Đánh giá kết quả bước đầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp nút mạch vi cầu phóng xạ yttrium - 90
Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) là loại
ung thư phổ biến có tỷ lệ tử vong cao ở Việt Nam
cũng như trên thế giới. Nút mạch hoá chất ung thư
biểu mô gan qua đường động mạch đã được áp dụng
rộng rãi tại Việt Nam và mang lại hiệu quả kiểm soát
khối u giúp kéo dài thời gian sống cho người bệnh.
Gần đây, nút mạch sử dụng hạt vi cầu phóng xạ hay
xạ trị chiếu trong chọn lọc được sử dụng rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới, kỹ thuật này mới được triển
khai ở một số Bệnh viện Trung Ương, do đó cần có
đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả của phương
pháp này. Mục tiêu: Đánh giá mức độ an toàn và
hiệu quả bước đầu trong điều trị UTBMTBG bằng nút
mạch với chất phóng xạ Yttrium 90. Đối tượng và
phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu 25 bệnh nhân
(BN) có chẩn đoán UTBMTBG trong thời gian từ tháng
8/2019 đến tháng 4/2021 được điều trị bằng phương
pháp nút mạch vi cầu phóng xạ với Y-90. Sau các thời
điểm 1 tháng và trên 3 tháng BN được khám lại, làm
xét nghiệm chỉ điểm u và chụp lại cắt lớp vi tính
(CLVT) gan mật có tiêm thuốc cản quang. Ghi nhận
trên hình ảnh về đường kính khối u, tính chất ngấm
thuốc trước và sau các thời điểm trên đánh giá đáp
ứng điều trị theo tiêu chuẩn đáp ứng với khối u đặc
(Response Evaluation Criteria in Solid Tumor –
RECIST) và tiêu chuẩn sửa đổi mRECIST. Theo dõi
thời gian sống của nhóm BN trên 3 tháng. Kết quả:
25 bệnh nhân (20 nam, 5 nữ) với tuổi trung bình
60±9,8 tuổi (từ 38 tuổi đến 77 tuổi), đường kính u
trung bình 55,76 ± 20,95 mm, trung vị các giá trị chỉ
điểm u AFP, AFP-L3 và PIVKA-II là 7,5 ng/ml; 17% và
183 mAU/mL. Sau thời điểm can thiệp 1 tháng có
17BN đi khám lại, đường kính là 46,5 ± 18,7 mm,
mức độ đáp ứng hoàn toàn, một phần, ổn định,
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp nút mạch vi cầu phóng xạ yttrium - 90
vietnam medical journal n01 - MAY - 2021 210 V. KẾT LUẬN Khi đánh giá nghiên cứu các kích thước trên ảnh thẳng ở trẻ 12 tuổi tại một số trường Trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội cho thấy một số kết quả sau: Dạng khuôn mặt phổ biến là dạng Oval (48,98%), tiếp đến là dạng vuông (29,18%), thấp nhất là mặt tam giác (21,84%).Hình dạng mặt tương ứng với các tỷ lệ ngang khuôn mặt: Mặt hình vuông có tỷ lệ Ft-Ft = Zy-Zy, mặt hình oval với Zy-Zy > Ft-Ft và Zy-Zy > Go-Go, và mặt hình tam giác với Ft-Ft > Zy-Zy > Go-Go. LỜI CẢM ƠN. Để hoàn thành bài báo này, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến các đối tượng nghiên cứu, các thầy cô trong Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt, PGS.TS Trương Mạnh Dũng, chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước, văn phòng quản lý các chương trình trọng điểm quốc gia đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho nhóm nghiên cứu có thể lấy và hoàn thành số liệu. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới bộ khoa học công nghệ đã hoàn thiện và phát triển phần mềm VNceph hỗ trợ rất nhiều cho việc xử lý dữ liệu hình ảnh của tôi và nhóm nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bashour M.(2006),History and current concepts in the analysis of facial attractiveness. Plast Reconstr Surg. 118(3):741–56. 2. Langlois JH, Roggman LA.(1990), Attractive faces are only average. Psychol Sci.;1:115–21. 3. Grammer K, Thornhill R.(1994), Human facial attractiveness and sexual selection: the role of symmetry and averageness. J Comp Psychol.108:233–42. 4. Edler R, Agarwai P, Wertheim D, Greenhill D. (2006), The use of anthropometric proportion indices in the measurement of facial attractiveness. Eur J Orthod.28(3):274–81. 5. Ibrahimagić L., Jerolimov V., Celebić, A. et al (2001). Relationship between the face and the tooth form. Collegium Antropologicum, 25(2), pp. 619-626. 6. Võ Trương Như Ngọc (2010). Nghiên cứu đặc điểm sọ-mặt và đánh giá khuôn mặt hài hoà ở một nhóm người Việt tuổi từ 18-25, Luận án tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, tr. 1-143. 7. Phạm Cao Phong, Lê Gia Vinh, Võ Trương Như Ngọc (2016), Một số đặc điểm kết cấu sọ-mặt ở nhóm học sinh ngừoi Việt lứa tuổi 11 trên phim sọ nghiêng, Tạp chí y học Việt nam, tháng 2-số 1, năm 2016, tập 439, trang 36-40. 8. Võ Trương Như Ngọc, Nguyễn Đức Nghĩa (2014), Mối tương quan giữa các kích thước khuôn mặt trên ảnh chuẩn hóa ở một nhóm học sinh PTTH- Trường Chu Văn An Hà Nội năm 2012, Tạp chí Y Học Thực Hành, số 2 (906), trang 140-144. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP NÚT MẠCH VI CẦU PHÓNG XẠ YTTRIUM-90 Đỗ Đăng Tân*, Trịnh Hà Châu*, Lê Văn Khảng*, Lê Đức Thọ*, Vũ Đăng Lưu*, Nguyễn Duy Anh**, Trần Đình Hà**, Phạm Cẩm Phương**, Mai Trọng Khoa** TÓM TẮT50 Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) là loại ung thư phổ biến có tỷ lệ tử vong cao ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Nút mạch hoá chất ung thư biểu mô gan qua đường động mạch đã được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam và mang lại hiệu quả kiểm soát khối u giúp kéo dài thời gian sống cho người bệnh. Gần đây, nút mạch sử dụng hạt vi cầu phóng xạ hay xạ trị chiếu trong chọn lọc được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, kỹ thuật này mới được triển khai ở một số Bệnh viện Trung Ương, do đó cần có đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả của phương pháp này. Mục tiêu: Đánh giá mức độ an toàn và *Trung tâm điện quang BV Bạch Mai Chịu trách nhiệm chính: Vũ Đăng Lưu Email: vudangluu@hmu.edu.vn Ngày nhận bài: 5.3.2021 Ngày phản biện khoa học: 26.4.2021 Ngày duyệt bài: 7.5.2021 hiệu quả bước đầu trong điều trị UTBMTBG bằng nút mạch với chất phóng xạ Yttrium 90. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu 25 bệnh nhân (BN) có chẩn đoán UTBMTBG trong thời gian từ tháng 8/2019 đến tháng 4/2021 được điều trị bằng phương pháp nút mạch vi cầu phóng xạ với Y-90. Sau các thời điểm 1 tháng và trên 3 tháng BN được khám lại, làm xét nghiệm chỉ điểm u và chụp lại cắt lớp vi tính (CLVT) gan mật có tiêm thuốc cản quang. Ghi nhận trên hình ảnh về đường kính khối u, tính chất ngấm thuốc trước và sau các thời điểm trên đánh giá đáp ứng điều trị theo tiêu chuẩn đáp ứng với khối u đặc (Response Evaluation Criteria in Solid Tumor – RECIST) và tiêu chuẩn sửa đổi mRECIST. Theo dõi thời gian sống của nhóm BN trên 3 tháng. Kết quả: 25 bệnh nhân (20 nam, 5 nữ) với tuổi trung bình 60±9,8 tuổi (từ 38 tuổi đến 77 tuổi), đường kính u trung bình 55,76 ± 20,95 mm, trung vị các giá trị chỉ điểm u AFP, AFP-L3 và PIVKA-II là 7,5 ng/ml; 17% và 183 mAU/mL. Sau thời điểm can thiệp 1 tháng có 17BN đi khám lại, đường kính là 46,5 ± 18,7 mm, mức độ đáp ứng hoàn toàn, một phần, ổn định, tiến TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 502 - th¸ng 5 - sè 1 - 2021 211 triển theo RECIST là 0%; 35,3%; 58.8% và 5.9%; theo mRECIST 23,5%; 41,2%; 29,4% và 5,9%. Thời điểm trên 3 tháng có 13 BN đi khám lại đường kính u trung bình 54,6 ± 24,8 mm, mức độ đáp ứng hoàn toàn, một phần, ổn định, tiến triển theo RECIST là 0%; 53,8%; 15,4% và 30,8%, theo mRECIST 30,8%; 23%; 15,4% và 30,8%. Sau điều trị, các chỉ điểm u giảm không có ý nghĩa thống kê. Có 19 BN thời gian theo dõi từ trên 3 tháng, 1 trường hợp tử vong, thời gian sống thêm trung bình 18,4 ± 0,5 tháng. Kết luận: Nút mạch điều trị ung thư biểu mô gan với hạt vi cầu phóng xạ Y-90 là phương pháp điều trị có hiệu quả, an toàn, đặc biệt với các khối u lớn và ở giai đoạn không còn chỉ định phẫu thuật SUMMARY EVALUATING THE INITIAL RESULTS OF YTTRIUM-90 RADIOEMBOLIZATION IN THE TREATMENT OF HEPATOCELLULAR CARCINOMA Hepatocellular carcinoma (HCC) is a common cancer with a high mortality rate in Viet Nam as well as in the world. Transarterial Chemoembolization plays a huge role in the treatment of HCC, in which Yttrium-90 radioembolization in selective is a new, highly effective method. Purpose: To evaluat ... o phổi lớn nhất là 7Gy. Hình 1: U gan thể thâm nhiễm có huyết khối tĩnh mạch cửa. (A) T2W, (B) DWI; (C) CLVT động mạch và tĩnh mạch khối u phân thùy sau (mũi tên đỏ) có phần xâm lấn tĩnh mạch cửa (mũi tên vàng) 3.2. Sau can thiệp 1 tháng Thời điểm 01 tháng sau can thiệp có 17/25 BN quay lại khám được làm xét nghiệm chỉ điểm u và chụp phim CLVT. Bảng 6: Sự thay đổi đường kính và chỉ điểm u sau can thiệp 1 tháng Trước can thiệp Sau 1 tháng Đường kính trung bình 51,9 ± 18,4 mm 46,5 ± 18,7mm p = 0,05 AFP (trung vị) 6,5 [2,4 ; 186] 13 [5 ; 48,8] AFP-L3 (trung vị) 4,8 [1 ; 37,7] 9 [1 ; 52] PIVKA-II (trung vị) 47 [20 ; 1168] 30 [17 ; 494] Nhận xét: Sau thời điểm 1 tháng đường kính trung bình khối u giảm có ý nghĩa thống kê với p = 0,05. Các giá trị chỉ điểm u thay đổi không có ý nghĩa thống kê. Mức độ đáp ứng theo RECIST và mRECIST thể hiện ở bảng dưới Hình 2: Đáp ứng u sau 1 tháng. CLVT thì động mạch trước (A) và sau điều trị (B) khối u không giảm đáng kể đường kính nhưng không còn ngấm thuốc, đáp ứng hoàn toàn theo mRECIST vietnam medical journal n01 - MAY - 2021 214 Bảng 7: Mức độ đáp ứng trên hình ảnh theo RECIST và mRECIST sau 1 tháng RECIST mRECIST Đáp ứng hoàn toàn CR 0 0 4 23,5% Đáp ứng một phần PR 6 35,3% 7 41.2% Bệnh ổn định SD 10 58,8% 5 29,4% Bệnh tiến triển PD 1 5,9% 1 5,9% Tổng 17 100% 17 100% Nhận xét: Thời điểm 01 tháng theo RECIST có đáp ứng một phần là 35,3% không có đáp ứng hoàn toàn. Theo mRECIST có 23,5% đáp ứng hoàn toàn, 41,2% đáp ứng một phần. Bảng 8: Sự thay đổi về các chỉ số xét nghiệm chức năng gan sau 1 tháng điều trị Trị số n Trước điều trị Sau 1 tháng Trung bình Độ lệch Trung bình Độ lệch GOT 17 37.7 14.3 40.9 9.3 GPT 17 39.1 19.4 34.6 12.4 Albu 17 42.5 2 42.3 3.1 BilTP 17 12.1 3.8 11.4 2.3 BilTT 17 4.6 1.3 5.1 1.1 Nhận xét: Không có sự khác biệt về giá trị các chỉ số xét nghiệm chức năng gan sau điều trị 1 tháng 3.3. Sau can thiệp trên 3 tháng. Thời điểm can thiệp từ 3 tháng trở lên có 13 BN đi khám lại. Sự thay đổi về đường kính và chỉ điểm u thể hiện ở bảng dưới Bảng 9: Sự thay đổi đường kính và chỉ điểm u sau can thiệp trên 3 tháng Trước can thiệp Sau 3 tháng Đường kính trung bình 60,3 ± 24 mm 54,6 ± 24,8 mm p = 0,3 AFP (trung vị) 10,4 [2,4 ; 186] 4,7 [3 ; 14,3] p = 0,2 AFP-L3 (trung vị) 6,8 [1 ; 37,7] 0,5 [0,5 ; 34 ] p = 0,1 PIVKA-II (trung vị) 183 [20 ; 1168] 23 [19 ; 1100] p = 0,2 Nhận xét: Tại các thời điểm trên 3 tháng, có sự giảm đường kính trung bình khối u và chỉ điểm u, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Mức độ đáp ứng của nhóm 13 BN này được thể hiện ở bảng dưới Hình 3: Giảm đường kính, tính chất ngấm thuốc khối u và thay đổi kích thước gan phải sau các thời điểm điều trị. Bảng 10: Mức độ đáp ứng theo RECIST và mRECIST sau can thiệp trên 3 tháng RECIST mRECIST Đáp ứng hoàn toàn CR 0 0 4 30,8% Đáp ứng một phần PR 7 53,8% 3 23% Bệnh ổn định SD 2 15,4% 2 15,4% Bệnh tiến triển PD 4 30,8% 4 30,8% Tổng 13 100% 13 100% Nhận xét: Tại thời điểm 3 tháng tỷ lệ đáp ứng là 53,8%, có 4 BN (30,8%) bệnh tiến triển, trong đó có 02 BN xuất hiện di căn ngoài gan, 02 BN có nốt mới. 3.4. Thời gian sống thêm của nhóm BN. Có 19/25 BN có thời gian theo dõi từ trên 3 tháng sau thời điểm điều trị, trong nhóm này có 1 BN tử vong ở thời điểm 15 tháng do chức năng gan kém, ước lượng thời gian sống thêm trung bình 18,4 ± 0,5 tháng theo Kaplan-Meier. Hình 4: thời gian sống thêm của nhóm 19 bệnh nhân IV. BÀN LUẬN Nút mạch vi cầu phóng xạ là phương pháp điều trị UTBMTBG còn khá mới tại Việt Nam, TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 502 - th¸ng 5 - sè 1 - 2021 215 hiện mới chỉ được triển khai tại một số trung tâm như bệnh viện trung ương quân đội 108, bệnh viện Bạch Mai. Với ưu điểm đưa chất phóng xạ Y-90 gắn trên hạt vi cầu chọn lọc vào khối u, mức độ tập trung liều phóng xạ vào tăng lên đáng kể, hạn chế được tác dụng toàn thân vừa làm tăng hiệu quả điều trị, vừa giảm tác dụng phụ và biến chứng. Nội dung nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào đánh giá đáp ứng về mặt hình ảnh cũng như chỉ điểm u của nhóm BN UTBMTBG được điều trị bằng nút mạch vi cầu phóng xạ với hạt vi cầu Y- 90. Về đối tượng nghiên cứu, các BN được lựa chọn tương đối đa dạng, đặc biệt về kích thước u và giai đoạn, đường kính u nhỏ nhất ~21mm, đường kính lớn nhất lên tới 97mm, đường kính trung bình 55,76 ± 20,95 mm nhỏ hơn so với các tác giả Salem 2010 (đường kính trung bình ~70mm) [4] và Trương Thị Thanh 2016 (đường kính trung bình ~63mm) [6]. Về giai đoạn u có tới 6 BN (24%) có huyết khối tĩnh mạch cửa ở giai đoạn BCLC C. So với các tác giả Trương Thị Thanh có 34,1% BN có huyết khối tĩnh mạch cửa và Sangro 2011 nhóm có huyết khối tĩnh mạch cửa chiếm 23,3% [5]. Huyết khối tĩnh mạch cửa do ung thư gan có tỷ lệ gặp không phải thấp, thể hiện sự tiến triển của u và là 1 yếu tố tiên lượng xấu về đáp ứng điều trị và thời gian sống thêm. Sau thời điểm 01 tháng có 17/25 quay lại khám được làm các xét nghiệm đánh giá chức năng gan, chỉ điểm u và chụp CLVT gan mật có tiêm. Đường kính trung bình sau 1 tháng giảm từ ~51,9mm xuống 46,5mm có ý nghĩa thống kê với p=0,05. Về đáp ứng khối u theo tiêu chuẩn RECIST nghiên cứu của chúng tôi có 6 BN (35,3%) đáp ứng một phần, không có BN nào đáp ứng hoàn toàn, tương tự với các tác giả Keppke AL (2006) nghiên cứu nhóm 42 UTBMTBG điều trị xạ trị trong chọn lọc với Y-90 có 35% đáp ứng một phần, không có đáp ứng hoàn toàn [7]. Tác giả Salem 2011 nghiên cứu nhóm 108 BN, đánh giá đáp ứng trên 76 BN tại thời điểm sau can thiệp 1 tháng có 3% đáp ứng một phần, 90% bệnh ổn định [4], sự khác biệt này nằm ở việc chọn BN vào nghiên cứu. Theo tiêu chuẩn mRECIST nghiên cứu của chúng tôi có 4 BN (23,5%) đáp ứng hoàn toàn, như vậy có sự khác biệt rõ so với tiêu chuẩn RECIST, kết quả này cũng tương tự với tác giả Salem 2011 tại thời điểm 1 tháng có 3 BN (4%) có đáp ứng hoàn toàn theo mRECIST [4]. Tại thời điểm sau điều trị 1 tháng, đường kính u chưa thay đổi đáng kể mà chủ yếu là tính chất ngấm thuốc liên quan đến tăng sinh mạch của khối u, do đó tiêu chuẩn RECIST (đánh giá theo đường kính khối u) và mRECIST (đánh giá theo đường kính phần ngấm thuốc) có sự khác biệt. Tại thời điểm 01 tháng các BN được làm lại xét nghiệm đánh giá chức năng gan, không có sự khác biệt so với thời điểm trước điều trị, cho thấy sự an toàn của phương pháp nút mạch vi cầu phóng xạ. Các thời điểm từ trên 3 tháng có 13 BN đi khám lại, đường kính khối u trung bình từ ~60mm xuống còn ~54mm, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý ngĩa thống kê. Về chỉ điểm u có sự giảm chỉ điểm u (trung vị chỉ điểm u) ở ca 3 xét nghiệm AFP, AFP-L3 và PIVKA-II, sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê, điều này có thể do sự rời rạc của số liệu cùng với cỡ mẫu nhỏ. Về mức độ đáp ứng theo RECIST có 53,8% đáp ứng một phần, kết quả này cũng tương tự với tác giả Keppke AL tỷ lệ đáp ứng sau 3 tháng 43% [7]. Theo mRECIST có 30,8% đáp ứng hoàn toàn, tương đương với tác giả Trương Thị Thanh (2016) nghiên cứu nhóm 41 BN điều trị UTBMTBG bằng xạ trị trong chọn lọc với Y-90 có 29,4% đáp ứng hoàn toàn sau 3 tháng theo mRECIST. Thời điểm 3 tháng vẫn có sự khác biệt về đáp ứng hoàn toàn theo 2 tiêu chuẩn, theo Salem 2011 không có BN nào đáp ứng hoàn toàn theo RECIST nhưng có 4 BN (6%) đáp ứng hoàn toàn theo mRECIST, tương tự với nghiên cứu của chúng tôi. Thời gian sống thêm trung bình của nhóm BN theo dõi trên 3 tháng là 18,4 ± 0,5 tháng, kết quả này tương đương với tác giả Trương Thị Thanh 18.4 ±1.8 tháng và Salem 2011 là 16,4 tháng. Một số điểm hạn chế của nghiên cứu: Thứ nhất là nghiên cứu thực hiện trong thời gian trải dài cùng với những hạn chế đến từ đại dịch Covid-19 gây ảnh hưởng đến quá trình tái khám và theo dõi BN sau điều trị, do đó thời điểm 1 tháng và sau 3 tháng, nhóm BN đi khám không hoàn toàn trùng khớp. Thứ hai là cỡ mẫu thuận tiện lấy trong thời gian nghiên cứu với sự đa dạng từ đường kính khối u đến giai đoạn khối u. Thứ ba là thời gian nghiên cứu theo dõi còn ngắn với một số bệnh nhân mới được nút mạch, và sẽ tiếp tục theo dõi, như vậy chưa đánh giá hết được thời gian sống thêm của phương pháp này. V. KẾT LUẬN Nút mạch với hạt vi cầu phóng xạ Y-90 là phương pháp điều trị có hiệu quả, an toàn , đặc biệt với các khối u lớn và ở giai đoạn không còn chỉ định phẫu thuật. Cần thêm các nghiên cứu theo dõi thời gian sống đề khẳng định vai trò của phương pháp này. vietnam medical journal n01 - MAY - 2021 216 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sung H., Ferlay J., Siegel R.L., et al. (2021). Global Cancer Statistics 2020: GLOBOCAN Estimates of Incidence and Mortality Worldwide for 36 Cancers in 185 Countries. CA Cancer J Clin, 71(3), 209–249. 2. Rana N., Ju A.W., Bazylewicz M., et al. (2013). Yttrium-90 Radioembolization in Patients with Hepatocellular Carcinoma Who have Previously Received Sorafenib. Front Oncol, 3, 323. 3. Braat A.J.A.T., Huijbregts J.E., Molenaar I.Q., et al. (2014). Hepatic Radioembolization as a Bridge to Liver Surgery. Front Oncol, 4. 4. Salem R., Lewandowski R.J., Mulcahy M.F., et al. (2010). Radioembolization for hepatocellular carcinoma using Yttrium-90 microspheres: a comprehensive report of long- term outcomes. Gastroenterology, 138(1), 52–64. 5. Sangro B., Carpanese L., Cianni R., et al. (2011). Survival After Yttrium-90 Resin Microsphere Radioembolization of Hepatocellular Carcinoma Across Barcelona Clinic Liver Cancer Stages: A European Evaluation. Hepatology (Baltimore, Md), 54, 868–78. 6. Trương Thị Thanh (2016) Đánh giá hiệu quả bước đầu trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp nút mạch sử dụng hạt vi cầu phóng xạ Yttrium-90. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Trường Đại Học Y Hà Nội 7. Keppke A.L., Salem R., Reddy D., et al. (2007). Imaging of Hepatocellular Carcinoma After Treatment with Yttrium-90 Microspheres. American Journal of Roentgenology, 188(3), 768–775. NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI NỒNG ĐỘ NT-PROBNP HUYẾT TƯƠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN NHỊP TIM TIM Ở BỆNH NHÂN SUY TIM DO BỆNH TIM THIẾU MÁU CỤC BỘ MẠN TÍNH Đoàn Thịnh Trường1,2, Nguyễn Oanh Oanh2, Nguyễn Quang Toàn3 TÓM TẮT51 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 136 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính có suy tim tại Bệnh viện Quân y 103 và Bệnh viện Tim Hà Nội từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 1 năm 2021. Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán và loại trừ. Bệnh nhân nghiên cứu đều được định lượng NT-proBNP khi nhập viện và sau đợt điều trị. Sử dụng thuật toán thống kê y học để xác định sự biến đổi nồng độ NT-proBNP theo các đặc điểm suy tim và đặc điểm rối loạn nhịp tim. Kết quả: Nhóm bệnh nhân > 75 tuổi có mức NT-proBNP trung bình cao nhất 3468,975 ± 7876,498 pg/ml. Nhóm < 50 tuổi có giá trị thấp nhất 519,139 ± 160,953 pg/ml. Sự khác biệt là có ý nghĩa với p=0,017. NT-proBNP đều có biến đổi, nhóm có tuổi càng cao thì giá trị càng tăng. Nồng độ NT-proBNP ở nhóm có chức năng tâm thu thất trái giảm thấy cao hơn so với nhóm có chức năng tâm thu thất trái bình thường hoặc giảm nhẹ. Số lượng ngoại tâm thu thất trước và sau điều trị cũng có sự thay đổi đáng ghi nhận, sau điều trị số lượng ngoại tâm thu thất giảm đi đáng kể sự khác biệt là có ý nghĩa p<0,001. Kết luận: Nồng độ NT-proBNP có liên quan tới tuổi và mức độ suy tim theo NYHA, và mối liên quan nghịch giữa nồng độ NT-proBNP với chức năng tâm thu thất trái. Rối loạn nhịp tim đặc biệt là ngoại tâm thu thất 1Bệnh viện Đa khoa huyện Hoài Đức 2Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 3Bệnh viện trung ương Thái Nguyên Chịu trách nhiệm chính: Đoàn Thịnh Trường Email: bsdoanthinhtruong@gmail.com Ngày nhận bài: 8.3.2021 Ngày phản biện khoa học: 23.4.2021 Ngày duyệt bài: 7.5.2021 là hay gặp nhất ở bệnh nhân suy tim có bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính. Từ khóa: NT-proBNP, suy tim, bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính SUMMARY RESEARCH ON VARIOUS PLASMA NT- PROBNP AND CHARACTERISTICS ARRHYTHMIAS OF THE HEART FAILURE IN STABLE ISCHEMIC HEART DISEASE Objectives: To various plasma NT-proBNP and characteristics arrhythmia of the heart failure in stable ischemic heart disease. Subjects and methods: A cross-sectional descriptive study on 136 chronic heart failure were diagnosed as stable ischemic heart disease at Military Hospital 103 and Hanoi Heart Hospital from October 2016 to January 2021. Participants were eligible for inclusion and exclusion criteria. NT-proBNP was taken at the admission and after treatment. Medical statistical algorithm was used to determine the correlation between symptoms of heart failure, ventricular arrhythmia and plasma NT- proBNP. Results: The group over 75 years old had the highest mean NT-proBNP level 3468,975 ± 7876,498 pg/ml. The group under 50 years old had the lowest value 519,139±160,953pg/ml. The difference was significant with p = 0.017. NT-proBNP all had changes, the older the group, the higher the value. NT-proBNP concentrations in the group with decreased left ventricular ejection function were found to be higher than those in the group with normal or slightly decreased left ventricular systolic function. The number of ventricular ectopic units also had a remarkable change before and after treatment, the number of ventricular extrasystole significantly decreased after the treatment, the difference was significant p <0.001. Conclusion: NT-proBNP are
File đính kèm:
- danh_gia_ket_qua_buoc_dau_dieu_tri_ung_thu_bieu_mo_te_bao_ga.pdf