Hoán dụ tri nhận trên ngữ liệu biểu thức ngôn ngữ biểu thị nam giới trong văn học trung đại Việt Nam
Căn cứ vào các công trình Tinh tuyển văn học Việt Nam của nhiều tác giả thuộc dòng văn
học Trung đại Việt Nam từ đầu thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, chúng tôi đã khảo sát đƣợc
650 biểu thức ngôn ngữ về ngƣời đàn ông, trong đó có 166 biểu thức thuộc cơ chế hoán
dụ. Từ cơ sở ngữ liệu này, chúng tôi hƣớng đến phân tích, xác lập các miền nguồn đƣợc
chuyển di để chỉ miền đích là nam giới. Theo đó, bài báo khái quát: Tám miền nguồn theo
cơ chế hoán dụ: (1) trang sức, trang phục; (2) đồ vật, vật dụng sinh hoạt hàng ngày; (3)
không gian, nơi chốn; căn nhà, bộ phận của căn nhà (thay thế người ở bên trong); (4) vật
dụng sinh hoạt hàng ngày, bộ phận căn nhà (thay thế cho nơi ở); (5) không gian xung
quanh ngôi nhà (thay thế cho nơi ở); (6) tước hiệu, danh hiệu học vị; (7) yếu tố hình hài;
(8) hoạt động, trạng thái; điều kiện lựa chọn sự vật ở miền nguồn là dựa vào sự liên
tƣởng tƣơng cận, chính là lấy vật cận thân có yếu tố nổi trội và thu hút sự chú ý; đặc điểm
tri nhận hoán dụ của miền nguồn; nhân tố ảnh hƣởng đến việc lựa chọn miền nguồn là
kinh nghiệm của con ngƣời trong quá trình chinh phục thiên nhiên và quan niệm văn hóa
truyền thống của dân tộc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoán dụ tri nhận trên ngữ liệu biểu thức ngôn ngữ biểu thị nam giới trong văn học trung đại Việt Nam
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 697 HOÁN DỤ TRI NHẬN TRÊN NGỮ LIỆU BIỂU THỨC NGÔN NGỮ BIỂU THỊ NAM GIỚI TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Vân Anh Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng Tóm tắt Căn cứ vào các công trình Tinh tuyển văn học Việt Nam của nhiều tác giả thuộc dòng văn học Trung đại Việt Nam từ đầu thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, chúng tôi đã khảo sát đƣợc 650 biểu thức ngôn ngữ về ngƣời đàn ông, trong đó có 166 biểu thức thuộc cơ chế hoán dụ. Từ cơ sở ngữ liệu này, chúng tôi hƣớng đến phân tích, xác lập các miền nguồn đƣợc chuyển di để chỉ miền đích là nam giới. Theo đó, bài báo khái quát: Tám miền nguồn theo cơ chế hoán dụ: (1) trang sức, trang phục; (2) đồ vật, vật dụng sinh hoạt hàng ngày; (3) không gian, nơi chốn; căn nhà, bộ phận của căn nhà (thay thế người ở bên trong); (4) vật dụng sinh hoạt hàng ngày, bộ phận căn nhà (thay thế cho nơi ở); (5) không gian xung quanh ngôi nhà (thay thế cho nơi ở); (6) tước hiệu, danh hiệu học vị; (7) yếu tố hình hài; (8) hoạt động, trạng thái; điều kiện lựa chọn sự vật ở miền nguồn là dựa vào sự liên tƣởng tƣơng cận, chính là lấy vật cận thân có yếu tố nổi trội và thu hút sự chú ý; đặc điểm tri nhận hoán dụ của miền nguồn; nhân tố ảnh hƣởng đến việc lựa chọn miền nguồn là kinh nghiệm của con ngƣời trong quá trình chinh phục thiên nhiên và quan niệm văn hóa truyền thống của dân tộc. Từ khóa biểu thức ngôn ngữ biểu thị ngƣời đàn ông; Văn học Trung đại Việt Nam; Hoán dụ; Hoán dụ tri nhận; Miền nguồn 1. Mở đầu Ngôn ngữ học tri nhận từ khi ra đời đến nay gần bốn mƣơi năm, nhƣng ở Việt Nam, nó vẫn còn là một hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ mới mẻ. Theo Lý Toàn Thắng (2004) ―Ngôn ngữ học tri nhận là trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế giới khách quan cũng như là cái cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó‖. Ngôn ngữ học tri nhận phân ra ba xu hƣớng chính, đó là ―kinh nghiệm‖, quan tâm đến mức độ ―nổi trội‖, quan tâm đến mức độ ―thu hút sự chú ý‖. Với ba xu hƣớng chính trên, con ngƣời đã sử dụng ―công cụ tri nhận‖ là cơ chế ẩn dụ và hoán dụ tri nhận để ―chuyển di mô hình tri nhận nguồn sang mô hình tri nhận đích Ở bài báo này, chúng tôi sẽ ứng dụng lý thuyết hoán dụ tri nhận vào nghiên cứu những biểu thức ngôn ngữ biểu thị nam giới trong văn học Trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, tập trung vào phân tích, xác lập các miền nguồn đƣợc chuyển di đến miền đích biểu thị ngƣời đàn ông. Theo đó, bài báo tập trung phân tích tám miền nguồn theo cơ chế hoán dụ. Từ đó rút ra đƣợc điều kiện lựa chọn sự vật ở miền nguồn theo cơ chế hoán dụ này là dựa vào đặc điểm vật cận thân có yếu tố nổi trội và thu hút sự chú ý; rút ra đƣợc đặc điểm tri nhận hoán dụ của miền nguồn; cuối cùng xác định đƣợc nhân tố ảnh hƣởng đến việc lựa chọn miền nguồn theo cơ chế này là kinh nghiệm của con ngƣời trong quá trình chinh phục thiên nhiên và quan niệm văn hóa truyền thống của dân tộc. 2. Cơ sở lý luận của đề tài và một số vấn đề liên quan 2.1. Quan hệ ngữ nghĩa của từ trong hệ thống từ vựng Khi xét về kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong từ và mối quan hệ về nghĩa các từ trong hệ thống từ vựng ta gặp các hiện tƣợng nhƣ đồng âm, đồng nghĩa và trƣờng nghĩa. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 698 a. Hiện tƣợng đồng âm: ―Những đơn vị đồng âm là những đơn vị giống nhau về mặt hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa‖ (Đỗ Hữu Châu, 1981, P.231). Hiện tƣợng đồng âm trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi hầu nhƣ không có. b. Hiện tƣợng đồng nghĩa: Theo Đỗ Hữu Châu (1981, P.198), ―Quan hệ đồng nghĩa bắt đầu xuất hiện khi bắt đầu xuất hiện một nét nghĩa đồng nhất giữa các từ‖. Đồng nghĩa có thể phân thành hai loại: đồng nghĩa từ vựng và đồng nghĩa ngữ cảnh. Đề tài chúng tôi liên quan đến đồng nghĩa từ vựng, tức là đồng nghĩa ngay trong nghĩa từ vựng của nó. Xét về mặt hình thức cấu trúc, bao gồm hai loại: đồng nghĩa hình vị và đồng nghĩa giữa các từ vựng. (1) Đồng nghĩa hình vị: cân đai (mũ và đai lƣng đều là phụ kiện của trang phục ngƣời đàn ông làm quan), trâm anh (cây trâm cài tóc và dải mũ đều là đồ trang sức và phụ kiện của trang phục ngƣời đàn ông làm quan), cung kiếm (đều là vật bất ly thân của ngƣời đàn ông xƣa), tang bồng (cây dâu dẻo dai, cỏ bồng rất cứng là hai loại cây thần dùng để làm cung và tên, là vật bất ly thân của ngƣời đàn ông xƣa), tang hồ bồng thỉ (cây cung làm bằng gỗ dâu và mũi tên làm bằng cỏ bồng, là hai vật bất ly thân thân của đấng nam nhi xƣa), v.v (2) Đồng nghĩa giữa các từ vựng: trâm anh, cân đai, trâm hốt, quan trâm, v.v. đều là những biểu thức biểu thị ngƣời đàn ông làm quan; màn hùm, trướng hổ, màn lang, khổn mạc, v.v. đều là những biểu thức biểu thị nơi làm việc của tƣớng soái ngoài trận mạc; đài xuân, nhà xuân, gia nghiêm, nghiêm đường, v.v. đều là những biểu thức biểu thị ngƣời cha. c. Hiện tƣợng trƣờng nghĩa: Theo Đỗ Hữu Châu (1981, P.173), ―Tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa các tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa‖. Đỗ Hữu Châu nêu ra bốn loại trƣờng nghĩa: trƣờng nghĩa dọc (trƣờng nghĩa biểu vật và trƣờng nghĩa biểu niệm), trƣờng nghĩa tuyến tính và trƣờng nghĩa liên tƣởng. Các trƣờng nghĩa không chỉ giúp chúng ta hiểu từ, mà còn giúp chúng ta phát hiện ra những quy tắc chi phối sự vận động của từ trong lịch sử và hoạt động thực hiện chức năng. (1) Trƣờng nghĩa biểu vật: Ví dụ đối với trƣờng nghĩa ―Các biểu thức ngôn ngữ biểu thị tinh thần khí phách của ... , vật dụng sinh hoạt hàng ngày; cách gọi đối với nam giới – không gian, nơi chốn và căn nhà, bộ phận căn nhà; cách gọi đối với nam giới – chức tƣớc, danh hiệu học vị; cách gọi đối với nam giới – yếu tố hình hài; cách gọi đối với nam giới – hoạt động, trạng thái. - Cảnh sống, khí phách ngƣời đàn ông – đồ vật, vật dụng sinh hoạt hàng ngày; cảnh sống, nơi học, nơi làm việc của ngƣời đàn ông – vật dụng sinh hoạt hàng ngày; nơi làm việc, nơi ở của ngƣời đàn ông – bộ phận căn nhà; nơi ở cua ngƣời đàn ông – không gian xung quanh ngôi nhà; khí phách của ngƣời đàn ông – hoạt động trạng thái. 5.2.Một biểu thức có hai miền nguồn cùng phóng chiếu lên một miền đích, đa số rơi vào các biểu thức có quan hệ đẳng lập. - Trong đó biểu thức mang tính danh từ chiếm đại đa số nhƣ: cơ- cầu(biết đan cái sọt và may áo da, lông thú) cùng chuyển di đến miền đíchngƣời con trai giỏi nối nghiệp gia đình;khổn- mạc(cửa ngoài thành và màn dựng lều ngoài chiến trận) đều cùng chuyển di đến nơi đóng quân của tƣớng sĩ; quan - thân (mũ và đai lƣng) cùng chuyển di đến miền nguồn ngƣời làm quan to. - Ngoài ra còn có thành ngữ có kết cấu đẳng lập có hai miền nguồn cùng phóng chiếu một miền đích nhƣ: áo tố - quần lăng cùng chuyển di đến miền đích chỉ những kẻ áo lƣợt quần là ăn chơi lêu lổng; tường đào – ngõ mận, ngõ mận – tường đào, vườn đào – ngõ mận cùng chuyển di đến miền đích chỉ nhà quan quyền quý. 5.3. Mạng lƣới cấu trúc hoán dụ: Giữa phạm trù nguồn và phạm trù đích hình thành một mạng lƣới cấu trúc hoán dụ nhất định, cùng một phạm trù nguồn có thể chuyển di đến nhiều phạm trù đích. Ngƣợc lại, cùng một phạm trù đích có thể do nhiều phạm trù nguồn chuyển di đến. a. Một miền nguồn nhƣng có thể chuyển di đến nhiều miền đích. Ví dụ bệ (bậc thềm) trong bệ Thiều, bệ ngọc vừa chuyển di đến miền đích biểu thị nhà vua, vừa chuyển di đến miền đích biểu thị ngai vàng của nhà vua; đình (sân) trong đan đình, vừa biểu thị vua, vừa biểu thị cung vua. Vườn trong vườn hạnh vừa biểu thị ngƣời theo nghiệp nhà nho, vừa biểu thị nhà quan hiền tài đức độ. Loại chuyển di này chiếm tỉ lệ không nhiều. b. Nhiều miền nguồn nhƣng chỉ chuyển di đến một miền đích. Ví dụ căn nhà (nhà, gia) trong nhà xuân, gia nghiêm; bộ phận căn nhà (đường: phòng chính) trong thung đường, xuân đường, nghiêm đường, nhạc đường; dáng vẻ nghiêm nghị (nghiêm) trong nghiêm xuân, nghiêm đƣờng, gia nghiêm đều chuyển di đến một miền đích là chỉ ngƣời cha. Hoặc các miền nguồn nhƣ cửa sổ (song) trong song huỳnh, một song một thuyền, song vân; màn che (trướng) trong trướng huỳnh; bầu nƣớc và giỏ cơm trong cơm giỏ nước bầucùng chuyển di đến miền đích nơi học tập tu dƣỡng của học trò. Các miền nguồn nhƣ cung (hồ, đàn) và tên (thỉ) trong cung tên, chí cung tên, cung dâu, chí cung dâu, treo cung, cơ cung,tên sẻ, hồ thỉ đều cùng chuyển di đến miền đích là biểu thị ngƣời con trai có chí lớn, tung hoành ngang dọc để giúp ích cho đời. Loại chuyển di này chiếm tỉ lệ tƣơng đối lớn. 5.4.Đặc điểm tri nhận của các tác giả văn học Trung đại: Các tác giả của văn học Trung đại Việt Nam sử dụng những sự vật, đồ dùng quen thuộc, gắn bó mật thiết với ngƣời đàn ông để làm miền nguồn. Những sự vật này mang tính ―kí ức cộng đồng‖, nên nó gần gũi, dễ cảm nhận, dễ hiểu. Ngƣời xƣa đã sử dụng những không gian, Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 708 nơi chốn, căn phòng thay thế cho ngƣời đàn ông phải to phải lớn, phải chiếm vị trí quan trọng để làm miền nguồn, vì ngƣời đàn ông có vị trí quan trọng trong xã hội phong kiến, họ là rƣờng cột của của nhà nƣớc phong kiến. Không giống nhƣ những từ ngữ biểu thị ngƣời phụ nữ, bộ phận cửa thay thế cho ngƣời phụ nữ và nơi ở của ngƣời phụ nữ thƣờng là cửa nách, cửa buồng, hoặc bộ phận quan trọng của cửa là then cài. Nhƣng đối với những từ ngữ biểu thị ngƣời đàn ông, cửa thay thế cho ngƣời đàn ông, nơi ở, công việc của ngƣời đàn ông thì phải là cửa chính, phải là cổng lớn, cổng thành. Nếu có dùng then cửa là loại hành môn – có thanh gỗ gài ngang đơn sơ mộc mạc. Có nghĩa đàn ông phải vùng vẫy ngoài biển khơi, phải ngao du thiên hạ để thỏa chí tang bồng chứ không phải nhƣ ngƣời phụ nữ luôn phải cửa đóng then cài. 6. Nhân tố ảnh hƣởng đến việc lựa chọn miền nguồn của những biểu thức biểu thị ngƣời đàn ông trong văn học Trung đại Việt Nam ―Kinh nghiệm của con người và truyền thống văn hóa là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn miền nguồn‖ (Triệu Diễm Phƣơng, 2011, tr.173). Từ đó, chúng tôi nhận định rằng, nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến việc lựa chọn miền nguồn của những từ ngữ biểu thị ngƣời đàn ông trong văn học Trung đại Việt Nam là phụ thuộc vào hai yếu tố sau: Cách đối xử với thế giới xung quanh và quan niệm văn hóa truyền thống của dân tộc. Cách đối xử với thế giới xung quanh của người xưa có ảnh hưởng đến việc lựa chọn miền nguồn? Qua các từ ngữ biểu thị ngƣời đàn ông trong văn học Trung đại Việt Nam, chúng ta thấy rằng, quan hệ của con ngƣời với thế giới xung quanh là quan hệ ―dĩ nhân vi trung‖. Con ngƣời là trung tâm của vũ trụ. Tất cả mọi thứ xung quanh đều tập trung thay thế cho ngƣời đàn ông, làm cho tất cả mọi phƣơng diện thuộc về ngƣời đàn ông đƣợc phác thảo rất rõ nét, ngƣời đàn ông trở thành nhân vật chính, là trụ cột của gia đình và là rƣờng cột của xã hội. Chính vì vậy mọi thứ xung quanh có giá trị về vật chất lẫn tinh thần đều có thể trở thành miền nguồn thay thế cho ngƣời đàn ông. Quan niệm văn hóa có ảnh hưởng đến việc lựa chọn miền nguồn? Quan niệm văn hóa tức là quan niệm truyền thống của dân tộc, tâm lý của dân tộc, phƣơng thức và tập quán tƣ duy của dân tộc. Trong xã hội phong kiến tập quyền – xã hội nam quyền – rõ ràng ngƣời đàn ông chiếm vị trí thƣợng tôn, ngƣời đàn ông có tất cả mọi quyền lợi và quyền hành trong gia đình cũng nhƣ ngoài xã hội. Ví dụ con trai đến tuổi trƣởng thành là làm lễ gia quan (đội mũ), tức là con trai đến lúc đƣợc đội mũ vác lều chỏng đi thi để gia nhập vào xã hội. Nên gia quan thay thế cho tuổi trƣởng thành của ngƣời đàn ông. Nơi ở hay nơi làm việc của ngƣời đàn ông chiếm toàn bộ diện tích nhƣ nhà, cung trong nhà vàng (vua), cung xanh, đông cung (thái tử); bao gồm căn phòng to lớn sang trọng nhất nhƣ đường trong gia đường, nghiêm đường, xuân đường, thung đường (cha), là cầm đường (nơi quan làm việc); là nơi có cánh cổng to lớn nguy nga trong kim khuyết (cung vua), kim môn (chốn quan quyền vinh hiển); là khoảng không gian rộng lớn nhƣ sân (đình) trong xuân đình (cha), đan đình (cung vua), v.v Quan niệm ―nữ chủ nội, nam chủ ngoại‖, ―tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ‖ và chữ ―trung hiếu‖, đàn ông chiếm vị trí quan trọng trong gia đình và ngoài xã hội, đã khiến cho họ phải luôn luôn dốc sức rèn luyện văn võ để trở thành ngƣời giỏi giang. Ví dụ, khi mới sinh ra, con trai đƣợc cha mẹ gửi gắm ƣớc mơ của cha mẹ là mong con trai sẽ làm đƣợc việc lớn trong treo cung. Khi đến tuổi trƣởng thành, cha mẹ lại mong con trai học hành giỏi giang, thi cử đỗ đạt trong gia quan; cha mẹ còn mong con trai nối nghiệp gia đình và kế thừa hƣơng hỏa trong cơ cầu, thi lễ, tông đường, v.v Trong hôn nhân, tiêu chí chọn con rể phải có chí lớn, mà bắn tên, dùng cung là tài nghệ nổi trội nhất của con trai, nên tài bắn cung tên đƣợc lựa chọn làm miền nguồn thay thế cho việc kén rể, nhƣ bắn sẻ, bắn bình, tên lọt bình, v.v Trong Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 709 thời binh biến, nơi trận mạc hiểm nguy hoặc vũ khí nguy hiểm thƣờng làm miền nguồn thay thế cho ngƣời đàn ông, nhƣ khổn mạc (cổng thành và màn), khổn ngoại (bên ngoài cổng cung thành) thay thế cho nơi đóng doanh của tƣớng soái; nhƣ giáo mác trong đồng bác, binh khí trong đổng nhung thay thế cho tƣớng và binh sĩ ở ngoài trận mạc. Với quan niệm ―trọng nam khinh nữ‖, bé trai ngay từ khi sinh ra đã có một số phận trân quý nhƣ vàng nhƣ ngọc. Sinh con trai thì đƣợc chơi với ngọc trong lộng chương, ngƣợc lại sinh con gái thì bị hắt hủi nhƣ trong lộng ngõa (chơi với ngói). Quan niệm này đã chắp cánh cho con trai có một tƣơi lai rộng mở. Sinh con trai sẽ treo một cây cung bên trái cửa trong đặt cung, treo cung, mong con trai sau này có chí cƣỡi kình, tung hoành ngang dọc. Sinh con gái thì sẽ treo cái khăn bên phải cửa trong đặt khăn, có nghĩa là nhiệm vụ của con gái đƣợc mặc định là sau này suốt cả cuộc đời sẽ làm việc nội trợ, nâng khăn sửa túi cho chồng. 7. Kết luận Những từ ngữ trong văn học Trung đại Việt Nam là một phần quan trọng trong kho tàng từ vựng tiếng Việt, đã thể hiện một cách cụ thể sinh động nội dung cơ bản về văn hóa truyền thống, phƣơng thức tƣ duy độc đáo và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam. Công trình nghiên cứu này ứng dụng lý thuyết hoán dụ tri nhận vào nghiên cứu những biểu thức ngôn ngữ biểu thị nam giới trong văn học Trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX với các nội dung sau: a. Các loại miền nguồn Với cơ chế hoán dụ, có 8 miền nguồn, chủ yếu là các yếu tố nhỏ, gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của ngƣời đàn ông nhƣ: (1) trang sức, trang phục; (2) đồ vật, vật dụng sinh hoạt hàng ngày;(3) không gian, căn nhà; bộ phận của căn nhà (thay thế người ở bên trong); (4) vật dụng sinh hoạt hàng ngày, bộ phận căn nhà (thay thế cho nơi ở); (5) không gian xung quanh ngôi nhà (thay thế cho nơi ở); (6) tước hiệu, danh hiệu học vị; (7) yếu tố hình hài; (8) hoạt động, trạng thái. b. Điều kiện lựa chọn sự vật ở miền nguồn Sự vật ở miền nguồnđƣợc lựa chọn phải có một trong hai điều kiện sau:(1) vật cận thân là dấu hiệu tính cách, (2) thuộc tính nổi trội của sự vật. c. Đặc điểm tri nhận của miền nguồn chuyển di đến miền đích Gồm có bốn đặc điểm tri nhận nhƣ sau:(1) khái quát mô hình ánh xạ giữa miền đích và miền nguồn, (2) miền nguồn trong cùng một biểu thức, (3) mạng lƣới cấu trúc miền nguồn, (4) đặc điểm sự vật sử dụng ở miền nguồn. c. Nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn miền nguồn Việc lựa chọn miền nguồn của ngƣời xƣa bị chi phối bởi sinh hoạt hàng ngày và quan niệm văn hóa truyền thống của dân tộc. Tài liệu tham khảo Đào Duy Anh (2013). Từ điển Truyện Kiều. Nxb Thanh niên Hà Nội. Đỗ Hữu Châu (1981). Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Thiều Chửu (2005). Hán Việt Tự Điển. Nxb Đà Nẵng. Trần Văn Cơ (2006). Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ). Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. Trần Văn Cơ (2009). Khảo luận ẩn dụ tri nhận. Nxb Lao động - Xã hội Hà Nội. Nguyễn Thạch Giang (2002). Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. Nguyễn Thạch Giang (2003). Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 5. Văn học thế kỉ XVIII, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 710 Nguyễn Thiện Giáp – Võ Thị Minh Hà (2016). Từ vựng học tiếng Việt. Nxb Giáo dục Việt Nam Hà Nội. Đinh Thái Hƣơng, Chu Huy, Nguyễn Hữu Sơn (2008). Điển tích văn học trong nhà trường. Nxb Giáo dục Hà Nội. Bửu Kế (2005). Tầm nguyên từ điển (Cổ văn học từ ngữ tầm nguyên). Nxb Thanh niên Hà Nội. Lakoff G. và Johnson M. (1980, 2003), Nguyễn Thị Kiều Thu dịch (2017). Chúng ta sống bằng ẩn dụ. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Vƣơng Lộc (2002). Từ điển từ cổ. Nxb Đà Nẵng Hà Nội. Long Điền & Nguyễn Văn Minh (1999). Từ điển văn liệu. Nxb Hà Nội. Nguyễn Đăng Na (2003). Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 3. Văn học thế kỉ X-XIV, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. Hoàng Phê (2015). Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng. Triệu Diễm Phƣơng (2011). Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận. Đào Hà Ninh dịch. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Ngọc San (2010). Từ điển từ Việt cổ. Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội. Trần Đình Sử (1999). Thi pháp văn học Trung Đại. Nxb Giáo dục Hà Nội. Trần Thị Băng Thanh (2004). Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 4. Văn học thế kỉ XV-XVII. Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. Lý Toàn Thắng (2004). Ngôn ngữ học tri nhận – Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. Nxb Phƣơng Đông Hà Nội. Trần Ngọc Thêm (2006). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Tổng hợp TP HCM. Trần Nho Thìn (2012). Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Nxb Giáo dục Việt Nam. Nguyễn Đức Tồn (2008). Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy. Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2018). Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàng Hữu Yên (2003). Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 6. Văn học thế kỉ XIX, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. COGNITIVE METONYMY IN VOCABULARIES DENOTING THE MAN IN VIETNAMESE MEDIEVAL LITERATURE Abstract Based on the works of Vietnamese Literature Essence, we have surveyed 650 linguistic expressions about the man in Vietnamese medieval literature, in which, there are 166 expressions under the metonymy mechanism. From there, as a basis for analyzing, establishing source domains are moved to refer to the male target domain, whereby the article analyzes eight source domains according to the metonymy mechanism:(1) jewelry, costumes; (2) everyday objects and items; (3) the space, the place; the house, parts of the house (replacing people inside); (4) everyday items, house parts (replacement for residence); (5) space around the house (replacement of accommodation); (6) title, address; (7) shape factor; (8) activity, status. Conditions for selecting things in the source domain are based on the correlation, which is the features of the object and the dominant factor. Draw conclusions about metonymic characteristics. Factors affecting the selection of the source domain is the way of treating the world around the world and the traditional cultural conception of the nation. Keywords vocabulary denoting the men, vietnamese medieval literature, metonymy, cognitive metonymy, source domain
File đính kèm:
- hoan_du_tri_nhan_tren_ngu_lieu_bieu_thuc_ngon_ngu_bieu_thi_n.pdf