Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp

Khảo sát 120 hộ nuôi cá lóc năm 2016 ở huyện Hồng Ngự, Tam Nông, thị xã Hồng Ngự của Đồng

Tháp về hiện trạng bệnh da rắn tại các ao nuôi và dự đoán sự xuất hiện của bệnh dựa vào 1 số yếu tố

kỹ thuật. Có 50,8% hộ khảo sát có cá mắc bệnh da rắn. Bệnh này thường xảy ra vào mùa nắng, cá mắc

bệnh xuất hiện đốm trắng lan rộng phía đầu, bong vẩy và nội quan tổn thương. Hộ nuôi trị bệnh tổng

hợp như sát khuẩn nước ao nuôi, sử dụng kháng sinh và chế phẩm dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề

kháng, nhưng không hiệu quả. Phân tích hồi qui Binary logistic xác định được các yếu tố để dự đoán

bệnh da rắn như: cỡ giống, số năm kinh nghiệm, phòng bệnh bằng cách diệt khuẩn và giảm ăn.

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 1

Trang 1

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 2

Trang 2

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 3

Trang 3

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 4

Trang 4

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 5

Trang 5

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 6

Trang 6

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 7

Trang 7

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 4780
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp

Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp
69
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019)
 HIỆN TRẠNG BỆNH TRẮNG MÌNH (DA RẮN) TRÊN CÁ LÓC (Channa sp.) 
NUÔI AO Ở TỈNH ĐỒNG THÁP
 y Võ Minh Quế Châu(*), Nguyễn Công Tráng(*)
Tóm tắt
 Khảo sát 120 hộ nuôi cá lóc năm 2016 ở huyện Hồng Ngự, Tam Nông, thị xã Hồng Ngự của Đồng 
Tháp về hiện trạng bệnh da rắn tại các ao nuôi và dự đoán sự xuất hiện của bệnh dựa vào 1 số yếu tố 
kỹ thuật. Có 50,8% hộ khảo sát có cá mắc bệnh da rắn. Bệnh này thường xảy ra vào mùa nắng, cá mắc 
bệnh xuất hiện đốm trắng lan rộng phía đầu, bong vẩy và nội quan tổn thương. Hộ nuôi trị bệnh tổng 
hợp như sát khuẩn nước ao nuôi, sử dụng kháng sinh và chế phẩm dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề 
kháng, nhưng không hiệu quả. Phân tích hồi qui Binary logistic xác định được các yếu tố để dự đoán 
bệnh da rắn như: cỡ giống, số năm kinh nghiệm, phòng bệnh bằng cách diệt khuẩn và giảm ăn. 
Từ khóa: Bệnh da rắn, cá lóc, Đồng Tháp, nuôi cá lóc.
 1. Giới thiệu
Cá lóc là loài cá nước ngọt đặc trưng ở Việt 
Nam [10] và hiện nay được nuôi nhiều ở Đồng bằng 
sông Cửu Long. Cá lóc là loài cá được ưa chuộng 
tiêu thụ hàng đầu ở Việt Nam, nhất là ở Đồng bằng 
sông Cửu Long. Do cá lóc là đối tượng tương đối 
dễ nuôi, được nuôi với nhiều mô hình khác nhau 
(như nuôi trong ao đất, ao nổi, mùng vèo và lồng bè) 
và có thể nuôi qui mô nhỏ để xóa đói giảm nghèo 
hoặc nuôi thâm canh với mật độ cao [9]. Ngoài ra, 
cá lóc nuôi là sản phẩm có khả năng thay thế cá lóc 
đồng tự nhiên, do lượng cá lóc đồng giảm mạnh 
trong những năm gần đây. Tổng sản lượng cá lóc 
nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long năm 2009 ước 
tính khoảng 30.000 tấn [10]. Nghiên cứu trên cá 
lóc, các tác giả [3] đã phát hiện 23 giống ký sinh 
trùng (trong đó có 6 giống mới), 14 chủng vi nấm, 
81 chủng vi khuẩn gây bệnh trên cá lóc, đã xác định 
được 118 tác nhân gây bệnh trên cá lóc, tăng 6 tác 
nhân gây bệnh so với nghiên cứu năm 2010. Thời 
gian gần đây, theo khảo sát thực tế của nhóm nghiên 
cứu bệnh trắng mình (da rắn) bắt đầu xuất hiện trên 
cá lóc nuôi thâm canh. Đây là bệnh mới, chưa xác 
định được tác nhân, chưa có biện pháp phòng, trị 
hiệu quả, nó đang gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi. 
Khi cá lóc mắc bệnh da rắn, thì đuôi cá xuất hiện 
vết trắng lan dần về phía đầu, cá mất nhớt, bong 
vẩy, vẩy cá sần lên như da con rắn và cá chết rất 
nhanh. Bệnh đã xuất hiện ở tất cả các tỉnh có nghề 
nuôi cá lóc như: Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, 
Trà Vinh, Bình Dương... Trong đó, Đồng Tháp là 
một trong những tỉnh có nghề nuôi cá lóc bị thiệt 
hại nặng do bệnh da rắn. Bệnh xuất hiện hầu hết các 
huyện có nuôi cá lóc của tỉnh Đồng Tháp. Vì vậy, 
nghiên cứu khảo sát hiện trạng bệnh da rắn trên cá 
lóc lai (Channa sp.) nuôi thâm canh trong ao đất ở 
tỉnh Đồng Tháp được thực hiện nhằm hiểu về hiện 
trạng của bệnh và mối tương quan giữa dịch bệnh 
với các yếu tố môi trường, kỹ thuật... để dự đoán 
khả năng xảy ra bệnh. Từ đó, đề xuất các giải pháp 
để hạn chế dịch bệnh, giảm rủi ro cho nghề nuôi.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 03/2016 
- 12/2016 tại các huyện Hồng Ngự, Tam Nông và 
thị xã Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. 
2.2. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu sơ cấp: Được thu thập bằng bảng câu 
hỏi soạn sẵn với các nội dung, chỉ tiêu nghiên cứu. 
Nội dung của bảng câu hỏi xoay quanh các vấn 
đề: (i) Thông tin về hiện trạng kỹ thuật nuôi cá 
lóc của các nông hộ, (ii) hiện trạng bệnh da rắn và 
(iii) hướng xử lý ban đầu của người nuôi khi phát 
hiện bệnh này.
Khảo sát ý kiến dựa trên kết quả điều tra từ 
120 hộ dân nuôi cá lóc thuộc huyện Hồng Ngự, 
Tam Nông và thị xã Hồng Ngự. Các hộ được chọn 
phỏng vấn một cách ngẫu nhiên. Ngoài ra, trong 
quá trình điều tra, nghiên cứu viên kết hợp thu thập 
mẫu cá bệnh, quan sát dấu hiệu bên ngoài và giải 
phẫu để quan sát bệnh tích bên trong với điều kiện 
thực tế tại nông hộ, vùng nuôi để bổ sung và kiểm 
chứng dữ liệu thu được.(*) Trường Đại học Tiền Giang.
70
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019)
Số liệu thứ cấp: Thu thập báo cáo của Chi cục 
Thủy sản Đồng Tháp, Phòng Nông nghiệp (NN) 
huyện Tam Nông, Phòng NN huyện Hồng Ngự và 
Phòng NN thị xã Hồng Ngự.
2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel 2013 để nhập và 
mã hóa số liệu sau khi thu được. Thống kê so sánh 
được thực hiện bằng SPSS 16.0. Mô hình hồi quy 
đa biến Binary Logistic dùng để nghiên cứu sự ảnh 
hưởng của các yếu tố về môi trường, kỹ thuật nuôi, 
quản lý ao lên sự xuất hiện bệnh da rắn (SXHBDR). 
Dựa vào mô hình này để dự đoán khả năng xảy ra 
dịch bệnh.
Xác suất xảy ra bệnh da rắn (p) trên cá lóc 
được biểu diễn bằng mô hình như sau:
0 1 1 2 2 3 3
0 1 1 2 2 3 3
( ... )
( ... )
.
1
n n
n n
X X X X
X X X X
ep
e
β β β β β
β β β β β
+ + + + +
+ + + + += + 
Trong đó: SXHBDR là biến nhị phân có giá 
trị 0 hoặc 1 (ví dụ: có xuất hiện bệnh da rắn thì 
nhận giá trị = 1, không có xuất hiện bệnh da rắn 
thì nhận giá trị = 0); β0 là hằng số, β1, β2, β3...βn là 
hệ số của các biến độc lập; X1, X2, X3... Xn là các 
biến độc lập đại diện cho kết quả trả lời của người 
được phỏng vấn.
Xác xuất của hàm này có giá trị từ 0-1. Khi có 
các giá trị của các biến, chúng ta có thể dựa vào đó 
để dự đoán. Nếu p ≤ 0,5 thì dịch bệnh không xảy 
ra, p> 0,5 thì bệnh xảy ra [13].
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Hiện trạng bệnh da rắn 
Trong 120 hộ nuôi cá lóc thâm canh trong ao 
đất được khảo sát thì có 61 hộ nuôi có cá mắc bệnh 
da rắn chiếm 50,8%. Nhìn chung tỷ lệ xuất hiện 
bệnh da rắn cũng khá cao.
3.1.1. Tỷ lệ mắc bệnh da rắn 
Các hộ nuôi cá lóc ở cả 3 địa bàn gồm huyện 
Hồng Ngự, thị xã Hồng Ngự và huyện Tam Nông 
đều có cá mắc bệnh da rắn. Trong đó, tính riêng 
theo từng khu vực khảo sát, thị xã Hồng Ngự có tỷ 
lệ hộ nuôi có cá mắc bệnh da rắn cao nhất chiếm 
56% số hộ được khảo; huyện Hồng Ngự có tỷ lệ  ... nh da 
rắn, cho đến thời điểm khảo sát, do chưa xác định 
được tác nhân gây bệnh, dựa vào những dấu hiệu 
thể hiện ở nội tạng, người dân sử dụng kháng sinh 
chỉ để điều trị được các triệu chứng về nội tạng.
Quá trình điều trị bệnh bao gồm sử dụng hóa 
chất diệt khuẩn để xử lý nước, kết hợp với cho 
ăn kháng sinh để điều trị. Thực tế, hầu hết các hộ 
nuôi đều bán ngay sau 1-2 ngày điều trị không hiệu 
quả. Như vậy, kết quả đánh giá về hiệu quả điều trị 
của người dân dựa vào thiệt hại gây ra. Thực chất, 
không thể trị khỏi hoàn toàn bệnh da rắn, tỷ lệ cá 
chết không giảm nên để giảm thiểu rủi ro, người 
dân bán gấp. Chi phí trị bệnh cao, hiệu quả điều 
trị không cao sẽ gây thiệt hại ngày càng nhiều và 
cá thường mắc bệnh đạt từ 100-300 g đã có thể 
bán được.
3.2.7. Những khó khăn trong xử lý bệnh
Bệnh da rắn trên cá lóc chưa xác định được 
nguyên nhân gây bệnh, nên việc phòng trị bệnh là 
hết sức khó khăn (Bảng 8). Vì vậy, khảo sát được 
thực hiện để xác định những khó khăn các hộ nuôi 
gặp phải để có hướng xử lý thích hợp.
Bảng 8. Những khó khăn trong xử lý bệnh
Khó khăn Số hộ Tỷ lệ (%)
Xử lý môi trường ao nuôi 38 62,3
Kháng sinh trị bệnh không hiệu quả 18 29,5
Chi phí trị bệnh cao 35 57,4
Hiệu quả điều trị thấp 10 16,4
Ý khác 8 13,1
Khó khăn về xử lý môi trường ao nuôi có tới 
38 hộ chọn chiếm 62,3%, đặc biệt là khó khăn về 
nguồn nước. Do hầu hết các hộ đều không có ao 
xử lý chất thải nên xả trực tiếp xuống sông, không 
chỉ những hộ nuôi cá lóc mà còn những hộ nuôi 
cá khác như cá tra, cá nàng hai... đều thải trực tiếp 
xuống cùng 1 con kênh, sông làm mầm bệnh lây 
lan nhanh rất khó kiểm soát, dẫn tới chất lượng 
nước ngày càng bị ô nhiễm. Ngoài ra, khi sử dụng 
nước trên sông cho vào ao nuôi thì rất khó xử lý 
nước do các hộ nuôi không có ao lắng để xử lý. 
Yếu tố chi phí trị bệnh cao có 35 hộ chọn chiếm 
57,4%, nguyên nhân là do giá thuốc kháng sinh và 
hóa chất xử lý nước giá khá cao nhưng chưa điều 
trị hiệu quả bệnh này.
Một số hộ nuôi từng gặp bệnh này nhiều hơn 
1 lần cho rằng việc sử dụng kháng sinh hay thảo 
dược khi đang bệnh không hiệu quả. Nguyên nhân 
là khi cho ăn kháng sinh cá sẽ chết nhiều hơn vì 
gan cá đã suy giảm chức năng gan, dùng liều kháng 
sinh dẫn đến trị bệnh không hiệu quả. Theo Robert 
trong [8] cũng cho rằng khi cá bị gan thận mủ, có 
sự xung huyết ở mao mạch, vỡ mạch máu ở gan, 
giải phóng các enzyme tiêu hóa từ các tế bào bạch 
cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoại dẫn 
đến hoại tử nhiều vùng trên gan, khi đó gan mất 
chức năng khử độc, lọc máu. Lúc này cần phải giải 
độc gan, bổ máu, tăng cường chức năng gan trước 
để cá phục hồi sức khỏe lại rồi mới sử dụng kháng 
sinh với liều nhẹ để diệt mầm bệnh. 
Yếu tố hiệu quả điều trị thấp được 10 hộ chọn 
74
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019)
(chiếm 16,4%). Ý kiến khác có 8 hộ chọn (chiếm 
13,1%), là do thời tiết nắng nóng làm nhiệt độ nước 
tăng cao và thời gian nắng nóng trong ngày dài làm 
cá bị stress, cá yếu rất dễ nhiễm bệnh.
3.2.8. Nguyên nhân làm bệnh da rắn trầm 
trọng thêm
Bảng 9. Nguyên nhân làm bệnh da rắn
trầm trọng thêm
Nguyên nhân Số hộ Tỷ lệ (%)
Môi trường ao nuôi quá dơ 42 68,9
Cho ăn dư thừa 2 3,28
Cho ăn quá nhiều kháng sinh 5 8,20
Ý khác 3 4,92
Từ Bảng 9 cho thấy, có 42 hộ (chiếm 68,9%) 
cho rằng nguyên nhân cá bị bệnh nặng hơn là do 
môi trường nuôi quá dơ. Các hộ nuôi cá với mật 
độ rất cao, lượng chất thải trong ao khá lớn. Mặc 
dù thay nước thường xuyên nhưng cũng không thể 
xử lý hoàn toàn chất thải lắng đọng dưới đáy ao. 
Đây chính là cơ hội cho nhiều mầm bệnh phát triển. 
Thời tiết khắc nghiệt, cho ăn dư thừa hay cho ăn 
quá nhiều kháng sinh cũng là một trong các nguyên 
nhân gây bệnh [6]. Nhưng, nhìn chung cá lóc nuôi 
mật độ cao, môi trường suy thoái làm cá bị stress, 
suy giảm sức chống chịu với bệnh tật, cộng với sự 
phát triển của mầm bệnh trong ao nuôi nên công 
tác phòng và điều trị gặp nhiều khó khăn hơn.
3.2.9. Biện pháp xử lý bệnh da rắn hiệu quả 
Đối với các hộ nuôi đã có kinh nghiệm trong 
việc xử lý bệnh da rắn đưa ra một số giải pháp mà 
họ cho rằng hiệu quả trong điều trị.
Bảng 10. Các giải pháp do người dân đề xuất để xử lý 
hiệu quả bệnh da rắn
Biện pháp xử lý Số hộ Tỷ lệ (%)
Môi trường ao nuôi 17 27,9
Cho ăn kháng sinh, thảo dược trị bệnh 16 26,2
Bổ sung dinh dưỡng, men tiêu hóa, 
chất kích thích miễn dịch, sản phẩm 
tăng cường chức năng gan
25 41,0
Ngưng cho ăn 46 75,4
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, khi cá mắc 
bệnh da rắn có 46 hộ (chiếm 75,4%) cho rằng cần 
giảm hay ngưng cho cá ăn để tránh bị dơ nước giảm 
tải hoạt động cho gan, chờ gan hồi phục trở lại. 
Có 25 hộ chiếm 41,0% cho rằng cần giải độc gan, 
tăng cường chức năng gan, bổ sung dinh dưỡng, 
men tiêu hóa, chất kích thích miễn dịch giúp gan 
mau hồi phục. Theo [11] và [2] để nâng cao sức 
đề kháng của cá lóc, nên bổ sung các chất kích 
thích miễn dịch. Kết quả cho thấy khi bổ sung các 
chủng vi khuẩn Bacillus sp. và Lactobacillus sp., 
nấm men và β-glucan tăng trưởng của cá được cải 
thiện, các chỉ số đo hoạt động của miễn dịch cũng 
tăng. Đồng thời, mật số vi khuẩn gây bệnh trên cơ 
thể cá cũng giảm.
Biện pháp tập trung xử lý môi trường ao nuôi 
được 17 hộ chọn, chiếm 27,9%. Các hộ này cho 
rằng đầu tiên cần cải thiện môi trường ao nuôi để 
cá giảm stress, tăng cường sức đề kháng, giảm vi 
khuẩn gây bệnh trong ao.
Có 16 hộ (chiếm 26,2%) cho rằng cần cho 
ăn kháng sinh, thảo dược khi trị bệnh. Các hộ này 
thường chọn các dòng kháng sinh có phổ kháng 
khuẩn rộng như: Levofl oxacin, Ciprofl oxacin hay 
kháng sinh theo hướng dẫn của kỹ sư các công ty 
thuốc để cho cá ăn. 
Như vậy, khi cá lóc mắc bệnh da rắn, cần tập 
trung xử lý như sau: cần giảm hoặc ngưng cho ăn 
tùy vào mức độ suy yếu của gan (xem màu sắc gan, 
kích cỡ gan), đồng thời bổ sung dinh dưỡng, giải 
độc gan, tăng cường chức năng gan. Song song 
đó, cần cải thiện môi trường nuôi để giúp cá giảm 
stress, tăng cường sức đề kháng. Mổ kiểm tra mẫu 
một số con, khi thấy gan đã hồi phục tốt (gan có 
màu đặc trưng của loài, kích cỡ phù hợp) thì mới 
trộn kháng sinh, thảo dược cho cá ăn để đạt hiệu 
quả điều trị tốt nhất.
3.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến 
SXHBDR
Dự đoán SXHBDR dựa vào phương trình sau
(4,668 0,107*SNKN 3,877*CG 0,783* . .1,044* . )
(4,668 0,107*SNKN 3,877*CG 0,783* . .1,044* . )
.
1
p dietkhuan P Giaman
p dietkhuan P Giaman
ep
e
+ − + +
+ − + += + 
Xác xuất dự đoán của 120 hộ nuôi cá lóc ở 
Đồng Tháp về bệnh có kết quả 65,8%. Như vậy 
để dự đoán 1 hộ nuôi có thể gặp bệnh da rắn trong 
quá trình nuôi hay không có thể dựa vào các điều 
kiện như số năm kinh nghiệm của hộ nuôi, kích 
cỡ con giống lúc mới thả và các biện pháp phòng 
75
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019)
bệnh mà hộ nuôi đã thực hiện khi biết các ao nuôi 
xung quanh đã mắc bệnh da rắn.
Có nhiều biến là các yếu tố kỹ thuật của quá 
trình nuôi cá lóc được đưa vào phân tích trong 
hàm này. Tuy nhiên, chỉ những biến có mức ý 
nghĩa (sig) <0,05 là biến có tương quan, được 
dùng để dự đoán.
Bảng 11. Các biến phân tích của mô hình các yếu tố 
hình thành bệnh da rắn (n = 120)
Tên biến Mã hóa
Giá trị 
hằng 
số β
Mức ý 
nghĩa 
(sig.)
SXHBDR 4,668 0,045
Số năm kinh nghiệm 
(SNKN) X1 0,107 0,050
Kích cỡ con giống (CG) X2 -3,877 0,033
Phòng bệnh bằng cách diệt 
khuẩn (P.Dietkhuan) X3 0,783 0,052
Phòng bệnh bằng cách 
giảm ăn khi điều kiện bất 
lợi (P.Giaman)
X4 1,044 0,055
Kinh nghiệm là một trong những yếu tố hàng 
đầu quyết định thành công giúp người nuôi dự 
đoán rủi ro, hạn chế dịch bệnh, lựa chọn các biện 
pháp kỹ thuật thích hợp với điều kiện sản xuất thực 
tế của nông hộ mình nhằm tăng năng suất, chất 
lượng, giảm chi phí trong quá trình nuôi. Ngoài 
ra, cỡ giống phù hợp cũng rất quan trọng. Nếu 
chọn cỡ giống quá nhỏ sẽ làm tăng tỷ lệ hao hụt 
do sức chống chịu với các yếu tố bất lợi của môi 
trường kém. Trong điều kiện của ao nuôi cá lóc, 
mật độ nuôi cao, yếu tố môi trường luôn luôn bất 
lợi, nguồn nước cấp vào cũng không đảm bảo chất 
lượng. Ngoài ra, việc có hay không phòng bệnh khi 
biết các hộ nuôi xung quanh đang mắc bệnh cũng là 
yếu tố quyết định sự xuất hiện của bệnh da rắn tại 
ao nuôi. Cụ thể từ mô hình hồi quy cho thấy, biện 
pháp diệt khuẩn ao nuôi cũng góp phần quyết định 
bệnh có xuất hiện không (Bảng 11, sig = 0,052). 
Khi điều kiện bất lợi như thời tiết giao mùa, nước 
ao có dấu hiệu ô nhiễm, lúc sử dụng thuốc hóa chất 
cho ao nuôi thì người nuôi thường chọn biện pháp 
giảm cho cá ăn như là một giải pháp phòng bệnh để 
bảo vệ sức khỏe cá nuôi. Tuy nhiên, trong mô hình 
thì mối tương quan giữa việc giảm ăn (X4) với hiệu 
quả phòng bệnh da rắn là chưa mạnh (sig. = 0,055).
4. Kết luận 
Khảo sát vùng nuôi cá lóc tập trung của Đồng 
Tháp cho thấy bệnh da rắn xuất hiện từ năm 2012. 
Cho đến thời điểm khảo sát (2016) có 50,8% số 
hộ trong vùng khảo sát đã từng gặp bệnh da rắn ít 
nhất 1 lần. 
Khi phát bệnh, cá có biểu hiện bên ngoài đặc 
trưng là trắng mình, bong vẩy kết hợp với những 
bất thường về nội tạng như trắng gan, xuất huyết 
nội tạng và cá bị bệnh sẽ chết rất nhanh. 
Người nuôi cũng có các biện pháp xử lý ban 
đầu như ngưng cho ăn, diệt khuẩn nước ao nuôi, 
sử dụng kháng sinh, sử dụng các chế phẩm dinh 
dưỡng bổ sung nhằm nâng cao sức đề kháng của 
cá nuôi. Tuy nhiên, các biện pháp không thực sự 
hiệu quả, nên để giảm thiệt hại người dân sẽ bán 
sau 3 ngày điều trị. 
Để dự đoán một hộ nuôi có thể sẽ gặp bệnh 
da rắn hay không thì có thể dựa các yếu tố kinh 
nghiệm của người nuôi, kích cỡ con giống thả nuôi, 
các biện pháp phòng bệnh như diệt khuẩn định kỳ 
và giảm ăn khi điều kiện bất lợi, bằng mô hình hồi 
quy Binary logistic với xác suất dự đoán là 65,8%./.
Tài liệu tham khảo
[1]. Keith Brander (2010), Impacts of climate change on fi sheries, Journal of Marine Systems, (79), 
pp. 389-402.
[2]. Dhanaraj, M., Haniffa, M. A. K. (2011), “Effect of probiotics on growth and microbiological 
changes in snakehead Channa striatus challenged by Aeromonas hydrophila”, African Journal of 
Microbiololy Research, (5), pp. 4601-4606.
[3]. Phạm Minh Đức, Trần Ngọc Tuấn, Trần Thị Thanh Hiền (2012), “Khảo sát mầm bệnh trên cá 
lóc nuôi ao thâm canh ở An Giang và Đồng Tháp”, Tạp chí Khoa học ĐH Cần Thơ, (số 21b), tr. 124-132.
[4]. Hentschel, D. M., K. M. Park, L. Cilenti, A. S. Zervos, I. Drummond, and J. V. Bonventre 
(2005), “Acute renal failure in zebrafi sh: A novel system to study a complex disease”, Am. J. Physiol.-
Renal Physiol., (288), pp. 923-929.
76
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019)
[5]. Islam, M. J., Rasul, M. G., Kashem, M. A., Hossain, M. M., Liza, A. A., Sayeed, M. A., and 
Motaher Hossain, M. (2015), “Effect of Oxytetracycline on Thai Silver Barb (Barbonymus gonionotus) 
and on it’s Culture Environment”, Journal of Fisheries and Aquatic Science, 10 (5), pp. 323-336.
[6]. Jaime, R., Carmen, G. F., Paola, N. (2012), Antibiotics in Aquaculture - Use, Abuse and 
Alternatives, In: Edmir Carvalho (Eds.), Health and Environment in Aquaculture, INTECH Open Access 
Publisher, 427 pp.
[7]. Mishra, A., Gothalwal, R., Shende, K. (2013), “Response of ulcerative disease causing bacterial 
pathogens of fi sh Channa striatus for different antibiotics”, Bioscience Trends, (6), pp. 540-543.
[8]. Robert, R. J. (1978), Fish pathology, Institute of Aquacuture, University of Stirling. Bailliere 
Tindall, London, 318 pp.
[9]. Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung (2009), “Khảo sát các mô hình nuôi cá lóc (Channa micropeltes 
và Channa striatus) ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản toàn quốc, tr. 
436-447, Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
[10]. Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung (2010), “Hiện trạng và những thách thức cho nghề nuôi 
cá lóc (Channa micropeltes và Channa striatus) ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn, (số 2), tr. 56-63.
[11]. Talpur, A. D., Munir, M. B., Mary, A., Hashim, R. (2014), “Dietary probiotics and prebiotics 
improved food acceptability, growth performance, haematology and immunological parameters and 
disease resistance against Aeromonas hydrophila in snakehead (Channa striata) fi ngerlings”, Aquaculture, 
(426-427), pp. 14-20. 
[12]. Đặng Thụy Mai Thy, Trần Thị Thủy Cúc, Nguyễn Châu Phương Lam, Nguyễn Đức Hiền 
và Đặng Thị Hoàng Oanh (2012), “Đặc điểm mô bệnh học cá rô (Anabas testudineus) nhiễm vi khuẩn 
Aeromonas hydrophila và Streptococcus sp trong điều kiện thực nghiệm”, Tạp chí Khoa học Trường 
Đại học Cần Thơ, (số 22c), tr. 183-193. 
[13]. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, 
Nhà Xuất bản Hồng Đức, 179 trang 
[14]. Mai Đình Yên (1978), Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía bắc, NXB Đại học tổng hợp Hà Nội.
THE CURRENT “SNAKE-SKIN” DISEASE ON SNAKEHEAD FISH POND-FARMED 
IN DONG THAP PROVINCE
Summary
A survey was done by interviewing 120 snakehead farming households about the current “snake 
skin” disease found in the districts Hong Ngu, Tam Nong and Hong Ngu town, and predictions on this 
disease were made basing on technical factors. Up to 50.8% households reported the disease on their 
farmings. It was often seen in the dry season. The infected fi sh had white spots over the head, scale loss 
and inner organs damaged. The households generally treated the disease by pond-disinfecting, adding 
antibiotics and nutrients in diet to improve the fi sh’s immunity. However, these were ineffective. Binary 
logistic regression showed that some factors to foretell this disease include stock size, years of farming 
experience and disinfection and diet reduction. 
Keywords: Dong Thap, “snake-skin” disease, snakehead farming, snakehead fi sh.
Ngày nhận bài: 28/9/2018; Ngày nhận lại: 19/4/2019; Ngày duyệt đăng: 05/9/2019.

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_benh_trang_minh_da_ran_tren_ca_loc_channa_sp_nuoi.pdf