụng phụ hơn. Trong đó, phác đồ IMVP16 ± R được sử dụng phổ biến tại BVUB do ít độc tính, dễ dung nạp trên đa số bệnh nhân lớn tuổi, thể trạng kém. Câu hỏi đặt ra là tình hình điều trị phác đồ cứu vớt trên bệnh nhân LTBBLLT tái phát/ tiến triển không đủ điều kiện ghép tại BVUB thời gian qua như thế nào? Chính vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài để đánh giá hiệu quả của phác đồ IMVP16 có hoặc không rituximab trên nhóm bệnh nhân này, qua đó rút kinh nghiệm để điều trị bệnh ngày càng tốt hơn. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1. Khảo sát một số đặc điểm về dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của lymphôm tế bào B lớn lan tỏa tái phát/ tiến triển. 2. Đánh giá kết quả điều trị của phác đồ IMVP16/ R-IMVP16 trên bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiển triển qua tỷ lệ đáp ứng. Khảo sát độc tính hóa trị. So sánh nhóm tái phát ≤12 tháng và nhóm tái phát >12 tháng. 3. Khảo sát tỷ lệ sống còn toàn bộ, sống còn bệnh không tiến triển và ảnh hưởng của một số yếu tố tiên lượng lên kết quả điều trị bệnh. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học là LTBBLLT tái phát/ tiến triển đã hóa trị bước một, tại khoa Nội 2 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ 1/1/2017 - 31/12/2017. Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân LTBBLLT tái phát/tiến triển lần đầu được chẩn đoán xác định dựa vào mô bệnh học và hóa mô miễn dịch, không đủ điều kiện ghép, điều trị bằng phác đồ R-IMVP16 hoặc IMVP16 đủ 4 - 6 chu kỳ. Tiêu chuẩn chọn hóa trị R - IMVP16: BN sinh thiết lại mô bệnh học c ... ọc ban đầu. Tỷ lệ sinh thiết của chúng tôi cao hơn tác giả Lưu Hùng Vũ (50%). Tuy nhiên, chỉ có 66,7% (42/63) trường hợp làm lại hóa mô miễn dịch phân tích dưới nhóm trung tâm mầm (germinal center B cell) và không trung tâm mầm (non germinal center B cell) hay còn gọi là nhóm tế bào B hoạt hóa (activated B cell). Theo nhiều tác giả, nhóm tế bào B hoạt hóa có tiên lượng xấu hơn, và cũng là yếu tố tiên lượng có giá trị hơn chỉ số IPI đối với bệnh nhân điều trị phác đồ CHOP[8]. Kết quả phân tích của chúng tôi ghi nhận 34,9% trường hợp thuộc nhóm không trung tâm mầm. Trong khảo sát này, bệnh nhân được hóa trị với phác đồ IMVP16 và R -IMVP16 là tương đương nhau (33/30). Đa số trường hợp hóa trị 5 - 6 chu kỳ chiếm tỷ lệ 80,9%, chỉ có 2 trường hợp bệnh nhân hóa trị 7 - 8 chu kỳ và đạt đáp ứng một phần, 10 bệnh nhân hóa trị 4 chu kỳ bệnh tiến triển ngay sau đó. Đối với LTBBLLT tái phát/ tiến triển không có phác đồ điều trị chuẩn giống như phác đồ R- CHOP ở bước một. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm tìm ra phác đồ cứu vớt phù hợp: tỷ lệ đáp ứng cao và độc tính dung nạp tốt nhất. Tiếp cận bệnh nhân LTBBLLT tái phát/ tiến triển, quyết định điều trị dựa vào việc bệnh nhân có là ứng viên cho ghép tế bào gốc hay không. Nếu bệnh nhân đủ điều kiện ghép và nhạy hóa trị sẽ được sử dụng các phác đồ DHAP/ R-DHAP hoặc ICE/ R-ICE để đạt đáp ứng tốt nhất, sau đó tiến hành hóa trị liều cao và ghép tế bào gốc tự thân[10]. Còn những bệnh nhân không đủ điều kiện ghép (do tuổi, tổng trạng kém, bệnh kết hợp) sẽ được hóa trị cứu vớt với những phác đồ độc tính thấp. Như thế, tiên lượng sẽ rất xấu và sống còn dưới 1 năm[31]. Tác giả Fernando C. và cộng sự đã nghiên cứu hiệu quả điều trị của phác đồ IMVP16 (ifosfamide, methotrexate, etoposide) trên 52 bệnh nhân lymphôm tái phát cho tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn 32% và thời gian sống còn trung bình là 15 tháng[5]. Còn theo nghiên cứu của Aurer I. và cộng sự trên 28 bệnh nhân lymphôm tái phát/ tiến triển điều trị IMVP16, cho tỷ lệ đáp ứng toàn bộ 39%[3]. Do tình hình chưa phát triển ghép tế bào gốc tại bệnh viện ung bướu cũng như tùy theo tổng trạng của bệnh nhân, chúng tôi chọn phác đồ IMVP16/ R - IMVP16 dễ dung nạp cho bệnh nhân lớn tuổi, tổng trạng kém. Tỷ lệ đáp ứng Mặc dù số bệnh nhân trong nghiên cứu hạn chế nhưng chúng tôi vẫn ghi nhận được lợi ích có phần thiên về nhóm hóa trị rituximab với tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn cao hơn, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 76 (p = 0, 025). Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn cho hai nhóm phác đồ là 25,4%, đáp ứng một phần 34,9% và đáp ứng toàn bộ khá cao 60,3%, khác biệt không nhiều với tỷ lệ đáp ứng chung của phác đồ IMVP16 là 62% trong nghiên cứu của tác giả Fernando và cộng sự[8]. Tiếp đó, khi phân tích về sống còn, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt về sống còn toàn bộ 2 năm giữa hai nhóm có hay không có điều trị rituximab (p = 0,05). Nguyên nhân tỷ lệ đáp ứng trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao có thể là do chúng tôi chọn lựa bệnh nhân tái phát/ tiến triển lần đầu, tổng trạng còn tốt, chưa bị suy mòn dần do hóa trị nhiều. Ngoài ra, chúng tôi chỉ lấy những trường hợp còn nhạy với hóa trị IMVP16/ R - IMVP16, loại bỏ những trường hợp tái phát/ tiến triển sau 1 - 3 chu kỳ khỏi nghiên cứu. Kết quả của chúng tôi cao hơn tác giả Aurer và cộng sự tổng kết trên 28 bệnh nhân lymphôm tái phát hóa trị IMVP16 cho tỷ lệ đáp ứng chung là 47% và sống còn toàn bộ 2 năm là 31%[3]. Điều này có thể là do nghiên cứu của tác giả Aurer vào năm 2002, khi mà kỉ nguyên “rituximab” chưa xuất hiện, mà trong nghiên cứu của chúng tôi gần 50% bệnh nhân hóa trị kết hợp với rituximab. Bên cạnh đó tỷ lệ bệnh nhân không sử dụng rituximab ở bước một của chúng tôi khá cao, hơn 60%, đó cũng là yếu tố thuận lợi cho việc sử dụng rituximab ở phác đồ bước hai khi tái phát/ tiến triển. Từ kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới với các phác đồ khác như R- ICE, R- DHAP theo sau ghép tế bào gốc, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ đáp ứng hóa trị của chúng tôi khá cao khi hóa trị phác đồ IMVP16/ R - IMVP16. Tuy nhiên, dữ liệu chỉ mang tính tổng kết, hồi cứu loạt ca, thiếu tính đại diện, không có sự đồng nhất giữa các nhóm bệnh nhân, loại giải phẫu bệnh, các tác nhân điều trị ban đầu, trong khi các nghiên cứu trên thế giới quy mô lớn, tiêu chuẩn chọn bệnh nghiêm ngặt từ đầu vào, chẩn đoán giai đoạn, đánh giá đáp ứng và tiên lượng bệnh bằng PET - CT. Đồng thời có thể khác biệt về nguy cơ sinh học, cơ địa người bệnh giữa Châu Á và Châu Âu, Châu Mỹ. Qua khảo sát 63 BN hóa trị đầy đủ, chúng tôi ghi nhận: trung vị sống còn toàn bộ là 25 tháng và sống còn bệnh không tiến triển là 9 tháng. Uớc tính sống còn toàn bộ 2 năm 53,5%, sống còn bệnh không tiến triển 36,1%. Kết quả phân tích của chúng tôi cao hơn tác giả Aurer (31%) vì gần 50% bệnh nhân trong nghiên cứu được kết hợp với rituximab khi hóa trị cứu vớt còn của Aurer chỉ hóa trị đơn thuần. Tuy nhiên khi so sánh với các phác đồ hóa trị cứu vớt khác có kết hợp rituximab, chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt nhiều về tỷ lệ sống còn. Từ lâu các nhà lâm sàng luôn nghiên cứu để tìm ra phác đồ cứu vớt cho bệnh nhân lymphôm tái phát/tiến triển đạt đáp ứng cao, sống còn lâu dài và độc tính chấp nhận được. Nhiều phác đồ đã được đưa ra phân tích: R - ICE, R - DHAP, R - ESHAP, R - EPOCH nhưng chưa có chọn lựa tối ưu nhất như phác đồ R - CHOP trong điều trị ban đầu. Đối với bệnh nhân trẻ, tổng trạng tốt, chúng tôi cũng đã tiến hành điều trị các phác đồ mạnh như trên nhưng bệnh nhân thường bị độc tính quá nhiều như giảm bạch cầu hạt độ 4, giảm 3 dòng tế bào máu, viêm phổi nặng, suy thận mạn do độc tính của cisplatin làm cho bệnh nhân phải trì hoãn hóa trị, thậm chí có khi phải ngừng hóa trị. Do đó, trong nghiên cứu này, đa số bệnh nhân >50 tuổi (71,4%), có bệnh lý đi kèm, chúng tôi chọn lựa phác đồ IMVP16/ R - IMVP16 cho dễ dung nạp, ít độc tính, mà qua phân tích tỷ lệ đáp ứng toàn bộ khá cao 60,3%, mặc dù thời gian kéo dài đáp ứng trung bình chỉ 8,7 tháng ở nhóm tái phát và sống còn toàn bộ 2 năm 53,5%. Hy vọng tiên lượng của bệnh nhân lymphôm tái phát/tiến triển sẽ có một bước tiến mới khi mà chúng tôi phát triển được kỹ thuật ghép tế bào gốc. Phân tích các yếu tố tiên lượng Qua phân tích chúng tôi ghi nhận các yếu tố liên quan đến sống còn toàn bộ là thời gian tái phát/ tiến triển ≤ 12 tháng, phác đồ cứu vớt không sử dụng rituximab và bệnh tiến triển, điều đó có nghĩa là không đạt đáp ứng hoàn toàn khi điều trị ban đầu. Theo y văn, các tác giả cũng tiến hành phân tích các yếu tố tiên lượng ảnh hưởng đến sống còn trên bệnh nhân lymphôm tái phát/ tiến triển. Tuy nhiên chưa có sự thống nhất và đồng thuận để đưa ra chỉ số tiên lượng bệnh khi tái phát/ tiến triển như chỉ số IPI trong chẩn đoán ban đầu, nên vẫn sử dụng chỉ số IPI để đánh giá khi tái phát. Theo tác giả Danese và cộng sự [6] tổng hợp trên 632 bệnh nhân tái phát/kháng trị từ năm 2000 - 2007 nhận định, thời gian lui bệnh, nam giới, thiếu máu lúc chẩn đoán là những yếu tố tiên lượng quan trọng. Trong nghiên cứu CORAL của tác giả Gisselbrecht và cộng sự[4] khảo sát trên 396 bệnh nhân lymphôm tái phát/kháng trị năm 2010, được phân ra 2 nhóm điều tri R - ICE hoặc R - DHAP, đã chứng minh các yếu tố IPI ≥2 lúc tái phát, thời gian tái phát < 12 tháng và có điều tri rituximab ở bước một ảnh hưởng đến sống còn không biến cố 3 năm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Mặc dù mẫu nghiên cứu của chúng tôi ít hơn các tác giả nước ngoài, không khảo sát hết các yếu tố cần thiết, nhưng vẫn ghi nhận được bệnh tiến triển có tiên lượng xấu hơn bệnh tái phát, thời gian tái phát/ tiến triển dưới 12 tháng sau khi kết thúc điều trị bước một và hóa trị cứu vớt không sử dụng rituximab là những yếu tố ảnh hưởng xấu đến thời gian sống còn. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 77 KẾT LUẬN Qua khảo sát 63 bệnh nhân được chẩn đoán lymphôm tế bào B lớn lan tỏa tái phát/tiến triển điều trị tại BVUB trong khoảng thời gian từ 01/01/2017 đến 31/12/2017, chúng tôi rút ra các kết luận sau: Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng Tỷ lệ nam/nữ tương đương nhau. Đa số bệnh nhân >50 tuổi, thời gian tái phát trung bình 14,8 tháng, gần 60% tái phát dưới 1 năm. Triệu chứng thường gặp là hạch ngoại vi to (55,6%). Triệu chứng B gặp trong 65% các trường hợp. Khảo sát ghi nhận LDH và 2 - M tăng trong khoảng 50% trường hợp. Hơn 90% BN được chụp CT scan lúc chẩn đoán bệnh tái phát và đánh giá đáp ứng. Kết quả điều trị Tỷ lệ đáp ứng điều trị của nhóm có rituximab cao hơn nhóm không có rituximab với đáp ứng toàn bộ là 73,3% so với 48,5% (p = 0,025). Thời gian kéo dài đáp ứng ở nhóm tái phát và tiến triển lần lượt là 8,7 tháng và 4,9 tháng. Tỷ lệ sống còn Trung vị sống còn toàn bộ là 25 tháng, sống còn bệnh không tiến triển là 9 tháng. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 2 năm 53,5%, sống còn bệnh không tiến triển 2 năm 36,1%. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 2 năm ở nhóm có rituximab 64,4% cao hơn so với 40,1% ở nhóm không rituximab (p < 0,05). Thời gian tái phát/tiến triển sau 12 tháng, hóa trị có rituximab và nhóm bệnh tái phát là các yếu tố ảnh hưởng đến sống còn toàn bộ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghiêm Thị Minh Châu (2009), "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị u lympho không Hodgkin tái phát tại khoa huyết học lâm sàng- BV 103", Tạp chí Y học TP. HCM, 13(6), trang 627 - 630. 2. Lưu Hùng Vũ (2007), "Khảo sát lymphôm không Hodgkin tái phát tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 11(5), trang 185 - 190. 3. Aurer I., Durakovic N., Radman I., et al. (2002), "Combination of ifosfamide, methotrexate, and etoposide (IMVP) as a salvage therapy for relapsed and refractory aggressive non-Hodgkin lymphoma: retrospective study", Croat Med J, 43(5), pp. 550 - 554. 4. Aurer I., Mitrovic Z., Nemet D., et al. (2008), "Treatment of relapsed or refractory aggressive non-hodgkin lymphoma with two ifosfamide- based regimens, IMVP and ICE", J Chemother, 20(5), pp. 640 - 644. 5. Cabanillas F., Hagemeister F. B., Bodey G. P., et al. (1982), "IMVP-16: an effective regimen for patients with lymphoma who have relapsed after initial combination chemotherapy", Blood, 60(3), pp. 693 - 697. 6. Cheson B. D., Fisher R. I., Barrington S. F., et al. (2014), "Recommendations for initial evaluation, staging, and response assessment of Hodgkin and non-Hodgkin lymphoma: the Lugano classification", J Clin Oncol, 32(27), | pp. 3059 - 3068. 7. Danese M. D., Griffiths R. I., Gleeson M. L., et al. (2017), "Second-line therapy in diffuse large B- cell lymphoma (DLBCL): treatment patterns and outcomes in older patients receiving outpatient chemotherapy", Leuk Lymphoma, 58(5), pp. 1094 - 1104. 8. Feugier P., Van Hoof A., Sebban C., et al. (2005), "Long-term results of the R-CHOP study in the treatment of elderly patients with diffuse large B-cell lymphoma: a study by the Groupe d'Etude des Lymphomes de l'Adulte", J Clin Oncol, 23(18), pp. 4117 - 4126. 9. Gisselbrecht C., Van Den Neste E. (2018), "How I manage patients with relapsed/refractory diffuse large B cell lymphoma", Br J Haematol, 182(5), pp. 633 - 643. 10. Kewalramani T., Zelenetz A. D., Nimer S. D., et al. (2004), "Rituximab and ICE as second-line therapy before autologous stem cell transplantation for relapsed or primary refractory diffuse large B-cell lymphoma", Blood, 103(10), 3684 - 3688. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 78 ABSTRACT Result of treatment of relapsed/refractory diffuse large B cell lymphoma by IMVP16 regimen with or without rituximab Purpose: To determine the responsive treatment relapsed/refractory diffuse large B cell lymphoma with IMVP16 plus rituximab, the overall survival 2 years, the progressive free survival 2 years Materials and methodes: Sixty - three patients with relapsed/refractory diffuse large B cell lymphoma treated at the HCM City Oncology Hospital from January 2017 to December 2017 were analyzed retrospectively. Result: The response rate of the rituximab group was higher than the rituximab-free group with a complete response of 73.3% compared to 48.5% (p = 0.025). Factors that adversely affected the response rate included recurrence interval below 12 months, chemotherapy dose reduction, and advanced stage of the disease. The duration of response prolongation in the recurrent and progressive group were 8.7 months and 4.9 months, respectively. The median overall survival was 25 months, and progressive disease-free survival was 9 months. The 2-year overall survival rate and the 2-year progressive disease-free survival rate were 53.5% and 36.1%, respectively. The 2-year progressive disease-free survival rate in the rituximab group was 64.4%, higher in the rituximab group 40.1% (p<0.05). The interval of recurrence/progression after 12 months, rituximab chemotherapy, and the relapse group of diseases impacted the overall survival. However, these features were not independent prognostic factors. Overall, toxicity in the rituximab group was similar to the chemotherapy alone group. Conclusions: For the treatment of relapsed/refractory DLBCL patients with CD20 (+) ineligible for transplantation, the combination of rituximab with IMVP16 chemotherapy gives treatment response rates, overall survival, and disease-free survival properly better. Keywords: Relapsed/refractory diffuse large B cell lymphoma, rituximab.
File đính kèm:
- ket_qua_dieu_tri_benh_lymphom_te_bao_b_lon_lan_toa_tai_phat.pdf