Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng phương pháp đốt sóng cao tần tại bệnh viện ung bướu Nghệ An
Mở đầu: Đốt bằng sóng cao tần (RFA) là phương pháp sử dụng dòng điện xoay chiều với tần số cao để tạo nhiệt phá hủy khối u. Tổn thương của mô gây ra do nhiệt phụ thuộc vào nhiệt độ và thời gian tác động. Phương pháp này thường được sử dụng điều trị các khối u đặc ác tính, ví dụ u gan,thận, mô mềm, nhưng trên thế giới có nhiều trung tâm sử dụng phương pháp điều trị này để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ cho hiệu quả đáng ghi nhận[1, 2]. Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm và các tai biến, biến chứng của kỹ thuật điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng phương pháp đốt sóng cao tần dưới hướng dẫn chụp cắt lớp vi tính tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An. Phương pháp nghiên cứu: Can thiệp lâm sàng không đối chứng cho 27 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tham gia nghiên cứu được điều trị bằng đốt sóng cao tần. Những bệnh nhân này không phẫu thuật cắt bỏ u được vì ung thư phổi giai đoạn tiến xa (n =6) và/ hoặc chống chỉ định phẫu thuật do có bệnh phối hợp (n =17) hoặc từ chối phẫu thuật (n =4). Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có cản quang được thực hiện 1 tháng sau khi đốt u bằng sóng cao tần để đánh giá đáp ứng điều trị về chẩn đoán hình ảnh cũng như theo dõi sự cải thiện triệu chứng lâm sàng. Kết quả và bàn luận: 27 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ với độ tuổi trung bình 62,0, thấp tuổi nhất 41, cao tuổi nhất 83. Kết quả sớm sau 1 tháng theo dõi cho thấy không có bệnh nhân nào đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần là 25/27 (92,6%) bệnh nhân, bệnh ổn định có 1 bệnh nhân (3,7%), bệnh tiến triển 1 bệnh nhân (3,7%). Có 25/27 (92,6%) BN bị đau tức ngực mức độ vừa và nhẹ trong đó 22/25 (88%) bệnh nhân đau cải thiện rõ rệt triệu chứng. Các biến chứng ở mức độ nhẹ bao gồm ho ra máu 14/27 bệnh nhân, tràn khí màng phổi do thủ thuật là 5/27 bệnh nhân, tràn dịch màng phổi chỉ có 1 bệnh nhân. Số ngày trung bình nằm viện sau thủ thuật là 4,8 ± 2,0 ngày. Kết luận: Điều trị Ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng phương pháp đốt sóng cao tần là có khả thi, hiệu quả, ít tai biến và biến chứng, thời gian nằm viện ngắn ngày. Cần tiến hành nghiên cứu trong thời gian dài hơn để đánh giá thêm sự đáp ứng và thời gian sống thêm của bệnh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng phương pháp đốt sóng cao tần tại bệnh viện ung bướu Nghệ An
PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 192 ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐỐT SÓNG CAO TẦN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN PHẠM VĨNH HÙNG1, NGUYỄN VĔN HIẾU2, NGUYỄN QUANG TRUNG1, NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUÂN3, NGUYỄN KHÁNH TOÀN1, TRẦN ANH TUẤN1 TÓM TẮT Mở đầu: Đốt bằng sóng cao tần (RFA) là phương pháp sử dụng dòng điện xoay chiều với tần số cao để tạo nhiệt phá hủy khối u. Tổn thương của mô gây ra do nhiệt phụ thuộc vào nhiệt độ và thời gian tác động. Phương pháp này thường được sử dụng điều trị các khối u đặc ác tính, ví dụ u gan,thận, mô mềm, nhưng trên thế giới có nhiều trung tâm sử dụng phương pháp điều trị này để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ cho hiệu quả đáng ghi nhận[1, 2]. Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm và các tai biến, biến chứng của kỹ thuật điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng phương pháp đốt sóng cao tần dưới hướng dẫn chụp cắt lớp vi tính tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An. Phương pháp nghiên cứu: Can thiệp lâm sàng không đối chứng cho 27 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tham gia nghiên cứu được điều trị bằng đốt sóng cao tần. Những bệnh nhân này không phẫu thuật cắt bỏ u được vì ung thư phổi giai đoạn tiến xa (n =6) và/ hoặc chống chỉ định phẫu thuật do có bệnh phối hợp (n =17) hoặc từ chối phẫu thuật (n =4). Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có cản quang được thực hiện 1 tháng sau khi đốt u bằng sóng cao tần để đánh giá đáp ứng điều trị về chẩn đoán hình ảnh cũng như theo dõi sự cải thiện triệu chứng lâm sàng. Kết quả và bàn luận: 27 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ với độ tuổi trung bình 62,0, thấp tuổi nhất 41, cao tuổi nhất 83. Kết quả sớm sau 1 tháng theo dõi cho thấy không có bệnh nhân nào đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần là 25/27 (92,6%) bệnh nhân, bệnh ổn định có 1 bệnh nhân (3,7%), bệnh tiến triển 1 bệnh nhân (3,7%). Có 25/27 (92,6%) BN bị đau tức ngực mức độ vừa và nhẹ trong đó 22/25 (88%) bệnh nhân đau cải thiện rõ rệt triệu chứng. Các biến chứng ở mức độ nhẹ bao gồm ho ra máu 14/27 bệnh nhân, tràn khí màng phổi do thủ thuật là 5/27 bệnh nhân, tràn dịch màng phổi chỉ có 1 bệnh nhân. Số ngày trung bình nằm viện sau thủ thuật là 4,8 ± 2,0 ngày. Kết luận: Điều trị Ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng phương pháp đốt sóng cao tần là có khả thi, hiệu quả, ít tai biến và biến chứng, thời gian nằm viện ngắn ngày. Cần tiến hành nghiên cứu trong thời gian dài hơn để đánh giá thêm sự đáp ứng và thời gian sống thêm của bệnh. Từ khóa: Ung thư phổi không tế bào nhỏ, đốt sóng cao tần. ABSTRACT Radiofrequency ablation of pulmonary malignant tumors in inoperablepatients: case series study on 27 patients Background: Radiofrequency ablation (RFA) is a method of using electric currents with high frequencies to generate heat that destroys tumors. The damage caused by heat is dependent on temperature and duration of action. This method is often used to treat hypertonic tumors, such as liver, kidney and soft tissue tumors, but many centers around the world use this treatment to treat non-cell lung cancer. 1 Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An 2 Trường Đại học Y Hà Nội 3 Bệnh viện Trung Ương Huế PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 193 Objective: To assess safety complications and efficiency of percutaneous computed tomography (CT)‐ guided transthoracic radiofrequency (RF) ablation for treating inoperable non–small cell lung cancer (NSCLC) was used at Nghệ an oncology hospital. Materials and Methods: 27 patients with non-small cell lung cancer were treated with radiofrequency wave radiotherapy, with an average age of 62.0, with the lowest age being 41, the highest are 83. These patients did not have a surgical excision because of advanced lung cancer (n = 6) and / or a combination of surgery (n = 17) or refuse surgery (n = 4). Contrast-enhanced computerized tomography was performed 1 month after high frequency radiofrequency ablation for evaluation of visual diagnostic response as well as follow-up of clinical improvement. Results: No patients responding completely, partial responding to 25/27 (92.6%) patients, stable disease with 1 patient (3.7%). There were 25/27 (92.6%) patients with mild and moderate chest pain in which 22/25 (88%) of the patients with marked improvement in symptoms. The complications included coughing up blood 14/27 Patients, pneumothorax due to the procedure is 5/27 patients, pleural effusion only one patient. The average number of days after hospitalization was 4.8 ± 2.0 days. Conclusion: This study demonstrates the feasibility, efficacy, and safety of radiofrequency ablation for non small cell lung cancer. Additional trials are needed to determine safety and efficacy. Keywords: Non small cell lung cancer, Radiofrequency Ablation. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư phổi là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất trên toàn thế giới trong những thập kỷ gần đây. Theo GLOBOCAN nĕm 2012 trên toàn thế giới có khoảng 1.8 triệu, chiếm tổng số 12,9% bệnh nhân ung thư, trong đó 58% bệnh nhân ở các nước đang phát triển[3]. Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm 75 - 80% số bệnh nhân ung thư phổi. Đối với bệnh nhân giai đoạn sớm, điều trị ngoại khoa có thể đạt được tỉ lệ sống còn 5 nĕm đến 40%. Tuy nhiên, đáng tiếc là phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, trong đó giai đoạn III chiếm khoảng 35%[4, 5]. Trong các phương pháp điều trị ung thư phổi, phẫu thuật cắt bỏ khối u phổi kèm vét hạch có/ không phối hợp điều trị hóa chất hoặc xạ trị là phương pháp điều trị tốt nhất. Tuy nhiên chỉ có khoảng 15-20% bệnh nhân còn khả nĕng phẫu thuật, còn lại phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn hoặc có bệnh nội khoa phối hợp và một số bệnh nhân từ chối phẫu thuật[5]. Một phương pháp được lựa chọn trên những bệnh nhân này là đốt sóng cao tần[6]. Nĕm 2008 lần đầu tiên phương pháp điều trị khối u phổi bằng đốt sóng cao tần (Radio frequency ablation) được R ... rị ung thư phổi bằng nhiệt sóng cao tần được tiến hành cho khá nhiều bệnh nhân. Cho đến nay có rất ít nghiên cứu trong nước về ứng dụng đốt nhiệt cao tần trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ và cũng chỉ dừng lại những nhận xét bước đầu do hạn chế về thời gian và số lượng bệnh nhân. Chưa có nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ hiệu quả điều trị cũng như các tai biến thường gặp của phương pháp. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu sau: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ. Đánh giá kết quả sớm, một số tai biến, biến chứng của phương pháp đốt sóng cao tần. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi thực hiện nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng với cỡ mẫu thuận tiện 27 trường hợp bị ung thư phổi không tế bào nhỏ được điều trị bằng đốt sóng cao tần bằng máy Cool-tip RF Ablation system E series. Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An từ tháng 11/2014 đến 5/2017. Sau khi hoàn thành thủ thuật đốt u phổi bằng sóng cao tần, chúng tôi tiến hành ghi nhận các tai biến, biến chứng, cũng như ghi nhận sự cải thiện triệu chứng lâm sàng, đánh giá lại thay đổi đường kính khối u và tính chất tĕng quang của khối u sau 1 tháng thực hiện thủ thuật so với trước khi can thiệp. Chúng tôi thực hiện kỹ thuật và đánh giá kết quả đốt u phổi bằng sóng cao tần theo các hướng dẫn tham khảo từ y vĕn thế giới. Quy trình kỹ thuật Bệnh nhân phải nhịn đói bữa sáng trước thủ thuật và nằm nội trú ở bệnh viện ít nhất một ngày. PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 194 Các bệnh nhân này được kiểm tra toàn bộ các xét nghiệm thường quy, không có chống chỉ định đốt u phổi bằng sóng cao tần (u phổi cách phế quản chính dưới 1cm, u phổi kèm xẹp phổi hoặc viêm phổi tắc nghẽn, bệnh nhân có rối loạn đông máu không kiểm soát được, bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu). Thủ thuật được thực hiện tại phòng chụp cắt lớp vi tính của bệnh viện. Bệnh nhân được thở oxy liên tục từ 5‐8 lít/phút, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp Ketorolac 0,5mg/kg, truyền tĩnh mạch Propolol 1‐ 2mg/kg/giờ và Remifentanil 0,1mcg/kg/giờ. Các dấu hiệu sinh tồn được theo dõi liên tục trong lúc thực hiện và một giờ sau thủ thuật. Vị trí và hướng đâm kim vào u phổi được hướng dẫn bởi chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và sự hỗ trợ của robot Maxio định vị. Hướng đưa kim vào u phổi phải được cân nhắc trước để tránh mạch máu lớn, khí quản, và các cơ quan quan trọng khác. Sau khi tiền mê và bệnh nhân ngủ yên, thủ thuật viên sẽ sát khuẩn da và gây tê bằng lidocaine 2% rồi đưa một cây kim điện cực qua da vào chính giữa khối u. Đồng thời hai tấm điện cực khác được đặt ở hai đùi của bệnh nhân. Kim điện cực này và hai tấm điện cực ở hai đùi sẽ được nối với máy phát sóng cao tần. Sự chênh lệch về diện tích bề mặt của kim điện cực khá nhỏ so với diện tích bề mặt khá lớn của hai tấm điện cực ở hai đùi của bệnh nhân sẽ tạo ra nhiệt nĕng tập trung xung quanh kim điện cực nhằm giúp tiêu diệt tế bào ung thư. Cĕn cứ vào đường kính u phổi mà thủ thuật viên sẽ điều chỉnh thời gian đốt. Điều kiện lý tưởng là chu vi đốt phải rộng hơn chu vi của khối u từ 0,5‐1cm. Kim điện cực được dùng một lần cho mỗi một bệnh nhân. Trước, trong và sau thủ thuật bệnh nhân luôn được chụp cắt lớp vi tính lồng ngực để đánh giá tổn thương, hướng kim và các biến chứng có thể xảy ra như tràn khí màng phổi, tràn khí dưới da, tràn máu màng phổi . Nếu các dấu hiệu sinh tồn ổn định, các xét nghiệm sau đó không có thay đổi gì đáng kể, không có biến chứng nào được ghi nhận, bệnh nhân có thể được ra viện sau 24 giờ thực hiện thủ thuật. Nếu có bất kỳ biến chứng nào được ghi nhận, chúng tôi sẽ kịp thời điều trị hợp lý cho đến khi bệnh nhân ổn định hoàn toàn mới cho xuất viện[6]. Xử lý số liệu: Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa và nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm SPSS 16 để xử lý. Thực hiện phép kiểm chính xác của Fisher. Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết thống kê. KẾT QUẢ Đặc điểm bệnh nhân Tuổi và giới Bảng 1. Tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu Tuổi Nam Nữ Tổng Số bn % Số bn % Số bn % ≤ 50 0 0 2 15.4 2 7.4 50- 59 3 21.4 6 46.2 9 33.3 60 – 69 8 57.2 3 23.2 11 40.8 ≥ 70 3 21.4 2 15.4 5 18.5 Tổng số 14 100 13 100 27 100 Nhận xét: Từ tháng 11/2014 đến 5/2017 chúng tôi ghi nhận thực hiện thủ thuật sóng cao tần điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ 27 bệnh nhân, tỷ lệ nam/nữ là 1,07/1. Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 62,0 ± 9,0 tuổi trong đó tuổi thấp nhất là 41, cao nhất là 83. Giai đoạn bệnh Về giai đoạn bệnh, có 6 bệnh nhân (22,2%) bị ung thư phổi giai đoạn IV không có chỉ định phẫu thuật, 17 bệnh nhân nhân có bệnh phối hợp như suy tim, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hay già yếu chống chỉ định phẫu thuật và 4 bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật. Kích thước u Bảng 2. Kích thước u Kích thước u ≤30 mm >30-50 mm > 50 mm Số BN 21 7 5 Tỷ lệ % 63.7 21.2 15.1 Nhận xét: Kích thước u phổi trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính lồng ngực thấy có 12 (36,3%) bệnh nhân có đường kính u phổi > 30mm, trong đó có 5 bệnh nhân (15,1%) có đường kính u phổi từ > 50mm. Giải phẫu bệnh Thể giải phẫu bệnh hay gặp nhất là ung thư biểu mô tuyến với 23 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 85,2%, tiếp theo là ung thư phổi không tế bào nhỏ 3 bệnh nhân, ung thư biểu mô tế bào lớn có 1 bệnh nhân. Kết quả đốt sóng cao tần Chúng tôi đánh giá hiệu quả điều trị đốt u phổi bằng sóng cao tần dựa vào so sánh đường kính của u, đặc tính của u, tính chất cản quang của u phổi trước và sau thủ thuật một tháng. Đồng thời chúng tôi cũng ghi nhận sự cải thiện về triệu chứng lâm sàng có trước và sau khi thực hiện thủ thuật. Trước thủ thuật có 25 bệnh nhân có triệu chứng đau ở mức độ nhẹ và vừa, kết quả sau đốt sóng cao tần 1 tháng chỉ còn 3 bệnh nhân còn triệu chứng đau. Có 24 PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 195 bệnh nhân bị gầy sút cân trước khi vào viện, sau đốt vẫn còn 2 bệnh nhân gầy sút cân, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Kết quả này cho thấy có sự cải thiện rõ rệt các triệu chứng lâm sàng sau 1 tháng RFA. Bảng 3. Số lần đốt sóng cao tần Số lần RFA Số bệnh nhân Tỷ lệ % 1 lần 21 77,7 2 lần 6 22,3 Nhận xét: Bệnh nhân được đốt sóng cao tần 1 lần chiếm tỷ lệ khá cao 77,7%. Trung bình mỗi bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được đốt sóng cao tần 1,2 lần. Bảng 4. Các loại kim sử dụng, thời gian đốt sóng Loại kim (N = 27) Số lần sử dụng Tỷ lệ % Thời gian đốt trung bình (phút) 15* 1cm Không sử dụng lần nào do kích thước khối u phần lớn trên 1cm 20*1cm 15*2cm 6 40 8,4 20*2cm 9 60 15*3cm 3 25 13,7 20*3cm 9 75 Nhận xét: Thời gian đốt sóng cao tần trung bình cho 27 bệnh nhân là 10,7 phút. Bảng 5. Đáp ứng điều trị sau một tháng thực hiện thủ thuật Đánh giá đáp ứng Số bệnh nhân Tỷ lệ % Đáp ứng hoàn toàn 0 0 Đáp ứng 1 phần 25 92,6 Bệnh ổn định 1 3,7 Bệnh tiến triển 1 3,7 Nhận xét: Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 96,3%, có 1 bệnh nhân tiến triển, chiếm 3,7%. Bảng 6. Các tai biến, biến chứng Các tai biến, biến chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ % Ho ra máu 14 51,8 Tràn khí màng phổi 5 18,5 Tràn khí màng phổi phải 2 7,4 dẫn lưu Tràn máu màng phổi 1 3,7 Viêm phổi sau thủ thuật 3 11,1 Apcess phổi 0 0 BÀN LUẬN Đặc điểm bệnh nhân Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi cũng gần tương đương với kết quả của Sano Y (2007) nghiên cứu trên 137 bệnh nhân cho kết quả độ tuổi trung bình của bệnh nhân 62,9 tuổi (34-88 tuổi)[9]. Không khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi theo giới tính (p > 0,56). Kích thước trung bình của khối u là 26mm, trong đó khối u có kích thước từ < 30cm chiếm tỷ lệ cao nhất 63,6%, kết quả này cho thấy kích thước trung bình khối u trong nghiên cứu chúng tôi lớn hơn so với nghiên cứu của Lencioni (2008) trên 106 bệnh nhân với kích thước trung bình của khối u là 15 mm[7]. Điều này có thể giải thích một phần do tỷ lệ phát hiện sớm bệnh ở nước ta thấp hơn nhiều so với các nước Châu Âu. Kết quả đốt sóng cao tần Số lần đốt sóng cao tần trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với báo cáo của Chan VO (2010) tổng hợp nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu là 1584 bệnh nhân với số đợt đốt sóng cao tần là 2905 lần, trung bình mỗi bệnh nhân được RFA 1,8 lần[10]. Theo bảng 5: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ kiểm soát bệnh cao hơn ít so với nghiên cứu của Pennathur A (2009) trên 100 bệnh nhân là 82,0%. Có sự khác biệt này có lẽ một phần do độ tuổi trung bình bệnh nhân trong nghiên cứu Pennathur A cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi 73,5 tuổi so với 62,0 tuổi[11]. Sau thủ thuật, có 5 trường hợp tràn khí màng phổi lượng ít, theo dõi sau 24 giờ có 2 (chiếm 7,4%) trường hợp tràn khí màng phổi lượng nhiều phải tiến hành dẫn lưu màng phổi vừa phải đặt ống dẫn lưu kín màng phổi. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Sano Y (2007) có 11,8% bệnh nhân sau RFA phải dẫn lưu khoang màng phổi[9]. Nghiên cứu đốt u phổi bằng sóng cao tần của Simon và cộng sự có 52/183 (28,4%) trường hợp bị tràn khí màng phổi, trong đó có 18/183 (9,8%) trường hợp phải đặt ống dẫn lưu kín màng phổi. Nghiên cứu đốt u phổi bằng sóng cao tần của Fernando và cộng sự có 7/18 (39%) trường hợp tràn khí màng phổi phải đặt ống dẫn lưu kín nhưng trong nghiên cứu này có 2 bệnh nhân đốt u phổi qua mở lồng ngực tối thiểu[12]. Nghiên cứu của Lee có 2/32 (6,2%) trường hợp phải đặt ống dẫn kín màng phổi và 1 trường PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 196 hợp rối loạn chức nĕng hô hấp (3,1%). Như vậy, các biến chứng của đốt u phổi bằng sóng cao tần là tương đối nhẹ và dễ xử trí[13]. Sau thủ thuật có 1(3,7%) bệnh nhân có tràn dịch màng phổi lượng ít, theo dõi không thấy dịch nhiều thêm. Tỷ lệ này cũng tương tự nghiên cứu Pennathur A cho kết quả có 3/100 (3%) bệnh nhân có tràn dịch màng phổi. Có 3 (11,1%) trường hợp bị viêm phổi có đáp ứng tốt với điều trị kháng sinh, sau 1 tháng kiểm tra thấy kích thước tổn thương co nhỏ hơn và có hoại tử trung tâm cũng như tĕng quang nhẹ sau cản quang[11]. Không có tai biến nặng hoặc tử vong liên quan thủ thuật. Số ngày trung bình nằm viện sau thủ thuật là 4,8 ± 2,0 ngày, ít hơn rất nhiều so với phẫu thuật lấy u. dài hơn so với nghiên cứu của Fernando (2,5 ngày)[12]. Sự khác biệt này có thể do một số bệnh nhân thực hiện thủ thuật vào ngày thứ nĕm, thứ sáu trong tuần, không thể xuất viện vào thứ bảy và chủ nhật nên có thể làm kéo dài thêm ngày nằm viện. Ngoài ra có một trường hợp có biến chứng viêm phổi phải điều trị dài ngày sau thủ thuật. KẾT LUẬN Nghiên cứu tiến hành điều trị đốt sóng cao tần cho 27 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tại bệnh viện Ung bướu Nghệ An chúng tôi rút ra kết luận sau. - Độ tuổi trung bình độ tuổi trung bình của bệnh nhân 62,0 tuổi. Hầu hết các khối u có kích thước bé, u ≤ 30mm chiếm tỷ lệ cao nhất 63,6%, có 5 bệnh nhân có kích thước u > 50mm. - Kết quả bước đầu cho thấy điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng đốt sóng cao tần là phương pháp điều trị tương đối an toàn, hiệu quả đáng ghi nhận với tỷ lệ kiểm soát bệnh sau 1 tháng cao đạt 96,3%, chỉ có 1 (3,7%) bệnh nhân tiến triển. Các tai biến, biến chứng hay gặp chủ yếu là ho ra máu, tràn khí màng phổi, chủ yếu ở mức độ nhẹ, không có trường hợp nào biến chứng nặng hay tử vong. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Takao Hiraki, Hideo Gobara, and Toshihiro Iguchi (2014). Radiofrequency ablation for early stage nonsmall cell lung cancer. BioMed Research International, p.1-11. 2. Beland.MD (2010). Interventional procedure overview of percutaneous radiofrequency ablation for primary or secondary lung cancers. National istitute for health and clinical excellence, p.1-36. 3. GLOBOCAN 2012. 4. Nguyễn Bá Đức, Trần Vĕn Thuấn, Nguyễn Tuyết Mai (2010). Điều trị nội khoa Ung thư, tr 81-93. 5. Nguyễn Vĕn Hiếu (2015). Ung thư học, tr.153- 169. 6. Percutaneous radiofrequency ablation for primary or secondary lung cancers, p. 9-36 7. Lencioni, R. (2008). Lung cancer can be treated with radiofrequency ablation (Rapture study). The Lancet Oncology. 8. Đinh Trọng Toàn, Nguyễn Đức Bằng, Nguyễn Huy Dũng và cộng sự (2013). Đốt u phổi ác tính bằng sóng cao tần ở bệnh nhân không thể phẫu thuật: Nghiên cứu loạt ca lâm sàng trên 32 bệnh nhân. Tạp chí Y học TP.Hồ Chí Minh, số 3, tr 2017-213. 9. Sano Y, Kanazawa S, Gobara H et al. (2007). Feasibility of percutaneous radiofrequency ablation for intrathoracic malignancies: A large single-center experience. Percutaneous radiofrequency ablation for primary or secondary lung cancers, p.7 10. Chan VO, McDermott S, Malone DE et al. (2010) Percutaneous radiofrequency ablation of lung tumors. Evaluation of the literature using evidence-based techniques. Percutaneous radiofrequency ablation for primary or secondary lung cancers, p.16-36. 11. Pennathur A, Abbas G, Gooding WE et al. (2009) Image-guided radiofrequency ablation of lung neoplasm in 100 consecutive patients by a thoracic surgical service. Percutaneous radiofrequency ablation for primary or secondary lung cancers, p.13-36. 12. Fernando HC, Schuchert M, Landreneau R et al. (2010) Approaching the high-risk patient: sublobar resection, stereotactic body radiation therapy, or radiofrequency ablation. Percutaneous radiofrequency ablation for primary or secondary lung cancers, p.28-36. 13. Lee JM, Jin GY, Goldberg SN, et al. (2004), Percutaneous radiofrequency ablation for inoperable non‐small cell lung cancer and metastasis: preliminary results, Radiology, 230, p. 125‐134.
File đính kèm:
- dieu_tri_ung_thu_phoi_khong_te_bao_nho_bang_phuong_phap_dot.pdf