Huy cừ và đường tới "cánh buồm mặt trời"
Huy Cừ là một hiện tượng lạ của thơ ca Việt Nam thời hậu chiến. Di sản thơ ca
anh để lại không nhiều, nhưng chứa đựng trong đó tất cả khát vọng, niềm vui, nỗi buồn
và những trăn trở, suy tư của một thế hệ đã đi qua chiến tranh. Con đường từ “Tiếng hát
trong rừng”, “Tâm sự của đá” đến “Cánh buồm mặt trời”. trong thơ anh không dài,
nhưng thể hiện rất rõ những suy ngẫm, tìm tòi, thể nghiệm riêng về ý nghĩa, giá trị của
cuộc đời, của thơ ca
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Huy cừ và đường tới "cánh buồm mặt trời"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Huy cừ và đường tới "cánh buồm mặt trời"
36 TRNG I HC TH H NI HUY C V 'NG T6I “CNH BU7M M8T TR'I” Lê Thị Hiền1 Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Huy Cừ là một hiện tượng lạ của thơ ca Việt Nam thời hậu chiến. Di sản thơ ca anh để lại không nhiều, nhưng chứa đựng trong đó tất cả khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và những trăn trở, suy tư của một thế hệ đã đi qua chiến tranh. Con đường từ “Tiếng hát trong rừng”, “Tâm sự của đá” đến “Cánh buồm mặt trời”... trong thơ anh không dài, nhưng thể hiện rất rõ những suy ngẫm, tìm tòi, thể nghiệm riêng về ý nghĩa, giá trị của cuộc đời, của thơ ca. Từ khóa: Huy Cừ, thơ, Tiếng hát trong rừng, Tâm sự của đá, Cánh buồm mặt trời. 1. MỞ ĐẦU Sớm có tố chất của một thi sĩ, sớm có một số bài thơ đoạt giải hay được phổ nhạc, song Huy Cừ (1947-1986) chỉ là một người lính, một viên chức yêu thơ và thích làm thơ, bởi lẽ anh không coi thơ ca như một cuốn nhật ký ghi chép lại các sự kiện của cuộc đời hay của chính mình, cũng không coi nó như một hình thức “chắp cánh” hay “cứu rỗi” cho tâm hồn lúc phấn khởi, thăng hoa hay buồn bực, đau khổ. Huy Cừ chỉ làm thơ khi suy ngẫm thấu đáo và những nỗi nhớ, khát vọng, niềm hân hoan trong anh lên tiếng, bất kể đó là lúc nào, ở đâu, trong hoàn cảnh nào, nơi chiến trường gian khổ khốc liệt hay khi đang nằm trên giường bệnh. Độc giả có thể cảm nhận rõ điều này khi đọc tập di cảo thơ do chính người em trai của anh - nhà giáo Nguyễn Huy Kỷ - sưu tầm và biên tập lại. Trong số 50 bài của tập di cảo, chỉ có 4 bài anh viết trong những năm tháng là chiến sĩ công binh ở chiến trường miền Tây từ 1967 đến 1971, 46 bài còn lại, chủ yếu được viết trong hai năm, 1981- 1982, là những thâu lượm, cảm nhận, đúc kết giàu triết lí từ chính sự ngổn ngang, bề bộn của con người, cuộc sống thời hậu chiến. Sự “đứt quãng” này không phải không có lí do, song không vì thế làm gián đoạn một tâm thế, một hồn thơ luôn hướng tới “Cánh buồm mặt trời”. 1 Nhận bài ngày 05.11.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 25.12.2016 Liên hệ tác giả: Lê Thị Hiền; Email: lthien@daihocthudo.edu.vn TP CH KHOA HC − S 11/2016 37 2. NỘI DUNG 2.1. Đoản khúc chiến tranh Mới lần đầu đọc thơ Huy Cừ, người đọc sẽ bị cuốn hút vào thế giới của những cánh rừng, những người lính trẻ, những tiếng hát bất tận kéo dài suốt những năm tháng chiến tranh đến cả thời hậu chiến..., mà không nhận thấy được sự khác thường, sâu thẳm trong đó. Ở Huy Cừ, kí ức và hiện tại luôn hòa trộn, xen cài nhưng không trở thành nỗi ám ảnh thường trực như thường thấy ở nhiều nhà thơ mặc áo lính cùng thời. Huy Cừ cũng như họ, rời trường đại học lên đường ra trận khi còn rất trẻ, nhưng có lẽ với anh, được chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc không chỉ là bổn phận, trách nhiệm mà còn là một niềm vinh dự lớn. Anh đã có mặt ở rừng Trường Sơn những năm tháng khốc liệt nhất, nơi hàng ngày, như nhà thơ Nguyễn Đức Mậu miêu tả: “Mặt đất rơi đầy bom / Khép kín vòng phong tỏa / Cây lá thiếu màu xanh / Rừng hoang thừa tiếng nổ”... (Trường ca sư đoàn). Và nếu ở mặt trận miền Đông, Nguyễn Đức Mậu cùng các chiến sĩ bộ binh phải đối mặt với sự chết chóc hi sinh: “Thằng Long, thằng Minh ngã xuống rào gai / Đất đói màu cây, khô dòng suối cạn / Khẩu AK cầm tay đói đạn / Đêm đói vầng trăng, ngày đói mặt trời”...; thì ở mặt trận miền Tây, Huy Cừ cùng những người lính công binh cũng phải hàng ngày chống chọi với gian khổ, hiểm nguy và những cơn đói, khát, nhọc nhằn thường trực: “Mùa mưa đến quả bom rơi sẽ ướt Ướt cũng rơi, phía dưới là quân thù. Kẻ địch biết chúng tôi đang đóng chốt Bên dòng sông, hàng chuyển suốt mùa mưa” Và: “Có người lính rét run trong cơn sốt Quả quéo chua, muối mặn, nắm ớt khô Viên thuốc đắng qua mùa mưa tầm tã Rồi mái hầm và cả cái sạp nằm Tấm ni lông và lính ta sùng sũng Đón những bao hàng trôi như sóng trên sông” (Những tiếng ca không ướt) Tuy không trực tiếp, thường xuyên cầm súng xung trận như những chiến sĩ bộ binh, không tham gia nhiều chiến dịch, không đi hết cuộc chiến, nhưng Huy Cừ cũng đã hé mở cho chúng ta thấy những gì anh và đồng đội đã sống, đã trải qua trong những năm tháng “không ai bị lãng quên và không điều gì bị quên lãng” ấy (ý thơ Olga Berggoltz). Bốn năm ở chiến trường, dù Huy Cừ ít làm thơ, ít nói về lí tưởng và sự hi sinh của những người lính, 38 TRNG I HC TH H NI cũng không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ sự khốc liệt của chiến tranh..., nhưng chiến tranh, với tất cả sự hủy diệt tàn bạo của nó, vẫn hiện lên trong thơ anh dữ dội và bi tráng lạ thường: “Bom rơi xuống, lá cây thôi xào xạc Cháy mất rồi, chiếc lá đỏ của rừng Cháy mất rồi lá thư em thổn thức Cũng cháy luôn chút hoang tưởng cuối cùng” (Em phơi áo cho anh) Thơ Huy Cừ không nhiều sự kiện mà nhiều ấn tượng. Nó chứng tỏ rằng không phải ở nơi mưa bom bão đạn, nơi sự sống và cái chết mỏng manh, những người lính không có thời gian để suy ngẫm, nhớ nhung và làm thơ. Thơ ca luôn là bộ mặt tinh thần, là ý chí và tâm tình của một dân tộc, một thời đại trong từng giai đoạn, thời khắc lịch sử. Ở bất kì hoàn cảnh, tình thế nào, ngay cả khi: “Chiếc quần cộc, áo lót, mình cháy sém / Miệng khô cong, cứ điểm núi tan tành / Chỉ hơi thở duy nhất còn là nước / Chỉ băng đạn duy nhất còn bên mình / Chỉ ngọn cờ duy nhất bay phía trước” (Hà Nội thời tôi sống), thì ý chí và cảm hứng thơ ca của những người lính cũng không bao giờ nguội tắt. Tuy nhiên, khi phản ánh hiện thực chiến tranh, Huy Cừ không bị cuốn vào các chi tiết ngổn ngang bề bộn, đặc biệt là những đau thương, mất mát, căm hờn..., mà chú ý tìm kiếm một điều gì đó lớn lao, khái quát hơn. Trong chiến tranh, không chỉ có tình đồng chí đồng đội mới là đáng quí, mà đôi khi một thoáng yên tĩnh hiếm hoi của núi rừng giữa hai trận bom cũng khơi nguồn cho nhiều ước vọng, một “chiếc áo lính” em phơi cũng trở thành một nỗi nhớ thương, một tình yêu, theo anh suốt cuộc đời: “Chiếc áo lính Bốn mùa anh mặc Để bốn mùa em phơi áo cho anh. Chiếc áo lính tươi màu ... ., trong một cuộc hành trình mới, với các nhiệm vụ mới: “Dưới sắc lá Tựa vào rừng em hát Bàn tay ta như lá cỏ đá mềm Sống như núi Ta trồng nên đỉnh núi Sống cho nhau Ta gây dựng những cánh rừng...” (Rừng Tổ quốc) 2.2. Tạo vật và sự tìm kiếm bản thể Bẵng đi một thời gian dài, khoảng 10 năm sau khi rời chiến trường, Huy Cừ mới “tái xuất” với một diện mạo, dáng vẻ khác hẳn. Cũng chẳng ai đặt ra câu hỏi tại sao phải sau từng ấy năm anh mới trở lại với thơ ca, đầy nhiệt huyết và hứng khởi như thế, bởi câu trả lời thật giản đơn, trong anh, tất cả đã chín muồi. Anh đi nhiều, viết nhanh, “xê dịch” suốt TP CH KHOA HC − S 11/2016 41 chiều dài đất nước, đặc biệt những nơi từng là chiến trường năm xưa. Sau bom đạn chết chóc, có lẽ những lớp trầm tích văn hóa ẩn chứa trong cái sâu thẳm huyền bí của núi rừng, của cái cơ thể tự nhiên đầy thương tích ngày nào đã cuốn hút anh. Với anh, đất đá không vô tri, dòng sông không âm thầm chảy dài theo lịch sử. Nó luôn thao thức, trăn trở, luôn tìm về cội nguồn. Hóa thân vào tạo vật, anh đã đánh thức những tâm sự, ý nghĩ của mặt đất, bầu trời, ngọn gió, cánh rừng, dòng sông..., khiến cho thế giới tự nhiên vốn dĩ sống động càng trở nên sống động. Tạo vật trong thơ Huy Cừ như một sinh thể, nó có đời sống, biết vận động và suy ngẫm. Ai cũng biết “đất” là nơi ta sinh ra, nuôi ta khôn lớn, nhưng ít ai “nhớ mặt đặt tên” cho đất (ý thơ Nguyễn Khoa Điềm), ít ai biết được rằng chính “đất” đã phải gánh chịu bao thương đau, ôm vào lòng bao mất mát để cho sự sống sinh sôi, cho cây đời nở hoa kết trái. Ngàn đời nay và mãi sau này vẫn vậy, “đất” bền bỉ và nhẫn nại dâng cho đời, cho người tất cả: “Đất cho, đất đã cho Đến chỉ còn là đất Không ồn ào Chẳng phấn son Quanh năm bền bỉ chuyên cần... Đất cho người tất cả Còn đất, thích ở trần...” (Bài thơ mặt đất) Chính sự giản dị và bao dung, thầm lặng và cao quí của “đất” đã mách bảo Huy Cừ, giúp anh khái quát, đúc kết thành một nguyên tắc, nguyên lí của sự tồn tại: “cho là được”. “Cho là được”, “cho là nhận”... đó không chỉ là lẽ đời, là phép đối nhân xử thế, là nền móng nhân sinh..., mà còn là cơ sở tạo nên sự tương tác, cộng sinh, hòa hợp bền vững muôn đời của vạn vật: “Cho cái nắng màu xanh Trái cam rồi sẽ đỏ Cho lối mòn viên đá Ngọn núi hóa con đường. (...) Cho đất giọt mồ hôi Bung lúa vàng hoa trắng Cho đời thêm ánh nắng Để cuộc sống lung linh!...” (Cho là được) 42 TRNG I HC TH H NI Lấy cảm hứng từ “đất”, “trong nỗi đau của đất có con người” (Mặt trời trong lòng đất – Trần Mạnh Hảo): “Hễ còn người còn đất / Sẽ có cả bầu trời”; từ sự thống nhất hài hòa giữa “cho” và “nhận”..., Huy Cừ đã dần chạm đến giới hạn của sự thấu hiểu, giao cảm gần gũi giữa con người và tạo vật, điều mà rất ít nhà thơ trước đây đạt tới. Nhưng khác với cái “xuân hồng” tràn đầy thanh sắc trần gian, đài các kiêu sa mà u buồn tiếc nuối của Xuân Diệu; cái mênh mang, rợn ngợp “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”, kì vĩ tráng lệ mà lẻ loi đơn côi của Huy Cận..., tạo vật trong thơ Huy Cừ, từ núi, rừng, “lá cỏ” đến những “ngọn gió”... đều đầy tự tin và kiêu hãnh. Anh viết về hoa hồng, hoa bưởi, hoa nhài - những “Bông hoa xinh đẹp của tôi”; loài hoa nào, bông hoa nào cũng rực rỡ, quyến rũ, không phải chỉ vì vẻ đẹp tự nhiên mà chính vì sự “cháy hết mình” của chúng: “Hoa sống đẹp cho đời / Để báo tin trái chín”. Anh viết về dòng sông nhỏ, thầm lặng và khiêm nhường quên mình làm nên biển lớn: “Con sông chảy đến biển Qua mưa bão ngày đêm Con sông chẳng còn tên Chẳng còn cả chính mình Để chỉ còn biển lớn. (...) Biển thản nhiên kiêu hãnh Chỉ nhận, biết bao đời Còn dòng sông nhỏ nhoi Không nhận, chỉ biết nhường Quên mình làm nên biển.” (Cái lớn của dòng sông nhỏ) Chung qui, đó vẫn là sự hi sinh, vẫn là “cho là nhận”: “Cả đến cái mênh mông / Sông cũng cho biển nốt”. Nhưng điều đáng chú ý ở những câu thơ này chính là, đằng sau cái sự “cho là nhận” thông thường theo qui luật của tạo hóa có sự tự nguyện, sự đồng cảm, sẻ chia, không ràng buộc cũng không đòi hỏi, bởi không có những dòng sông sẽ không có biển cả, không có đại dương mênh mông các dòng sông sẽ cạn kiệt nguồn nước, sẽ không có nơi trú ngụ, sinh tồn cho vạn vật và thực thể sống muôn loài... Cái sự sắp đặt kì bí và minh triết của tạo hóa, cái lớn lao của dòng sông nhỏ... qua sự thể hiện của nhà thơ, thật giản dị và sâu sắc. Trong thơ, Huy Cừ không chỉ đi sâu khám phá bản chất của các sự vật hiện tượng, mà dường như chính sự vật hiện tượng cũng muốn mượn hồn thơ của anh để giãi bày. Có một sự đồng điệu nào đó giữa người làm thơ và cảnh vật, nên người đọc có cảm giác không TP CH KHOA HC − S 11/2016 43 phải anh – nhà thơ đang miêu tả mà là cảnh vật, tự nhiên đang tự khắc họa, phô diễn tiểu sử, nguồn gốc, chân dung của mình: “Rừng Là lá Là cây Là đá mềm ngọn cỏ Đỉnh núi cao mây phủ Con voi rừng bâng khuâng” (Rừng Tổ quốc) Trước khi là sông Hồng Tôi là rừng là núi Là khe suối trong xanh Là đá tầng nắng xói Là những vết chân nai Con voi lồng ngơ ngác Đại bàng bay qua thác Hoa núi nở đầy trời (Bí mật của rừng) Trong các bài thơ anh viết về tạo vật thời kì này, “Tâm sự của đá” là một bài thơ hay, chất chứa nhiều suy ngẫm về bản chất và ý nghĩa, giá trị đích của sự sống, sự tồn tại: “Tôi là đá Của những hang động bập bùng trong tiếng hú Của những mũi tên bằng đá phóng đi Của những lưỡi rìu bén hơn sau nhát băm vào đất Đá gan góc, tiếng hú dài sang sảng Đàn đá reo, đàn đá gọi vầng trăng Mũi tên lớn, lưỡi rìu càng phải lớn Đá của một thời đọng lại rắn căng” Đá tạo thành núi rừng, hang động; thành công cụ sinh tồn; thành đất nuôi cây; thành con đường; thành nền móng, bệ đỡ cho muôn ngàn cỗ máy sục sôi..., bởi “tôi là đá”, nhưng còn là “chiếc lá”, là “nắng vàng rực rỡ”, là “lửa”... Mỗi lần điệp khúc “tôi là đá” lặp lại là thêm một lần “đá” tự nhủ; thêm một lần những lớp trầm tích nguyên sinh kiến tạo nên sự 44 TRNG I HC TH H NI sống, nên lịch sử loài người được hé mở, phơi lộ. Có phải vì thế mà xưa nay mọi công trình tự nhiên hay được tạo tác từ đá bao giờ cũng khiến hậu sinh phải ngẫm nghĩ, suy tư từ sự vững bền, uy nghiêm của nó?!... Huy Cừ yêu rừng, yêu ngọn gió, dòng sông, yêu cỏ cây hoa trái..., yêu tất cả những cảnh vật thân thuộc, bởi với anh, chúng mang dáng hình của “em”, của cuộc đời, của quê hương đất nước. Anh cảm thán trước dòng sông: “Hỡi dòng sông của tôi / Một nửa đời ghềnh thác / Để suốt đời ào ạt / Cuộn cát đỏ trong lòng...” (Trước khi là sông Hồng); anh yêu quý cây, bởi: “Cây như chính cuộc đời / Che nắng mưa vất vả / Cây theo em tất cả / Những ao ước xanh rờn” (Những bóng lá sinh sôi); và trên hết, anh rút ra triết lí ngay từ những điều quen thuộc, bình dị nhất : “Cỏ cũng là đất nước / Nên bỗng hóa tâm hồn / Bão xiết hay bình yên / Chẳng bao giờ ngơi nghỉ” (Tâm hồn lá cỏ)... J.W.Goethe vĩ đại đã nói: “Thiên nhiên bao giờ cũng trung thực, cũng đúng với lẽ phải”, còn nhà văn xuôi trữ tình Nga M.Prisvin hối thúc: “Hãy tìm kiếm và phát hiện trong thiên nhiên những phương diện đẹp đẽ nhất của tâm hồn”. Thâm nhập và gắn bó với tạo vật, tự nhiên, Huy Cừ trước hết đã tìm thấy sự thăng bằng để chuẩn bị bước vào một cuộc chiến mới, dài lâu, không đoán định trước được tính chất, qui mô và sự phức tạp của nó; hơn thế, hành trình tìm kiếm cội nguồn của tạo vật cũng đồng thời là quá trình anh tự thẩm thấu, khẳng định cái bản thể của chính mình. 2.3. Đường tới “Cánh buồm mặt trời” Trở về từ chiến trường, cũng như bao người khác, Huy Cừ phải đối mặt với nhiều khó khăn vất vả của thời hậu chiến. Ở Huy Cừ, không có cảm giác thời gian ngưng trệ. Với anh, cuộc sống là một dòng chảy không ngừng, hối hả, vội vã... Nhà thơ cũng hối hả, vội vã, vì nếu không thế sẽ không kịp ghi nhận những gì đang đổi thay, đang diễn ra trong cuộc đời này, cả sự cao quý và tầm thường của nó. Anh đưa vào thơ tất cả những gì lọt vào tầm mắt hay có trong ý nghĩ: những vui buồn của cuộc đời, sự bất bình trước những kẻ cơ hội dối trá, thái độ yêu kính lãnh tụ và đất nước, nỗi niềm của đứa con tự thấy mình chưa làm tròn bổn phận... Đời sống thường nhật đi vào thơ anh với nhiều mảng sáng tối; ngôn ngữ thơ anh, vì thế cũng ít nhiều mang cái thô nhám của đời thường. Đôi lúc trong thơ, anh đã không thể kiềm chế được trước “niềm vui” của một lũ sâu mọt, lũ “dòi” lắm tiền nhiều của, chuyên đục khoét của nhà nước, nhân dân: “Niềm vui” nào cũng phải có kim cương Có mì chính, gạo, đường và thuốc giả... Hãy vời những thứ ấy từ kho bằng tiền, bằng hối lộ Bằng quần jeans, bằng áo ngủ mơ màng... Đấy cũng là niềm vui” dẫn đến giàu sang TP CH KHOA HC − S 11/2016 45 Những “niềm vui” hân hoan đáng giá hàng ngàn đồng trên bữa tiệc Những “niềm vui” còn có cả “quyền hành” tiếp sức Dấu son văn vẻ, chữ kí lim dim...” (Những niềm vui đáng chết) Hay: “Một lũ đỉa suốt ngày ngáp vặt Giọt cà phê đen rơi xuống ván bài riêng Đứa đảo ngũ, bỏ ruộng vườn, đi phe lốp, phe săm Cấm làm đá, đá lăn ngay trước mặt Xăng ngang nhiên thành ổ ở ven đường Thuốc lá tây rào rào như vắt Cái mặt mẹt mụ bán chui tân dược Câng câng làm vênh váo phố Hàng Buồm...” (Hà Nội thời tôi sống) Tuy nhiên, như đã nói, chẳng khó khăn nào đánh gục được những người lính đã trải qua bom đạn và may mắn còn sống sót như Huy Cừ. Mỗi lúc thấy mình mệt mỏi, sao nhãng, anh lại “Đối diện với mặt trời” và lục vấn chính mình để được tiếp thêm nghị lực: “Đối diện với mặt trời / Là những ngày chiến đấu chưa hề thôi / Giặc đằng kia đừng buông mềm tay súng / Kẻ cướp còn đâu chỉ hát lời ru”. Bởi thế, “Đừng mất công hòng làm tôi chán nản”. Huy Cừ vẫn luôn tỉnh táo để nhận ra rằng: “Một kẻ thù không còn trong tầm bắn Nào phải đâu như vậy đã là xong Vẫn còn những kẻ thù quẫy lên trong tầm mắt Chúng mặc áo nhân dân Nhưng là một lũ mù Trước gái đẹp rượu thơm Nhưng là một lũ câm Trước sự thật bị đem ra gả bán bằng từng làn khói thuốc Và ở trước đầu câu danh dự Chúng chọn chiếc nhẫn vàng để niềm tin bỏ cuộc Quăng ngôi nhà là mồi câu cho những tuổi trẻ ươn hèn Ăn cắp gạo đã quen mùi để sống với niềm vui ăn phở Ăn cắp tiền đã trở thành độc quyền của những lời khấn khứa Và chúng cam tâm đánh mất cả tâm hồn Làm rơi xuống bùn đen tấm lòng người cộng sản...” (Tôi tin dòng máu của tôi) 46 TRNG I HC TH H NI Nỗi đau nào thời hậu chiến cũng bỏng rát, nhức nhối. Nhưng nỗi đau vì trong khi có bao người đã ngã xuống, thân xác họ vẫn còn nằm lại nơi chiến trường, bao người khác vẫn sẵn sàng “Đất nước chưa bình yên / Chúng tôi còn ra trận”... mà vẫn có những kẻ cơ hội xảo trá, thản nhiên bòn rút, tận hưởng lạc thú trên công sức, xương máu của đồng đội, của nhân dân thì không thể nào chấp nhận được. Tự thâm tâm, hẳn Huy Cừ không muốn tô vẽ hay cường điệu hóa điều gì. Sự căm giận, bất bình của anh trước lũ “kẻ thù” “mặc áo nhân dân” là có thật. Nó nhắc nhớ anh, nhắc nhớ chúng ta cần biết ta là ai và đang ở đâu, ta cần phải làm gì. Không phải ngẫu nhiên khi chiến tranh mới đi qua, đất nước tạm bình yên, anh lại nhiều lần nhấn mạnh đến niềm tin, đến phẩm chất của một người lính đến thế. “Tôi tin dòng máu của tôi” là một bức phác thảo nhiều gam màu về một cuộc sống đang tái lập, đồng thời cũng là lời hứa danh dự sẽ tiếp tục đấu tranh đến cùng, cống hiến đến hơi thở cuối cùng của Huy Cừ. Khi sáng tác, Huy Cừ ít quan tâm đến vần điệu, nhưng thơ anh lại có rất nhiều ẩn dụ và nhạc tính, bởi nó là tiếng ngân vang tự nhiên của tâm hồn, trí tuệ, trái tim nhà thơ; nó mang cảm hứng, nhiệt huyết của một người lính, một viên chức từng trải, đầy trách nhiệm với cuộc đời. Cuộc sống càng gian khó, bản lĩnh của con người càng được thử thách, tôi luyện. Bất chấp những gian khó ấy, anh và thế hệ của anh vẫn bình thản, kiêu hãnh: “Tôi vẫn uống tiếng đàn bầu có hồn muôn đỉnh núi Và dạy con bước đi, bước ngã trên những viên đá tôi lấy về từ đỉnh núi mờ sương”, vẫn hướng tới “Cánh buồm mặt trời”, vẫn lắng nghe “Khát vọng mùa xuân” trong tiếng mưa nhẹ rơi. Đây có lẽ là lý do khiến nhiều bài thơ của anh đã được phổ nhạc, được hát nhiều như vậy: “Khi giọt mưa của mùa xuân rơi xuống Tôi biết rằng bão tố đã bình yên Gió heo may, phiến lá vàng lại sống Lạnh lẽo qua rồi, mưa như lửa bùng lên (...) Mưa rơi xuống Còn mặt trời ở lại Thế cho nên nắng từ đấy cũng rơi Nắng chói chang vòm xanh Hà Nội Cho hè sang, quả chín mọng môi người... TP CH KHOA HC − S 11/2016 47 3. KẾT LUẬN Đời Huy Cừ không dài, thơ Huy Cừ có thể chưa dễ đọc vì còn nhiều sự thẳng thắn, gai góc, nhưng đó là những sáng tạo, phát hiện độc đáo của một tư duy thơ mới mẻ, một tâm nguyện chân thành. Cũng giống trường hợp Phùng Khắc Bắc (1944-1991) và tập di cảo thơ “Một chấm xanh” (Nxb Quân đội, giải thưởng Hội Nhà văn 1991), bạo bệnh đã khiến nhiều dự định của Huy Cừ dang dở, song anh vẫn đang tiếp tục sống, ở một thế giới khác, với “cánh buồm mặt trời” của riêng mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huy Cừ (2015), Cánh buồm mặt trời, (Huy Kỷ sưu tầm và biên soạn), Nxb Hội Nhà văn. 2. Trần Mạnh Hảo (1981), Mặt trời trong lòng đất, Nxb Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Đức Mậu (1978), Trường ca sư đoàn, Nxb Quân đội Nhân dân. 4. Thanh Thảo (1977), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội Nhân dân. HUY CU AND HIS PATH TO “SOLAR SAIL” Abstract: Huy Cu is one of the special poets of our post-war poetry. His works bring to the aspiration, happiness, sadness and even the worries and thoughts on a generation who went through the war. The path from “the song in the forest” (Tieng hat trong rung), “the words of stone” (Tam su cua da) to “the solar sail”(Canh buom mat troi) has shown clearly his own thought, exploration and experience on values of life and poetry. Keywords: Huy Cu, poetry, the song in the forest, the words of stone, the solar sail
File đính kèm:
- huy_cu_va_duong_toi_canh_buom_mat_troi.pdf