Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái nhìn từ cảm quan hiện thực
Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học Tây phương ra đời sau thế chiến thứ hai, khi con
người phải đối mặt với vô số bất an trong cuộc sống, những khủng hoảng về những chân lý, giá
trị. Từ ảnh hưởng đến đời sống, chủ nghĩa hiện sinh hiện diện trong văn học Việt Nam, đầu tiên ở
văn học đô thị miền Nam, sau Đổi mới triết thuyết này đã lan rộng trong cả nước. Trong đó, Hồ
Anh Thái - nhà văn đương đại Việt Nam, nổi bật với những sáng tác mang dấu ấn triết thuyết hiện
sinh với khoảng 30 tác phẩm được nhiều độc giả trong, ngoài nước yêu thích. Đặc biệt là tiểu thuyết
- thể loại thành công nhất của nhà văn, ở đó cho thấy một cảm quan hiện thực nhạy bén mang dấu
ấn hiện sinh với một thế giới đổ vỡ, bất an, cạn vắng tình người và các chân lý, giá trị lộn sòng.
Bằng các phương pháp: thống kê – phân loại, phân tích – tổng hợp, so sánh, thi pháp học, người
viết từ việc chỉ ra những dấu ấn căn bản của tinh thần hiện sinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, trên
cơ sở đó ghi nhận những nỗ lực cách tân của nhà văn trong bối cảnh đổi mới và hội nhập văn hóa,
văn học hiện nay cả về nội dung và hình thức.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái nhìn từ cảm quan hiện thực
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 76 DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI NHÌN TỪ CẢM QUAN HIỆN THỰC Dương Văn Trọng Trường Đại học Văn Hiến vantrong.dng13@gmail.com Ngày nhận bài: 25/10/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 Tóm tắt Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học Tây phương ra đời sau thế chiến thứ hai, khi con người phải đối mặt với vô số bất an trong cuộc sống, những khủng hoảng về những chân lý, giá trị. Từ ảnh hưởng đến đời sống, chủ nghĩa hiện sinh hiện diện trong văn học Việt Nam, đầu tiên ở văn học đô thị miền Nam, sau Đổi mới triết thuyết này đã lan rộng trong cả nước. Trong đó, Hồ Anh Thái - nhà văn đương đại Việt Nam, nổi bật với những sáng tác mang dấu ấn triết thuyết hiện sinh với khoảng 30 tác phẩm được nhiều độc giả trong, ngoài nước yêu thích. Đặc biệt là tiểu thuyết - thể loại thành công nhất của nhà văn, ở đó cho thấy một cảm quan hiện thực nhạy bén mang dấu ấn hiện sinh với một thế giới đổ vỡ, bất an, cạn vắng tình người và các chân lý, giá trị lộn sòng. Bằng các phương pháp: thống kê – phân loại, phân tích – tổng hợp, so sánh, thi pháp học, người viết từ việc chỉ ra những dấu ấn căn bản của tinh thần hiện sinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, trên cơ sở đó ghi nhận những nỗ lực cách tân của nhà văn trong bối cảnh đổi mới và hội nhập văn hóa, văn học hiện nay cả về nội dung và hình thức. Từ khóa: hiện sinh, cảm quan hiện thực, tiểu thuyết, Hồ Anh Thái The existential attitude in the Ho Anh Thai novels seen from a realistic perception Abstract Existentialism is Western philosophical movement that came into being after the Second World War when people faced countless insecurity in life, the crisis of the truths, values. It affects life, which is present in Vietnamese literature, first in the southern urban literature, then the renewal of this philosophy has spread throughout the country. Ho Anh Thai is a famous contemporary Vietnamese writer with about 30 works which have been known by many local and international readers. Especially, novel is the most successful genre of him showing a keen sense of reality with a world of broken, unsafe, exhausted humanity and truths, conflicting values. Statistics - classifying, analyzing – synthesizing, comparing, form, studying prosody method are used to show the basic stamps of existential spirit in Ho Anh Thai novel. On that basis, innovative efforts of writers are acknowledged in innovation and cultural integration, and current literature both in content and form. Keywords: Existentialism, Imprint of existence, Novel, Ho Anh Thai Đặt vấn đề Căn nguyên của mọi khoa học là phục vụ đời sống, dù khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội cũng vậy. Triết học hiện sinh giúp nhiều người có thể giải mã hành trình nhân sinh, từ đó có hướng đi trước những suy tư, băn khoăn, có khi là khủng hoảng về chân lý, về cuộc sống trước thực tại. Có thể nói, tác phẩm thành công hay không, phải do cảm quan hiện thực như thế nào, và trong xu thế phát triển của xã hội cũng như văn học, việc vận dụng dấu ấn hiện sinh thông qua một cảm quan hiện thực đặc sắc đã tạo nên TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 77 nhiều kiệt tác văn học đương đại. Trước đó, không ít nhà nghiên cứu đã dành sự quan tâm đặc biệt đến “hiện tượng Hồ Anh Thái” trong văn học đương đại, có thể kể đến tác giả Bùi Thanh Truyền, Lê Biên Thùy (2009) với công trình Những cách tân quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái (2009); tác giả Nguyễn Đăng Điệp (2013) với công trình Hồ Anh Thái - người mê chơi cấu trúc (2013); Ngoài ra, chủ nghĩa hiện sinh từ lâu cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước quan tâm như: Trần Thái Đỉnh (1966) với công trình Triết học hiện sinh; Huỳnh Như Phương (2008) với công trình Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết);... Từ việc thống kê, khảo sát công trình nghiên cứu của những người đi trước về triết học hiện sinh cũng như những biểu hiện của tư tưởng hiện sinh trong văn học, chúng tôi nhận thấy đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái từ cảm quan hiện thực. Cho nên, việc nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện, hệ thống lại những dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái từ cảm quan hiện thực là rất cần thiết. Đề tài được triển khai theo hướng khảo sát những biểu hiện tiếp thu tinh thần hiện sinh qua việc mô tả và luận giải về cảm quan hiện thực hiện sinh trong những tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Hồ Anh Thái là nhà văn để lại nhiều dấu ấn trong lĩnh vực sáng tác tiểu thuyết đương đại với một cảm quan hiện thực sắc bén. Nhờ đó mà mỗi cuốn tiểu thuyết của nhà văn đã khẳng định những bước tiến của mình trên con đường sáng tạo và cây bút ấy hứa hẹn sẽ còn sáng tác thêm nhiều tác phẩm cho văn học Việt Nam đương đại. Nhà văn Hồ Anh Thái và nỗ lực cảm quan hiện thực - một phương diện quan trọng mang dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết của tác giả Với sở trường về tiểu thuyết và truyện ngắn, Hồ Anh Thái đã đạt được nhiều thành tựu, và đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhà văn sáng tác trong nhiều lĩnh vực: truyện ngắn, tiểu thuyết, chân dung văn học, du ký, tiểu luận và biên khảo. Tiểu thuyết chiếm vị trí ưu thế trong sự nghiệp sáng tác Hồ Anh Thái cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhà văn gửi gắm những thông điệp thẩm mỹ sâu sắc về nhân sinh, cuộc đời, với những bước tiến về quan niệm nghệ thuật, tư duy nghệ thuật trong từng tác phẩm. Tiểu thuyết của ông thay đổi theo từng bước ngoặt của đời sống xã hội, khai thác sâu những bề chìm của cuộc sống: từ chiến tranh biên giới, bi kịch của con người thời hậu chiến, lật lại để chiêm nghiệm những vấn đề của quá khứ và cả những vấn đề mới nảy sinh đặt ra cho con người trong cuộc sống đương đại. Viết đề tài cuộc sống thời hậu c ... ng thú tính, bầy đàn, bộ lạc, Cuộc sống với họ chỉ là một chuỗi ngày dài tụ tập đua xe, rồi chém giết lẫn nhau, tìm đĩ chơi điếm, đua đòi nhau. Họ sống mà không biết giá trị của cuộc sống, giá trị của chính bản thân họ. “Rồi sẽ đến lúc người ta không hình dung nổi chuyện những năm đầu thập niên thứ chín của thể kỷ hai mươi có một lũ thanh niên choai choai phóng xe máy như mất trí trên những đường phố hẹp đủ mọi thành phần xe cộ. Đường hẹp thì mặc đường hẹp, đây là thời đại của tốc độ. Ăn uống thì có mọi thứ ăn liền, học hành và công việc thì đều có lối đi tắt, vui chơi giải trí đều có thứ tàu nhanh, yêu thì cũng là thứ tình yêu tốc độ, đã được đảm bảo bằng tự do cá nhân và bao cao su OK Nhà Vô Địch cùng thuốc tránh thai Choice” (Hồ Anh Thái, 2013: tr. 83). Cuộc sống không còn chỗ cho tình người. Phải chăng thế giới đó không còn cán cân công lý, không còn chuẩn mực đạo đức để cảnh tỉnh họ, để kéo họ về với cuộc sống hay bước đường cùng là có thể trừng phạt họ. Qua một số tiểu thuyết trên của Hồ Anh Thái, có thể nhận thấy một thế giới cạn vắng tình người hiện ra đậm đặc, thế giới đó đã đẩy con người phải đối diện với những dự cảm về cuộc sống không ý nghĩa mà chỉ như cỏ cây hoa lá. Tái hiện một hiện thực mà cái cần có nhất là tình người thì lại thiếu vắng, thay vào đó chỉ là sự ích kỷ, vụ lợi, toan tính nhà văn thể hiện cảm quan về một hiện thực mang màu sắc phi lý in dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh. Cuộc sống lộn sòng các chân giá trị Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái hiện lên với dấu ấn hiện sinh không chỉ qua cảm quan về một thế giới đổ vỡ, bất an, của một cõi đời ít tình người mà nó còn hiện lên với một cuộc sống gấp vội, lộn sòng các chân giá trị. Nếu trước đó, nhiều nhà văn đương đại như: Nguyễn Bình Phương với tiểu thuyết Ngồi, Thoạt kì thủy; Nguyễn Danh Lam với tiểu thuyết Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc, Cuộc đời ngoài cửa; đã đem lại cho độc giả ấn tượng về một hiện thực đầy rẫy sự phi lý, bất trắc, vô nghĩa, tẻ nhạt. Thì đến với tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, người đọc lại có cái nhìn sâu sắc hơn, đó là một thế giới mà các chân lý, giá trị gần như đảo lộn hoàn toàn. Cụ thể, đó là sự xen cài của cái ác và cái thiện, cái cao cả và cái thấp hèn, cái sang trọng đi liền với cái nhếch nhác, cái trong suốt xen lẫn cái phàm tục Bởi lẽ, thời hiện đại là thời kỳ xuất hiện nhiều biến động. Con người bị cuốn vào dòng xoáy của những biến cố, xô đẩy không ngừng. Và Hồ Anh Thái đã thành công khi đã vẽ lên một hiện thực như đang hiện ra, phơi ra trước mắt độc giả. Tái hiện một hiện thực với cuộc sống gấp vội, lộn sòng các chân giá trị trong các sáng tác của mình, Hồ Anh Thái trước hết khắc họa một đời sống lộn sòng các giá trị văn hóa của xã hội. Trong SBC là săn bắt chuột, vị Đại Gia giàu có luôn tích cực làm từ thiện là thế, nhưng thực chất vị này giàu có là nhờ buôn lậu, rồi dùng tiền lời từ buôn lậu đầu cơ vào bất động sản. Vậy mà được cả xã hội tôn vinh như một người có tâm hướng thiện, giàu có nhưng biết giúp đỡ mọi người. Hay ông Cốp nhờ đồng tiền từ phá rừng, ông đã dùng nó để mua chức, rồi làm giàu cho bản thân mình. Vậy mà vẫn được cả xã hội trọng vọng như một vị thanh quan thành đạt. Hay hình ảnh cô nhà Báo từ thời sinh viên đã biết chạy mánh, đến khi đi làm thì không lo làm báo mà mãi chú tâm vào việc kinh doanh hàng hóa phục vụ vệ sinh cho đồng nghiệp. Hay chú Thơ, thì làm thơ lăng nhăng nhạt nhẽo nhưng lại quảng cáo là thơ bất hủ với thời gian. Hay vị giáo sư đáng kính trước mọi người là thế nhưng lại luôn gạ tình, vòi tiền học trò, Trong Cõi người rung chuông tận thế, ta đã bắt gặp một hiện thực mà các giá trị bị đảo lộn, thực hư hòa vào nhau như thế. Thông qua cái nhìn “suồng sã” của tư duy tiểu thuyết, nhà văn TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 85 đối thoại với nhân vật, với độc giả về những giá trị của cuộc sống, về những vấn đề đã và đang nảy sinh trong xã hội hiện đại. Câu chuyện mang màu sắc phi thực, nhưng thông qua đó nhà văn đã khái quát lên những thực tế cuộc sống mà các giá trị chân lý không tồn tại. Trộn vào trong cái phi thực ấy là những cái thực tàn nhẫn của cuộc sống hiện đại. Chẳng hạn Thế, có được địa vị cao, được mọi người tôn trọng nhưng qua ngòi bút của Hồ Anh Thái ta thấy ở y là sức mạnh của kẻ lắm tiền và quyền lực như chạy chức, chạy trường, thao túng điều khiển mọi việc. Về hưu rồi nhưng Thế vẫn đủ sức thao túng: “Đêm ấy anh Thế gọi điện vào thu xếp hết với bệnh viện, với hàng không. Con cháu của anh khi chết vẫn còn có đặc quyền. Hàng không dù không muốn chở xác chết thì vẫn phải chở, hai xác chết trong vòng một tuần” (Hồ Anh Thái, 2013: tr. 98). Trong khi những người bình thường khác thì “Vậy là những bà cô ông mãnh chết đi rồi vẫn còn chia ngôi thứ như khi còn sống. Kẻ vẫn được đặc quyền. Kẻ thì hoàn toàn không” (Hồ Anh Thái, 2013: tr. 98). Sự tỉnh táo trong phản ánh hiện thực có thể làm chúng ta cảm thấy đau lòng nhưng cũng không thể phủ nhận thái độ trung thực, dũng cảm của nhà văn trước cuộc đời. Tác giả mạnh dạn lên án cái ác để con người tỉnh ngộ và đi theo cái thiện. Đến Mười lẻ một đêm, nhà văn vẫn nhìn cuộc sống, con người mà ở đó các chân giá trị bị lộn sòng. Thế giới đó hiện ra với vẻ hài hước, châm biếm. Với hoạ sĩ Chuối Hột, xoay quanh nhân vật này biết bao giá trị đã bị đảo lộn. Đầu tiên đó là sở thích cởi truồng từ bé, lớn rồi cậu này vẫn duy trì sở thích này, đến mức mọi người sống xung quanh phải xấu hổ thay cho một chàng thanh niên. Vậy mà trong con mắt của xã hội rộng lớn kia, đã biết sở thích quái dị đó thành bậc thầy của yoga “Thấy họa sĩ cởi hết mở hết trồng cây chuối hột. Họ cũng cởi hết mở hết trồng chuối theo. Đến với nhau xuất phát tình yêu hội họa. Bền chặt với nhau nhờ tình yêu yôga văn minh phương Đông” (Hồ Anh Thái, 2006: tr. 36). Lúc đầu chỉ là tình cờ vậy, hiểu nhầm vậy, thế mà cuối cùng vị họa sĩ cũng đã chớp lấy thời cơ đó “mở lớp yôga chỉ có dạy cho Tây, lại chỉ có dạy cho Tây nào có thể làm ăn hội họa” (Hồ Anh Thái, 2006: tr.36). Cái sở thích quái dị đó còn bị đánh tráo với một cách sống khá thịnh hành ở Tây phương đó là tắm nuy. “Gã cởi hết ra mở hết ra. Nằm phơi hết ra trên bãi cát. Một đồn mười mười đồn trăm, bãi biển này có khu tắm nuy. Tắm truồng. Ta đồn với ta rồi lan sang Tây, Tây lại đồn với Tây. Sang ngày thứ hai gã nằm phơi công cụ được một lúc thì có mấy Tây kéo sang, cũng thản nhiên nằm nuy hết cả ra. Một giờ sau thì thêm cả Tây cả ta kéo đến” (Hồ Anh Thái, 2006: tr. 21). Phải mấy ngày sau, do lượng người rủ nhau đi tắm nuy càng lúc càng đông, chính quyền mới hay, rồi mới tung quân đi dẹp. Một hành động được xem là quái dị, một họa sĩ được mọi người đặt cho biệt danh “chim để ngoài quần” vậy mà nó được xem như là một nét văn hóa của phương Tây vừa được du nhập vào Việt Nam. Cũng thông qua chân dung nhân vật họa sĩ, một giá trị bị lộn sòng được nhà văn vẽ lên rõ nét đó là một họa sĩ, một nhà lý luận về hội họa nhưng gã lại không hề biết vẽ. Vậy mà biết bao họa sĩ khác chỉ mong nhận được những lời khen chê của chàng “Không vẽ mà còn hơn cả vẽ, giới họa sĩ cứ phải ngong ngóng xem chàng sắp đánh bóng ai sắp giết ai. Người được chàng thổi tất nhiên là nổi danh. Bị chàng gí cũng nổi danh nốt. Một đời làm hội họa mà không được chàng nhắc đến một dòng thì chỉ là rác, có quyền hận đời. Cái đời bất tài” (Hồ Anh Thái, 2006: tr. 21). Giá trị của một tác phẩm hội họa lúc này đã bị đảo lộn, liệu một người không hề biết gì về hội họa, nhưng những lời nói của anh ta liên quan đến giá trị của tác phẩm hội họa thì thật đáng lo, đáng sợ. Còn nhiều bức chân dung biếm họa vẽ lên một thế giới lộn sòng các chân giá trị, như vị “giáo sư tiến sĩ viện trưởng” người chồng thứ năm của người đàn bà. Nhưng điều trái khoáy ở đây, vị này nguyên là kỹ sư hóa chất vậy mà sau đó được quy hoạch làm cán bộ nguồn sang quản lý khoa học xã hội. Giáo sư bảo vệ luận án tiến sĩ ở Đức nhưng lại không hề biết tiếng Đức. Đặc biệt hơn, mặc dù là một người có vị trí cao quý trong xã hội, một người thầy của những thạc sĩ, tiến sĩ vậy mà hiện lên không phải là tình thầy VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 86 trò, mà là tình nhân. “Dưới tay chàng bao nhiêu luận thạc sĩ tiến sĩ nội hóa bảo vệ thành công. Bao nhiêu nữ tiến sĩ sinh ra một đề tài là sản ra một đứa con. Con cái của các nữ tiến sĩ này đứa nào trông cũng giống đứa nào. Thành ra một quy ước ngầm là con cái các nữ tiến sĩ không được yêu nhau lấy nhau. Anh em chung một dòng máu như thế có mà loạn” (Hồ Anh Thái, 2006: tr. 88). Còn gì lộn sòng hơn nữa, khi các giá trị giữa danh nghĩa và thực tiễn khác nhau một trời một vực. Trong Tranh Van Gogh mua để đốt, chân dung bác sĩ Gachet là bức tranh nhỏ, Hồ Anh Thái muốn bàn đến khung cảnh to hơn: bức tranh cuộc đời. Xoay quanh chuỗi sự việc mua tranh - đốt tranh - cứu tranh, những mảnh đời cứ thế hiện lên như những mảnh ghép khác nhau của bức tranh hàng trăm, hàng nghìn mảnh. Anh giám đốc truyền thông xuất thân từ vị trí tổng biên tập của một tờ báo lớn, giờ chuyển sang làm cho tập đoàn to nhất nhì Việt Nam. Tâm trí anh vẫn luôn dằn vặt vì không cứu được người trong cơn thác lũ, giờ đây anh quyết tâm cứu bức tranh sắp bị đốt thành tro bụi. Còn hành động thương cảm của ông Cốp là giả vậy mà được đăng báo với một người có tấm lòng rộng lớn lại là thật, và nó được đặt trước cả những giọt nước mắt của anh trưởng phòng tòa soạn, khi anh xả thân quên mình để cứu người nhưng khi đối mặt với cái chết, sau khi được cứu và tỉnh dậy, anh đã khóc, tiếng khóc xé lòng, tiếng khóc vì mình đã không thể cứu được một mạng người. “Chỉ ngay ngày hôm sau, một phóng viên báo bạn đã có luôn bài về giọt nước mắt trong ngày bão lụt. Đầu tiên là kể chuyện ông Cốp đưa khăn chấm giọt nước mắt khi đến thăm gia đình ngồi trên mái ngói. Sau đó trận khóc như mưa như bão của một tổng biên tập, người đã lao mình xuống cứu dân mà không cứu được. Khóc như mưa như bão, bài báo lặp lại câu này, những hai lần” (Hồ Anh Thái, 2018: tr. 109). Tóm lại, qua một số tiểu thuyết trên của Hồ Anh Thái, một thế giới mà chân lý, giá trị bị đảo lộn hiện lên qua cái nhìn đa chiều. Nhà văn đã soi chiếu những chân lý, giá trị đó ở nhiều góc cạnh, nhiều bình diện, đặt nó ở nhiều thời gian, không gian khác nhau để khám phá những mảng khuất lấp. Nhờ đó mà Hồ Anh Thái đã xây dựng thành công nhiều chân dung hiện thực trong tiểu thuyết hiện lên bề bộn, nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị tốt xấu đan cài vào nhau. Vẽ lên một hiện thực đã đẩy con người vào hành trình đi tìm chân lý, giá trị của cuộc sống – một trong những nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa hiện sinh, nhà văn đã thể hiện cảm quan về một hiện thực in đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh. Kết luận Những chuyện lớn nhỏ ấy được đan cài vào nhau tạo nên hiện thực nhếch nhác, thảm hại như một tấm gương lồi mà nhà văn đưa ra để khi bước vào đó ta sẽ thấy những hình hài méo mó, dị dạng, tức cười. Những hình ảnh được phóng to hết cỡ khó có thể nhận ra một người cụ thể nhưng soi kỹ thì ai cũng thấy rằng hình như có một phần của mình trong đó. Hồ Anh Thái viết để tái sinh đối tượng, viết với tinh thần dựng xây, với niềm tin. Hướng ngòi bút vào đối tượng thị dân, nhà văn đã phản ánh một hiện thực đa dạng, phong phú. Hiện thực ấy không chỉ là cái nhìn thấy được mà còn là cả một đời sống bên trong tâm hồn con người khó nắm bắt. Bên cạnh đó, hiện thực còn hiện lên trong tác phẩm của tác giả độc đáo như một nhà cơi mà trong đó mỗi con người, mỗi cuộc đời là những mảnh vỡ, những xung lực khác nhau. Hiện thực đó lộ ra qua cái nhìn nhiều chiều, sâu sắc của nhà văn. Nhiều trạng thái đời sống trong tiểu thuyết đã được tác giả xây dựng theo nguyên tắc hài hước và lật tẩy. Do đó, những cái tầm thường, trần tục của đời sống con người đã được nhà văn phơi bày trên trang giấy một cách tự nhiên, sống động. Với việc chỉ ra dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh nhìn từ cảm quan hiện thực trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái hy vọng đã khẳng định được đóng góp độc đáo của nhà văn Hồ Anh Thái vào dòng chảy liền mạch của khuynh hướng hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ sau Đổi mới. Qua đó, công trình cũng góp phần mở ra một hướng tiếp cận mới với các sáng tác của nhà văn, đồng thời cũng khẳng định vị thế đặc biệt của ông trên văn đàn. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 87 Tài liệu tham khảo Hà Minh Đức (2002). Lý luận văn học. Hà Nội, Nxb Giáo dục. Trần Thái Đỉnh (2015). Triết học hiện sinh. Hà Nội, Nxb Văn học, tr. 15-79. Nguyễn Đăng Điệp (2013). Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc - Cõi người rung chuông tận thế. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr. 384-405. Đỗ Đức Hiểu (1978). Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa. Hà Nội, Nxb Văn học. Huỳnh Như Phương (2008). Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết). Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 9, tr. 91-92. Hồ Anh Thái (2006). Mười lẻ một đêm. Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, tr. 21-88. Hồ Anh Thái (2013). Cõi người rung chuông tận thế. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr. 83-243. Hồ Anh Thái (2015a). Người đàn bà trên đảo. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. Hồ Anh Thái (2015b). Người và xe chạy dưới ánh trăng. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr.99. Hồ Anh Thái (2015c). Trong sương hồng hiện ra. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, tr. 7. Hồ Anh Thái (2016). SBC là săn bắt chuột. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr. 219-249. Hồ Anh Thái (2018). Tranh Van Gogh mua để đốt. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr. 102-109. Bùi Thanh Truyền, Lê Biên Thuỳ (2009). Những cách tân quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái. Tạp chí khoa học Đại học Huế, 17, tr. 51.
File đính kèm:
- dau_an_hien_sinh_trong_tieu_thuyet_ho_anh_thai_nhin_tu_cam_q.pdf