Dịch vụ Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
Tôn giáo Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt, dù vẫn đi theo các xu thế phát triển
chung của tôn giáo thế giới. Một trong những nét đặc trưng đó là sự phát triển của hệ thống dịch vụ
tôn giáo, trong đó phải kể đến dịch vụ Phật giáo. Các hình thức dịch vụ tâm linh cơ bản của Phật
giáo là: cầu an, cúng sao giải hạn, cầu siêu, đưa vong lên chùa, nghi lễ đám tang, bán khoán, nhập
trạch, động thổ, bốc bát hương, v.v. Đa số những người tham gia vào dịch vụ Phật giáo đều cảm
thấy hài lòng với sự cung ứng các dịch vụ này của các cơ sở Phật giáo. Tuy nhiên, cũng có không ít
những ý kiến trái chiều về giá trị đích thực của loại hình dịch vụ Phật giáo
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Dịch vụ Phật giáo ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dịch vụ Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
42 Dịch vụ Phật giáo ở Việt Nam hiện nay Nguyễn Thị Minh Ngọc1 1 Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Email: ngocnminh@yahoo.com Nhận ngày 10 tháng 10 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 11 năm 2017. Tóm tắt: Tôn giáo Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt, dù vẫn đi theo các xu thế phát triển chung của tôn giáo thế giới. Một trong những nét đặc trưng đó là sự phát triển của hệ thống dịch vụ tôn giáo, trong đó phải kể đến dịch vụ Phật giáo. Các hình thức dịch vụ tâm linh cơ bản của Phật giáo là: cầu an, cúng sao giải hạn, cầu siêu, đưa vong lên chùa, nghi lễ đám tang, bán khoán, nhập trạch, động thổ, bốc bát hương, v.v.. Đa số những người tham gia vào dịch vụ Phật giáo đều cảm thấy hài lòng với sự cung ứng các dịch vụ này của các cơ sở Phật giáo. Tuy nhiên, cũng có không ít những ý kiến trái chiều về giá trị đích thực của loại hình dịch vụ Phật giáo. Từ khoá: Dịch vụ, tôn giáo, Phật giáo, tâm linh, Việt Nam. Phân loại ngành: Tôn giáo học Abstract: In Vietnam, religions have their own particularities, although they do follow the general development tendency of the world religions. One of the particularities is the development of the system of religious services, of which one cannot fail to mention Buddhist services. The Buddhist spiritual services consist of the following basic types: ceremonies to pray for safety and protection; worship of astrological signs for relieving a run of bad luck; masses to bring peace to the souls of the dead; ceremonies to bring their souls to the pagoda; funeral rites; ceremonies to consecrate one's child's life to Buddha, Mother Goddesses, to move into a new house, those of ground breaking, and for making up a censer, etc. Most of the people taking part in the services feel satisfied with the service provision by Buddhist establishments. There remain, however, many contradictory opinions on the authentic value of Buddhist services. Keywords: Service, religion, Buddhist, spiritual, Vietnam. Subject classification: Religious studies Nguyễn Thị Minh Ngọc 43 1. Giới thiệu Xã hội hiện đại với xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá và thế tục hoá đang tác động mạnh mẽ đến đời sống tôn giáo trên toàn thế giới; tạo nên sự phong phú đa sắc màu cho bức tranh tôn giáo. Tôn giáo Việt Nam cũng không đi ra ngoài những xu thế phát triển chung đó. Dịch vụ là một loại hoạt động không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội; là một dạng hoạt động nhằm thỏa mãn trực tiếp những nhu cầu của từng cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng dân cư. Dịch vụ Phật giáo là dạng hoạt động cung ứng các nghi lễ Phật giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tâm linh của phật tử và cộng đồng những người có tâm thức hướng về Phật giáo, tin theo Phật giáo. Dịch vụ Phật giáo, trong đó có dịch vụ về tâm linh, ở Việt Nam đang phát triển mạnh. Các loại hình dịch vụ tâm linh chủ yếu của Phật giáo ở Việt Nam bao gồm: cầu an, cúng sao giải hạn, cầu siêu, đưa vong lên chùa, nghi lễ đám tang, bán khoán và chạy đàn... Bài viết này phân tích hoạt động của các dịch vụ Phật giáo nói trên ở Việt Nam và thái độ của người dân đối với các dịch vụ đó. 2. Các dịch vụ Phật giáo 2.1. Cầu an, cúng sao giải hạn Cầu an, cúng sao giải hạn là những nghi lễ thực hiện với mục đích mang lại sự bình an cho người tham dự. Phật giáo nguyên thuỷ không có lễ cầu an. Cúng sao giải hạn là nghi lễ không thuộc nghi lễ Phật giáo. Tuy nhiên, trước nhu cầu của phật tử và người dân, gần đây, hầu hết các chùa đều cung ứng dịch vụ nghi lễ này vào tháng Giêng âm lịch. Thông thường, lễ cầu an và cúng sao giải hạn được tiến hành vào trước rằm tháng Giêng âm lịch hàng năm. Quy trình cúng sao giải hạn rất khác biệt tại các chùa. Một số chùa quy định một ngày cố định hàng năm để cúng sao giải hạn (ví dụ chùa Phúc Khánh, Hà Nội, lễ cầu an vào tối ngày 14 tháng Giêng âm lịch; cúng sao La Hầu vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch; cúng sao Thái Bạch vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch; cúng sao Kế Đô vào ngày 18 tháng Giêng âm lịch). Một số chùa không phân biệt ngày cúng cầu an và cúng sao giải hạn. Ví dụ, ở chùa Quang Ân, Hà Nội, hàng năm ngày 6 tháng Giêng âm lịch, ngày 10 tháng Giêng âm lịch là những ngày thực hiện lễ cúng cầu an và cúng sao giải hạn. Một số chùa khác, đặc biệt những chùa không phải là tổ đình lớn, có nhiều phật tử, và những chùa vùng ven đô, nông thôn, không quy định ngày cụ thể hàng năm để tổ chức các khoá lễ này. Nhóm này có thể tổ chức một ngày trước rằm, không cố định theo từng năm, để thực hiện lễ cầu an và cúng sao giải hạn. Đồng thời, nhóm này có thể thực hiện lễ cầu an và cúng sao giải hạn vào bất kỳ ngày nào trong tháng Giêng theo yêu cầu của gia đình phật tử hay nhóm gia đình phật tử. Trong trường hợp đó, nghi lễ cầu an và cúng sao giải hạn gần như được gộp làm một. Lễ cúng cầu an hay cúng sao thông thường được tổ chức vào buổi tối. Nhóm chùa có sự tách bạch nghi lễ cầu an và cúng sao giải hạn cũng có sự khác biệt về nghi thức thực hiện các khoá lễ này. Điểm chung là, nghi lễ cầu an chỉ được thực hiện một lần trước hoặc trong ngày rằm tháng Giêng. Về nghi thức cúng sao giải hạn, có chùa dù tách khỏi nghi thức cầu an nhưng cũng chỉ thực hiện một lần vào đầu năm. Một nhóm nghi thức khác trong Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 44 việc cúng sao cầu giải hạn được tổ chức riêng biệt cho từng sao theo từng ngày cố định phụ thuộc vào yếu tố của sao, được tổ chức hàng tháng (ngày đầu năm được khuyến nghị là ngày quan trọng nhất). Cầu an là nghi thức thực hiện cho mọi người, còn cúng sao giải hạn chỉ được tiến hành cho những người được cho là gặp phải các sao xấu trong năm (như các sao La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch). Do có sự khác biệt về tính chất của hai khoá lễ cầu an và cúng sao giải hạn, nên đối với nhóm chùa có sự tách biệt hai khoá lễ này thì quy trình thực hiện của lễ cầu an và cúng sao ... c nhiều gia đình lựa chọn khi trong nhà có người thân vừa mất. Trước kia, nghi lễ đưa vong lên chùa chỉ thực hiện đối với những gia đình không có con trai thờ tự. Trong trường hợp đó, khi còn sống, người ta thường làm công quả cho nhà chùa, cúng ruộng, tiền bạc cho nhà chùa để sau này khi mất gửi vong về chùa, nương tựa cửa Phật, không bị rơi vào cảnh vong không người cúng giỗ lang thang đói khát. Tuy nhiên, ngày nay, nghi lễ này được thực hiện một cách phổ biến đối với các gia đình có người thờ tự và không có người thờ tự. Quan niệm của người dân về nghi lễ đưa vong lên chùa đã thay đổi. Họ đưa vong lên chùa để mong rằng người thân vừa mất được siêu thoát về cõi Tịnh Độ của chư Phật. Về cõi đó, một mặt, người thân được hưởng cảnh giới tốt lành, mặt khác, người thân sẽ quay về phù hộ độ trì cho con cháu, người trong gia đình được tốt hơn. Khi gia đình có người mất, ngoài thực hiện nghi lễ đưa vong lên chùa, nhiều gia đình (cả phật tử và không phải phật tử) mời sư tăng thực hiện các nghi lễ trong các quy trình của đám tang cho người mất được siêu thoát. Nghi lễ này được thực hiện không giống nhau, tuỳ thuộc vào yêu cầu của gia đình tang quyến. Nghi lễ được bắt đầu bằng tụng kinh cầu nguyện cho người mất khi nhập quan; tiếp đó, tụng kinh trước khi di quan; tụng kinh tại đài hoá thân trước khi di quan vào đài hoả táng; và thực hiện lễ cúng 3 ngày tại gia đình. Có gia đình mời nhà chùa thực hiện đầy đủ các nghi lễ trên, có gia đình chỉ mời thực hiện một, hai nghi lễ, thông thường họ mời nhà chùa cúng 3 ngày tại gia đình. 2.3. Bán khoán Bán khoán là nghi lễ dành cho trẻ em. Dân gian quan niệm rằng, đứa trẻ sinh ra nếu phạm phải giờ xấu, hoặc cung mệnh của bố và cung mệnh của mẹ khắc nhau (ví dụ phạm tuyệt mạng) thì đứa trẻ sẽ khó nuôi, hay bị đau ốm lặt vặt không rõ nguyên nhân. Để hoá giải chuyện này, người ta cho rằng cần phải mang đứa trẻ đến chùa gửi làm con Phật, con Mẫu, con Đức ông. Bán khoán nghĩa là mang con mình lên chùa bán lại cho Phật, Mẫu, Đức ông để đứa trẻ làm Nguyễn Thị Minh Ngọc 47 con Phật, con Mẫu, con Đức ông. Các giờ sinh được coi là xấu đối với đứa trẻ là: giờ Quan sát, giờ Kim Xà thiết toả. Nghi lễ này không được ghi trong các kinh điển Phật giáo. Bởi lẽ Phật giáo không quan niệm có ngày giờ tốt xấu. Với đạo Phật, giờ nào cũng là giờ tốt khi mọi người khởi chánh niệm thiện, hành động với tâm thiện; giờ nào cũng là giờ xấu khi mọi người khởi ý nghĩ bất thiện, hành động bất thiện. Bán khoán là nghi lễ dành cho trẻ em mới sinh. Thông thường lễ bán khoán được tiến hành ngay khi đứa trẻ mới ra đời trong vòng năm đầu, hoặc khi gia đình thấy đứa trẻ hay ốm đau không rõ nguyên nhân, đối chiếu theo lịch dân gian thấy sinh phạm giờ xấu. Trẻ em được bán khoán sẽ được làm lễ chuộc lại cho bố mẹ vào năm đứa trẻ 13 tuổi. Tuy nhiên, hiện bán khoán không chỉ được thực hiện cho trẻ em dưới 13 tuổi với mong muốn đứa trẻ khoẻ mạnh không đau ốm, mà còn được thực hiện cả với những trẻ trên 13 tuổi. Mục đích bán khoán là để đứa trẻ trở nên ngoan ngoãn, thành người có ích. Ví dụ: bố mẹ muốn con mình không nghiện chơi game nhưng vì dạy con không được nên ra chùa thực hiện nghi lễ bán khoán con cho Đức ông với mong muốn Đức ông chỉ bảo con mình bỏ game, không sa vào tệ nạn xã hội. Bán khoán có hai hình thức: một là bán khoán tạm thời (từ lúc nhỏ đến năm 13 tuổi thì chuộc lại); hai là bán khoán vĩnh viễn (tức là bán khoán đứa trẻ cả đời cho nhà chùa, không chuộc lại). Chúng tôi chưa tìm thấy được quy định về nghi lễ này trong bất kỳ văn bản Phật giáo cũng như trong các phong tục, nghi lễ truyền thống. Vì thế, chúng tôi không xác định được hình thức nào trong hai hình thức trên là chính thống. Hiệu quả, giá trị của từng hình thức bán khoán cũng không được xác định. Hình thức bán khoán vĩnh viễn chỉ xuất hiện gần đây, và nó được cho là một hình thức đơn giản của bán khoán. Bố mẹ khi đã bán khoán con trọn đời thì yên tâm rằng cả đời con của mình sẽ được chư Phật bảo hộ, từ đó họ không phải lo lắng đến lễ chuộc lại. Trước kia, người ta quan niệm rằng, nếu đứa trẻ bán khoán đến năm 13 tuổi không được chuộc lại thì vận số tương lai đứa trẻ có thể bị ảnh hưởng xấu. 2.4. Chạy đàn Chạy đàn là một hình thức cầu phả độ gia tiên. Chạy đàn có thể được thực hiện vào bất kỳ thời gian nào trong năm khi người trong gia đình có mong muốn thực hiện nghi lễ phả độ cho toàn bộ gia tiên trong gia tộc được siêu thoát về cõi giới tốt lành hơn. Thông thường, khi gia đình và dòng họ gặp chuyện xấu liên tiếp không rõ nguyên nhân, hoặc tin rằng nguyên nhân là do gia tiên chưa được siêu thoát, thì gia đình và dòng tộc được khuyến cáo nên thực hiện nghi lễ chạy đàn phả độ gia tiên. Ngoài ra, nếu trong gia tộc người mất phạm trùng tang liên tiếp, gia đình cũng thường được khuyên nên thực hiện nghi lễ chạy đàn phả độ gia tiên để cắt trùng tang. Thực tế cho thấy, đến nay vẫn chưa có cơ sở để xác định những chuyện xấu trong gia đình, dòng tộc là do gia tiên đưa lại. Đa phần dựa vào lời thầy bói, thầy cúng, hoặc dựa vào cảm nhận cá nhân của người trong gia đình. Nghi lễ chạy đàn phả độ gia tiên có thể được tiến hành tại chùa và tại nhà thờ dòng họ. Tuy nhiên, nghi lễ này thường được tổ chức tại chùa. Thời gian thực hiện nghi lễ chạy đàn phả độ gia tiên kéo dài 2-3 ngày. Do thời gian kéo dài và nghi lễ chạy đàn có chi phí khá lớn, nên nhiều trường hợp, nghi lễ chạy Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 48 đàn được thực hiện cho 2-3 gia đình một lúc. Các nghi lễ cơ bản gồm: tiếp linh, tán canh ai và tụng kinh, cúng Phật, triệu linh, khai phương phá ngục 3. Thái độ của người dân về các dịch vụ Phật giáo Dịch vụ Phật giáo từ nhiều năm nay đã thực sự đáp ứng nhu cầu tâm linh của một bộ phận người dân Việt Nam, cho dù trên thực tế còn nhiều ý kiến trái chiều về các dịch vụ này. Vào dịp đầu năm, nhiều gia đình (dù là phật tử hay không là phật tử) thực hiện lễ cầu an, cúng sao giải hạn (nếu bản thân và người trong gia đình gặp phải sao xấu) với mong muốn một năm tốt lành đến với bản thân và người trong gia đình. Một người (nữ, 32 tuổi, buôn bán nhỏ) nói: “Năm nào nhà tôi cũng làm lễ cầu an đầu năm, trong gia đình ai có sao xấu cũng đều dâng sao giải hạn ở chùa hết. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành mà” [2]. Nhiều người do cảm thấy không yên tâm khi thực hiện lễ cầu an ở một chùa nên thực hiện nghi thức cầu an và cúng sao giải hạn tại nhiều chùa. Đây là cách nghĩ của một bộ phận không nhỏ người dân. Một người (nữ, 55 tuổi, nghỉ hưu) nói: “Tôi thường đăng ký lễ cầu an mấy nơi, chùa gần nhà rồi chùa Phúc Khánh. Chùa gần vì mình thấy gần gũi hay đi còn Phúc Khánh thì thấy đông lắm nhiều người nói chùa thiêng. Mình đi chùa càng đi được nhiều chùa đầu năm càng tốt mà” [2]. Đa số phật tử Hà Nội cho rằng, việc thực hiện nghi lễ cầu an và cúng sao giải hạn tại các chùa đầu năm là cần thiết, đáp ứng nhu cầu tâm linh mong muốn có sự bình an, mạnh khoẻ, mọi việc hanh thông trong năm mới. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng tính hiệu quả của những khóa lễ cầu an và cúng sao giải hạn này không thể đo lường. Người tham dự làm theo thói quen mà thôi. Một số người tuy ghi danh vào các khóa lễ nhưng chưa bao giờ tham dự, và cũng không tin rằng một khóa lễ, đầu năm có thể giúp họ giải được vận hạn. Một người (nam 62 tuổi, nghỉ hưu) nói: “Con người sống theo nhân quả, nghiệp báo. Đã tạo nghiệp rồi không thể nào một khóa lễ đầu năm mà giải được. Muốn gặp chuyện an lành thì hãy sống tốt, đừng làm việc xấu” [2]. Về cách thức tổ chức nghi lễ cầu an, một số người mong muốn được thực hiện nghi lễ này tại chùa nổi tiếng (hay được coi là thiêng) như Phúc Khánh. Lễ cầu an tại chùa Phúc Khánh có khi lên tới hàng vạn người tham dự và để có được một chỗ ngồi dự lễ trong sân, người tham dự phải đến trước giờ lễ khoảng 5 giờ đồng hồ. Tuy nhiên, họ vẫn cảm thấy hoan hỉ khi tham dự. Số người không thể chen chân tới cổng chùa thì đứng ngay ngoài đường lễ vọng. Tuy vậy, họ cảm thấy hoan hỉ với điều kiện tham dự không mấy trang nghiêm này. Một số khác cho rằng, chùa khi đông quá thì thực hiện nghi lễ không được chu đáo. Từ đó họ lựa chọn một chùa khác với khóa lễ không quá đông người tham dự. Một người (nữ, 42 tuổi, cán bộ) nói: “Phật ở đâu cũng vậy, cốt ở thành tâm là Phật chứng, không nhất thiết phải đến chùa này mới tốt hay chùa kia thì cầu không thiêng” [2]. Nhiều chùa tổ chức khóa lễ vào nhiều ngày khác nhau trong thời gian trước rằm tháng Giêng để phục vụ phật tử được chu đáo. Ở những chùa này, sớ của từng gia đình đều được chủ lễ xướng lên. Việc nghe thấy sớ cúng tên mình, tên người trong gia đình được chủ lễ xướng lên mang lại cảm giác yên tâm cho người tham dự khóa lễ. Nguyễn Thị Minh Ngọc 49 Một người (nữ, 67 tuổi, nghỉ hưu) nói: “Tôi thích thực hiện lễ cầu an và cúng sao ở chùa này vì nhà chùa làm cẩn thận lắm, sớ từng nhà đều đọc hết. Nhiều chùa họ không có đọc sớ, mình không biết được họ có làm sớ cho mình hay bỏ sót” [2]. Với nghi lễ cầu siêu, một số người cho rằng cầu siêu đưa vong lên chùa là cần thiết. Đây là việc con cháu nên thực hiện với người thân đã mất để họ được về cõi Phật. Một người (nữ, 35 tuổi, cán bộ) nói: “Nhà tôi có người mất cũng đưa vong lên chùa. Vong nương nhờ cửa Phật được siêu thoát, con cháu cũng nhẹ nhàng”[2]. Tuy nhiên, gần đây, một số gia đình còn có con trai nối dõi đã không đưa vong lên chùa. Họ cho rằng, nhà còn người thờ cúng không nhất thiết phải đưa vong lên chùa. Thực tế, nhiều gia đình đưa vong lên chùa nhưng tuần rằm hay thậm chí ngày giỗ chỉ thực hiện lễ cúng giỗ tại nhà. Theo nhiều người, mục đích đưa vong lên chùa là để vong nương nhờ cửa Phật được siêu thoát, còn việc cúng vong tại nhà vẫn được thực hiện theo nghi lễ truyền thống. Do vậy, cho dù đã đưa vong lên chùa, họ vẫn thực hiện nghi lễ thờ cúng người đã mất tại gia đình. Một số gia đình còn tranh cãi về ý nghĩa của cầu siêu, chạy đàn phả độ gia tiên. Yếu tố dễ dẫn đến bất đồng trong gia đình khi thực hiện nghi lễ này là kinh phí. Kinh phí cho lễ chạy đàn phả độ gia tiên rất lớn, thông thường từ vài chục triệu đến vài trăm triệu đồng. Điều này là quá sức chi trả cho một số thành viên trong gia đình. Nhiều người cho rằng, đối với việc tâm linh, người đóng góp nhiều có thể được hưởng lộc nhiều hơn người khác. Do vậy, cho dù một số thành viên gia đình, dòng họ có điều kiện sẵn sàng chi trả chi phí tài chính để thực hiện khóa lễ, nhưng không được sự đồng thuận của các thành viên không đủ khả năng. Trong bối cảnh không thể có thước đo khoa học cho hoạt động tâm linh, đồng thời niềm tin vào hệ thống thầy cúng suy giảm, dịch vụ nghi lễ Phật giáo được nhiều người lựa chọn. Đây cũng là xu thế nhập thế đi sâu vào đời sống xã hội của Phật giáo Việt Nam hiện nay. Dịch vụ Phật giáo cần được nhìn nhận như một phương tiện giáo hoá để người dân có niềm tin vào đạo Phật. Bên cạnh đó, tư tưởng giải thoát của Phật giáo vẫn cần được truyền tải để giúp phật tử thoát được tam độc (tham, sân, si); thấu được lý vô thường, vô ngã; loại bỏ được vô minh; từ đó mà dứt nhân quả, nghiệp báo. 4. Kết luận Phật giáo Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập sâu rộng vào đời sống xã hội. Trong những năm qua, cùng với các tôn giáo khác, Phật giáo thực sự đáp ứng được nhu cầu tâm linh của hầu hết người dân Việt Nam. Tư tưởng Phật giáo được coi là gần gũi với người Việt và trong suốt chiều dài lịch sử, hệ tư tưởng Phật giáo lúc được coi trọng là hệ tư tưởng chủ đạo, lúc chìm lắng âm thầm trong dân gian. Đến nay, sau bao thăng trầm, những triết lý Phật giáo, lối sống Phật giáo (như quan niệm về nhân quả, thiện ác, nghiệp báo, luân hồi, giải thoát) vẫn luôn được người Việt trân trọng. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, con người chịu nhiều áp lực về mọi chiều cạnh của cuộc sống. Nhu cầu tìm đến một chỗ dựa tinh thần trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Cuộc sống đời thường đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với tôn giáo, trong đó có Phật giáo. Dịch vụ Phật giáo được hình thành trên cơ Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 50 sở đáp ứng nhu cầu của tín đồ và người dân. Hệ thống dịch vụ Phật giáo rất phong phú đa dạng, và sự phát triển của hệ thống dịch vụ này thích ứng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đáng nói là, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến nay chưa có quy định cụ thể nào về cách thức tổ chức các loại hình dịch vụ này. Do vậy, mỗi chùa thực hiện một kiểu tuỳ theo điều kiện của mình. Nó tạo nên tính không chính thống và thống nhất từ quan niệm đến nghi lễ của hệ thống dịch vụ Phật giáo. Theo chúng tôi, nếu nhận thấy đây là nhu cầu chính đáng của phật tử và người dân có tinh thần hướng đích Phật giáo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên có văn bản quy định chính thức về cách thức tổ chức nghi lễ các loại hình dịch vụ Phật giáo hiện đang được cung ứng một cách phổ biến hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Quang Hưng (2012), Xu hướng thế tục hóa tôn giáo trên thế giới hiện nay, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội. [2] Nguyễn Thị Minh Ngọc (2015), Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu cấp cơ sở “Vai trò tôn giáo trong việc xây dựng niềm tin xã hội”, Viện Xã hội học, Hà Nội. [3] Viện Thông tin khoa học xã hội (1998), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội. [4] Warner, R. S. (1993), “Work in progress toward a new paradigm for the sociological study of religion in the United States”, American Journal of Sociology, 98 (5),1044-1093. [5] Finke, R. and Stark R. (1992), The churching of America: Winners and losers in our religious economy, Rutgers University, New Brunswick, NJ.
File đính kèm:
- dich_vu_phat_giao_o_viet_nam_hien_nay.pdf