Đánh giá tăng trưởng và chất lượng cá tra (pangasianodon hypophthalmus) nuôi thương phẩm trong hệ thống tuần hoàn ngoài trời quy mô pilot
Trong những năm gần đây, công nghệ nuôi cá tra trong ao truyền thống đã và đang làm ô nhiễm
môi trường nước thủy vực. Nghề nuôi cá tra cần có một công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng
và hạn chế ô nhiễm môi trường. Chính vì thế, hệ thống tuần hoàn ngoài trời quy mô pilot đã được
nghiên cứu với mật độ nuôi cao, nó có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và chất lượng cá. Mục
tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá sự tăng trưởng và chất lượng cá tra trong hệ thống tuần
hoàn và so sánh với các ao nuôi truyền thống. Hệ thống nuôi cá tuần hoàn ngoài trời bao gồm một
ao cá diện tích 196m2, một ao lắng 70m2, một hệ thống lọc sinh học 25 m3. Diện tích tổng cộng của
hệ thống tuần hoàn thí nghiệm là 226m2. Kết quả cho thấy năng suất nuôi đạt 88,2kg/m2, tỷ lệ sống
81,1%, hệ số chuyển đổi thức ăn 1,6, cá trong quần đàn đạt thịt trắng 100%, tỷ lệ thu hồi phi lê thô
1,95 và cá thương phẩm không nhiễm thuốc kháng sinh và hóa chất. Cá tra được nuôi trong hệ thống
tuần hoàn này thể hiện mùi làm giảm giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, đây là công nghệ nuôi tiên tiến
sẽ được nghiên cứu sâu hơn và phát triển ứng dụng ở quy mô lớn tại Việt Nam trong tương lai gần
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tăng trưởng và chất lượng cá tra (pangasianodon hypophthalmus) nuôi thương phẩm trong hệ thống tuần hoàn ngoài trời quy mô pilot
37TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 1 Phòng Sinh học Thực Nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. *Email: huynhnguyen02@gmail.com 2 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. ĐÁNH GIÁ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) NUÔI THƯƠNG PHẨM TRONG HỆ THỐNG TUẦN HOÀN NGOÀI TRỜI QUY MÔ PILOT Nguyễn Văn Huỳnh1*, Nguyễn Nhứt1, Nguyễn Hồng Quân1, Lê Ngọc Hạnh1, Nguyễn Văn Hảo2 TÓM TẮT Trong những năm gần đây, công nghệ nuôi cá tra trong ao truyền thống đã và đang làm ô nhiễm môi trường nước thủy vực. Nghề nuôi cá tra cần có một công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng và hạn chế ô nhiễm môi trường. Chính vì thế, hệ thống tuần hoàn ngoài trời quy mô pilot đã được nghiên cứu với mật độ nuôi cao, nó có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và chất lượng cá. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá sự tăng trưởng và chất lượng cá tra trong hệ thống tuần hoàn và so sánh với các ao nuôi truyền thống. Hệ thống nuôi cá tuần hoàn ngoài trời bao gồm một ao cá diện tích 196m2, một ao lắng 70m2, một hệ thống lọc sinh học 25 m3. Diện tích tổng cộng của hệ thống tuần hoàn thí nghiệm là 226m2. Kết quả cho thấy năng suất nuôi đạt 88,2kg/m2, tỷ lệ sống 81,1%, hệ số chuyển đổi thức ăn 1,6, cá trong quần đàn đạt thịt trắng 100%, tỷ lệ thu hồi phi lê thô 1,95 và cá thương phẩm không nhiễm thuốc kháng sinh và hóa chất. Cá tra được nuôi trong hệ thống tuần hoàn này thể hiện mùi làm giảm giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, đây là công nghệ nuôi tiên tiến sẽ được nghiên cứu sâu hơn và phát triển ứng dụng ở quy mô lớn tại Việt Nam trong tương lai gần. Từ khóa: cá tra, tuần hoàn, tăng trưởng, FCR, phi lê. I. MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá tra đã và đang phát triển, kim ngạch xuất khẩu cá tra mang lại cho Việt Nam hàng tỷ đô la. Diện tích nuôi 5.400 ha và tổng sản lượng 1.200.000 tấn (Phan Thanh Lâm và ctv., 2009). Bên cạnh những thành tựu đó, nghề nuôi cá tra cũng gặp nhiều khó khăn như: thị trường không ổn định, quy trình nuôi truyền thống không mang tính bền vững với môi trường xung quanh. Điều này dẫn đến sản phẩm thịt cá chưa hấp dẫn người tiêu dùng, sự ô nhiễm môi trường nước tăng nhanh và bệnh dịch xảy ra với tần suất cao 15 bệnh/hội chứng xảy ra trong chu kỳ nuôi (Phan Thanh Lam và ctv., 2009). Tính không bền vững về môi trường của công nghệ nuôi hiện nay ở ĐBSCL là việc thay nước khá lớn tạo ra một hệ thống hở. Hầu hết các chất thải của ao nuôi cá tra không được xử lý trước khi thải trực tiếp ra thủy vực xung quanh và làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề nuôi cá tra, đến sức khỏe cộng đồng. Theo Bosma và ctv., (2008) và Phan Thanh Lâm và ctv., (2009), lượng nước sử dụng để sản xuất 1kg cá tra là 2.500 – 4.500L, lượng chất thải thải ra môi trường có hàm lượng nitrogen và phosphorus khá cao. Bên cạnh vấn đề gây ô nhiễm, sự thay nước hàng ngày với khối lượng lớn là cơ hội cho lây lan mầm bệnh theo đường truyền ngang bùng nổ dịch bệnh toàn khu vực. Trước bối cảnh khó khăn đó, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đã tìm kiếm một giải pháp nuôi cá tra bền vững, an toàn sinh học 38 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 bằng tiếp cận công nghệ nuôi tuần hoàn (RAS) ít thay nước cho cá tra nuôi thương phẩm trên đề tài khoa học nuôi thử nghiệm mô hình RAS quy mô pilot. Tuy nhiên, việc áp dụng RAS cho cá tra phải mang lại hai lợi ích là giảm thiểu ô nhiễm môi trường và chất lượng cá đạt chỉ tiêu xuất khẩu. Vì vậy, nghiên cứu này tập trung đánh giá tăng trưởng và chất lượng cá tra nuôi thương phẩm bằng hệ thống tuần hoàn. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Nguyên vật liệu Cá tra giai đoạn giống có kích cỡ 16,1 g và 34-46 g được thả nuôi trong hệ thống RAS và ao nuôi tương ứng. Thức ăn thương mại của công ty Vĩnh Hoàn có protein 28-30 % sử dụng cho ao nuôi ở Đồng Tháp và công ty Green Feed protein 28-30% sử dụng cho ao nuôi Vĩnh Long. Hệ thống nuôi cá thương phẩm tuần hoàn thiết kế theo đề tài “Nghiên cứu xây dựng công nghệ nuôi cá tra thâm canh bằng hệ thống tuần hoàn đảm bảo an toàn sinh học và không gây ô nhiễm môi trường”. Hệ thống nuôi ao đất tại Vĩnh Long và Đồng Tháp. 2.2. Bố trí thí nghiệm Hệ thống tuần hoàn pilot ngoài trời Cấu tạo hệ thống: hệ thống tuần hoàn bao gồm một ao nuôi xi măng hình vuông diện tích 196 m2, một bể lắng xử lý chất thải rắn diện tích 70 m2 và hệ thống lọc sinh học sử dụng giá thể bám vi sinh diện tích đặc hiệu 800 m2/ m3, thể tích lồng sinh học 25 m3, vật thể bám vi sinh chiếm 60% thể tích lồng sinh học (14 m3) được lắp đặt giữa ao và hai góc ao (hình 1). Hệ thống bơm cung cấp khí và bơm phân thải bằng airlift. Thời gian lưu của hệ thống lọc sinh học HRT=11 phút. Hình 1. Thiết kế hệ thống tuần hoàn cho ao nuôi cá tra thương phẩm quy mô pilot Nguyên lý hoạt động hệ thống: nước từ ao nuôi chứa chất thải hòa tan và chất thải rắn, hệ thống airlift cung cấp oxy cho ao tạo dòng chảy li tâm gom chất thải rắn giữa ao vào hố thu phân có đường kính 1 m, sâu 1 m. Phân cá được airlift bơm sang hệ thống ao lắng với vận tốc 16 L/s, nơi đây diễn ra lắng chất thải và thực hiện quá trình khử nitrate sử dụng nguồn carbon hữu cơ từ phân cá. Nước được lắng xử lý nitrate bơm trở lại ao nuôi. Trong nội tại ao nuôi chất thải lỏng được hệ thống lọc sinh học hoạt động 24 giờ/ngày khử ammonia và nitrite trong nước làm sạch nước. Phương pháp nuôi: cá tra giống nuôi trong hệ thống tuần hoàn với mật độ 140 con/m2 có khối lượng trung bình là 16,1 g/con. Thời gian nuôi 210 ngày. Sử dụng thức ăn thương mại của công ty Dehues với hàm lượng protein 28-30%. Lượng cho ăn theo nhu cầu của cá, sử dụng phương pháp cho ăn bằng tay 4 lần/ngày. Chế độ và tỷ lệ thay nước phù thuộc vào chất lượng nước ao tại thời điểm. Vị trí thự ... ong khi đó ao nuôi truyền thống sử dụng mực nước thông thường 5 m tương đương với năng suất (5,3 kg/m3). Qua thực nghiệm thấy rằng phương thức nuôi cá bằng hệ thống tuần hoàn không cần phải sử dụng mực nước sâu như ao truyền thống nhưng vẫn đáp ứng được năng suất nuôi tối đa. Cụ thể trong hệ thống nuôi RAS thực nghiệm trong nhà cho cá tra thương phẩm (Nguyễn Nhứt và ctv., 2014) sử dụng mực nước nuôi thấp 0,8m cho năng suất 199 kg/m3. Quan niệm người nuôi cá tra với mực nước sâu để tăng năng suất tối ưu chỉ đúng trong trường hợp với ao nuôi truyền thống, trong khi đó cá tra thương phẩm chủ yếu phân tầng sống từ độ sâu 2 m nước trở lên tính từ đáy ao chiếm hơn 80% được nghiên cứu bởi Lefevre và ctv., (2011). Có nghĩa 2-3 m nước gần đáy ao cá không sử dụng không gian để sống và sinh trưởng nhưng xây dựng ao nuôi chi phí cao hơn và ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm khi dinh dưỡng trong nước ao nuôi thẩm thấu sâu xuống các tầng nước ngầm. Mặc dù mật độ nuôi trong hệ thống RAS (140 con/m2) cao hơn khá nhiều so với hệ thống nuôi cá tra thương phẩm trong ao (27-33 con/ m2). Nhưng tốc độ tăng trưởng đặc trưng của cá tra trong hệ thống RAS cao hơn so với ao nuôi từ 0,17-0,32%/con/ngày. Sự khác biệt này chủ yếu có thể là do tần suất xuất hiện bệnh của cá trong ao nuôi cao hơn đồng nghĩa với thời gian chữa trị, giảm thức ăn kéo dài làm tốc độ tăng trưởng giảm. Hơn thế nữa, việc sử dụng hóa chất và kháng sinh trong quá trình nuôi tác động đến sự sinh trưởng của cá tra trong ao nuôi truyền thống. Qua số liệu ghi nhận cho thấy tỷ lệ cá chết 20% trong hệ thống RAS ở thời gian 1 tháng đầu kể từ ngày thả giống cá có dấu hiệu nhiễm bệnh xuất huyết, tỷ lệ chết 25 ngày đầu từ 0,2- 0,5%/ngày không đáng kể nên việc can thiệp giải pháp chữa trị không được thực hiện vì đa số cá bị xây xát trong quá trình vận chuyển do kéo lưới tạo nên. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả tỷ lệ chết của các ao nuôi truyền thống ở Vĩnh Long và Đồng Tháp. Ao nuôi bằng hệ thống RAS có tỷ lệ chết kéo dài và bùng phát 44 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 mạnh ở ngày 30-37 của chu kỳ nuôi khoảng 5-8% bệnh có dấu hiệu lây lan mạnh trong hệ thống, giải pháp can thiệp chữa trị cho cá bằng sử dụng kháng sinh oxyteramycine liều lượng trộn vào thức ăn 10g/kg suốt 7 ngày tỷ lệ chết giảm rõ rệt bằng 0%. Nguyên nhân này được khẳng định giống như hiện tượng cá chết trong 3 tháng nuôi đầu tiên sau khi thả giống ở các ao nuôi thương phẩm theo phương pháp truyền thống được báo cáo bởi Phan Thanh Lam và ctv., (2009) cho tỷ lệ chết đến 30%. Phải chăng sự nhiễm bệnh của đàn cá giống tại cơ sở sản xuất giống cùng với tác nhân vận chuyển đường dài và phương pháp đánh bắt cá giống thật sự không bảo đảm dẫn đến xuất hiện bệnh. Trong khi đó cá thí nghiệm trong mô hình này đã chủ động loại mầm bệnh ký sinh trùng ngoại và nội, không quan tâm đến mầm bệnh do vi khuẩn là chưa hoàn toàn hợp lý dẫn đến bệnh vẫn còn xảy ra. Trong hệ thống RAS, sau chu kỳ nuôi 40 ngày hầu như cá chết không đáng kể và kéo dài đến kết thúc vụ nuôi. Tuy nhiên, ở các ao nuôi truyền thống tại Vĩnh Long và Đồng Tháp thì tỷ lệ chết vẫn còn tiếp tục tăng mạnh vì trong thời gian nuôi có xuất hiện bệnh thêm 2-3 đợt. Điều này cho thấy việc xử lý sạch mầm bệnh cho cá giống trước khi đưa vào nuôi trong hệ thống tuần hoàn là một khâu rất quan trọng giúp tăng tỷ lệ sống của đàn cá nuôi. Hơn nữa, hệ thống tuần hoàn có ưu điểm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh cho đàn cá nuôi so với ao nuôi truyền thống trong quá trình nuôi. Sự biến động của FCR suốt chu kỳ nuôi của hệ thống RAS và ao nuôi thông thường của Vĩnh Long và Đồng Tháp. Nhìn chung, FCR của cá nuôi tăng dần theo chu kỳ nuôi. Hệ thống RAS, trong chu kỳ nuôi đến kích cỡ cá đạt trọng lượng 830g/con FCR được xác định là 1,4 trước khi thực hiện giải pháp cho ăn ít và bỏ đói để khử mùi hôi bùn và rong của thịt cá. Thí nghiệm được thử nghiệm kéo dài trong trình trạng thức ăn hạn chế và bỏ đói cá, cá không thể phát triển nếu thiếu năng lượng cho cá hoạt động vì thế cá giảm trọng lượng trong thời gian xử lý và làm tăng FCR ở thời gian cuối chu kỳ nuôi đạt 1,6. Nếu như trong quá trình thực nghiệm đã có các giải pháp chủ động khử mùi hôi bùn của cá có lẽ hệ số FCR của cá đạt khoảng 1,4 và rất có ý nghĩa trong sản xuất, sẽ tiết kiệm 12,5% thức ăn đối với hệ thống nuôi bằng công nghệ tuần hoàn. Nếu tính toán với FCR = 1,6 thì mức hệ số chuyển đổi thức ăn này cũng chấp nhận được so với công nghệ nuôi truyền thống của Vĩnh Long và Đồng Tháp. Nếu so sánh với kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Lâm và ctv., (2009) thì kết quả này tương đồng. 4.3. Chất lượng thịt cá Màu sắc thịt cá phi lê là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để xuất khẩu. Trong nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ đàn cá đạt thịt trắng và tỷ lệ thịt trắng cao hơn so với ao nuôi bằng công nghệ thông thường ở Vĩnh Long và Đồng Tháp. Kết quả nghiên cứu này cho tỷ lệ thịt trắng cao hơn kết quả nghiên cứu (70% quần đàn đạt thịt trắng) của Bạch Thị Quỳnh Mai và ctv., (2003) sử dụng kỹ thuật thay nước và dùng oxy đáy cải thiện. Nguyên nhân gây màu thịt cá chưa được nghiên cứu rõ. Việc sử dụng nguồn thức ăn có chứa caroten và hàm lượng oxy ảnh hưởng đến màu sắc cơ thịt cá (Bạch Thị Quỳnh Mai và ctv., 2003). Một số ý kiến khác của người nuôi cho rằng tảo và mùn bã hữu cơ trong hệ thống nuôi cũng ảnh hưởng đến màu sắc thịt cá tra chưa được kiểm chứng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy trong ao RAS có hàm lượng 45TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TSS cao nhưng không ảnh hưởng đến màu sắc của thịt cá tra thương phẩm. Về phần mùi vị cá, được đánh giá cảm quan và còn mang tính chất chủ quan của từng kỹ thuật. Theo các chuyên gia đánh giá chất lượng thì mùi thịt cá trong thí nghiệm nằm ở cấp độ 3. Thông thường, cá nuôi trong hệ thống tuần hoàn thường có mùi “hôi bùn” làm giảm chất lượng cá được báo cáo trên đối tượng cá rô phi và cá trê .Nguyên nhân tạo mùi hôi bùn trong thịt cá tra trong hệ thống tuần hoàn chưa được xác định. Nhưng đây là một trong những khó khăn của hệ thống nuôi tuần hoàn ít thay nước, lượng bùn, tảo bám, vi khuẩn hình sợi, hữu cơ phân hủy và vi sinh vật tích lũy trong thời gian dài có lẽ ảnh hưởng lên chất lượng thịt cá về mùi (Tucker, 1999). Theo kinh nghiệm một số trang trại nuôi cá rô phi bằng công nghệ tuần hoàn cũng có hiện tượng tương đồng nhưng được xử lý mùi bằng giải pháp thay nước ở cuối chu kỳ nuôi đã cải thiện đáng kể mùi của thịt cá (Marc Verdegem thông tin cá nhân, 2013). Đối với thí nghiệm này đã áp dụng giải pháp kỹ thuật tương tự như các kinh nghiệm của các trang trại ở Châu Âu nhưng kết quả không được cải thiện hoàn toàn. Có thể là trong quá trình 8 tháng nuôi không thay nước đã tích lũy về tác nhân gây mùi khá lớn mà thời gian xử lý lại ngắn. Trong thực tế, ao nuôi cá tra truyền thống thay nước khá lớn hàng ngày diễn ra từ đầu đến kết thúc vụ nuôi và cải thiện chế độ ăn trong thời gian dài đã mang lại một số kết quả trong việc khử mùi mặc dù chưa có báo cáo khoa học. Đánh giá mức độ săn chắc cơ thịt cá là một trong chỉ tiêu này thể hiện mức độ săn chắc cơ thịt của cá, thịt càng săn chắc thì tỷ lệ nước trong thịt càng ít vì thế giảm được tỷ lệ hao hụt sau khi chế biến. Thịt cá tra nuôi trong hệ thống tuần hoàn có độ dai cao là do cá nuôi mật độ cao trong ao lại có dòng nước chảy nên có thể cá hoạt động nhiều, thịt cá dai đạt chỉ tiêu ưa thích thu mua của các nhà máy chế biến. Cá tra nuôi trong hệ thống tuần hoàn cá không bị nhiễm bất cứ bệnh nào khác kể cả bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ký sinh trùng nên giai đoạn nuôi 30-260 ngày không sử dụng đến thuốc hoặc hóa chất. Bằng cảm quan đánh giá hình dạng thịt phi lê của cá không bị biến dạng xù xì gây mất mỹ quan, thớ thịt đều và nhẵn khi cắt. Đồng thời thông qua xét nghiệm thịt cá không thấy có tồn dư kháng sinh hay hóa chất trong thịt hay xương cá và thịt cá cũng không bị nhiễm khuẩn Ecoli cũng như mật độ các loại vi khuẩn đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu (theo TCVN 8338:2010). Tỷ lệ thu hồi thịt cá cũng là 1 yếu tố quan trọng quyết định giá trị đàn cá. Việc nuôi cá bảo đảm tỷ lệ thu hồi phi lê cao là một trong những yếu tố khá quan trọng trong kỹ thuật nuôi. Trung bình tỷ lệ thu hồi phi lê thô của cá tra thương phẩm nuôi theo truyền thống được đánh giá từ 1,95 -2,1. Trong nghiên cứu này cho tỷ lệ thu hồi phi lê (1,95) tương đối cao hơn 4 ao nuôi truyền thống đối chứng (2,04). Với tỷ lệ thu hồi phi lê trong nghiên cứu này được đánh giá là tương đồng với ao nuôi truyền thống. Tỷ lệ phi lê của cá được xác định ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường (dinh dưỡng, kỹ thuật chăm sóc, môi trường ao,) hơn là tính di truyền của đàn cá vì hệ số di truyền tính trạng này thấp (Nguyen Van Sang và ctv., 2009). 46 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Các chỉ tiêu môi trường nước cho thấy hệ thống nuôi RAS kết hợp với hệ thống khử nitrate tạo cho môi trường nước ổn định trong suốt vụ nuôi và thích hợp cho cá tra phát triển. Cá tra nuôi trong hệ thống tuần hoàn giảm thiểu được rủi ro về bệnh, cá sinh trưởng phát triển tốt. Mật độ nuôi, năng suất, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ quần đàn cá tra thương phẩm có thịt trắng cao hơn các ao nuôi theo phương pháp nuôi truyền thống. Hệ số chuyển đổi thức ăn và chất lượng cá tra nuôi trong hệ thống tuần hoàn tương đồng với ao nuôi bằng công nghệ truyền thống. Tuy nhiên, tỷ lệ mùi hôi bùn của thịt cá thu hoạch tồn tại trong hệ thống RAS. 5.2. Đề xuất Để cải thiện tỷ lệ sống và hệ số thức ăn trong hệ thống tuần hoàn nuôi cá tra thương phẩm cần phải được nghiên cứu phương pháp xử lý nguồn giống sạch bệnh và loại thức ăn chuyên biệt cho hệ thống nuôi cá tra tuần hoàn với mật độ cao. Để nâng cao chất lượng cá thương phẩm cần nghiên cứu thêm phương pháp khử mùi hôi bùn trong thịt cá thương phẩm trong hệ thống tuần hoàn. Nhìn chung việc nuôi cá tra thương phẩm bằng hệ thống tuần hoàn có ý nghĩa nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nên ứng dụng và phát triển mô hình ở quy mô sản xuất đại trà trong tương lai gần. LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn đã tài trợ kinh phí cho nghiên cứu này. Xin cảm ơn các chuyên gia đánh giá chất lượng cá tra thương phẩm thuộc công ty Cổ Phần Vĩnh Hoàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Nhứt, 2014. Nghiên cứu công nghệ nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus) thâm canh bằng hệ thống tuần hoàn đảm bảo an toàn sinh học và không gây ô nhiễm môi trường” Báo cáo tổng kết khoa học .Pp 15. Bạch Thị Quỳnh Mai, 2003. Xây dựng quy trình nuôi cá tra thịt trắng phục vụ xuất khẩu. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long. Pp 203-222. Tài liệu tiếng Anh Bosma, R.H., Hanh, C.T.T., Potting, J., 2009. Environmental Impact Assessment of the Pangasius Sector in the Mekong Delta. Wageningen University. 50 pp Phan Thanh Lam, T. M. B., Thuy T.T. Nguyen, Geoff J. Gooley , Brett A. Ingramd, Hao V. Nguyen, Phuong T. Nguyen, Sena S. De Silva, 2009, Current status of farming practices of striped catfish, Pangasianodon hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam, Aquaculture 296, 227–236. Nguyen Van Sang, Magny Thomassen, Gunnar Klemetsdal, Hans Magnus Gjøen, 2009. Predicti- on of fillet weight, fillet yield, and fillet fat for live river catfish (Pangasianodon hypophthalmus) 288 : 3–4, 166–171. Tucker, C.S., and Martine, V.D.P., 1999, Managing off-flavor problems in pond-raised catfish. SRAC publication . No 192. 8pp. Timmon, M.B., Ebling J.M., Wheaton, F.W., Summerfelt, S.T., and Vinci, B.J., 2005. Recirculating Aquaculture Systems 2nd Edition. Northern Regional Aquaculture Center Publication No. 01 I002. Cayuga Aqua Ventures Ithaca, New York. 1176pp. 47TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 AN EVALUATING GROWTH AND QUALITY OF STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus) IN AN OUTDOOR PILOT RECIRCULATING AQUACULTURE SYSTEM Nguyen Van Huynh1* , Nguyen Nhut1, Nguyen Hong Quan1, Le Ngoc Hanh1, Nguyen Van Hao2 ABSTRACT Recently, traditional technology for striped catfish culture in pond has been developed due to a water body pollution. Striped catfish industry need an innovation technology to increase production and reduces an environmental pollution. Therefore, an outdoor recirculating aquaculture system (RAS) has studied with high stocking density that can be effected on growth rate and quality of fish. The aim of this study is an evaluating growth and quality of fish in an outdoor pilot RAS to compare with traditional ponds. The outdoor RAS comprised a fish pond 196m2, a sedimentation pond 70m2 and a biofilter 25m3. Its total area was 226m2. The result showed fish production 88.2kg/m2, sur- vival rate 81.1%, feed conversion rate 1.6, all whiten- meat of fish population, crude fillet rate 1.95 and without antibiotic/chemical contamination in fish plesh. Fish in the outdoor RAS indicated off- flavor to reduce a value product for export. However, this innovation technology will be researched further and upscale in Vietnam in near future. Keywords: Striped catfish, recirculating aquaculture system, growth, FCR, fillet. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Ngày nhận bài: 10/8/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014 Ngày duyệt đăng: 05/9/2014 1 Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No 2. *Email: huynhnguyen02@gmail.com 2 Research Institute for Aquaculture No 2.
File đính kèm:
- danh_gia_tang_truong_va_chat_luong_ca_tra_pangasianodon_hypo.pdf