Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19

COVID-19 là bệnh đại truyền nhiễm gây bởi virus đơn RNA thuộc nhóm corona virus gọi là 2019 nCoV

(SARS-CoV-2). Bệnh lây rất nhiều, phần lớn bởi các giọt bắn hay do tiếp xúc trực tiếp. Tần suất bệnh tăng

rất khủng khiếp, nhân viên y tế phải tiếp xúc chăm sóc bệnh nhân rất nặng, tiếp xúc với thân nhân bệnh

nhân và các đồng nghiệp khác nên việc lây nhiễm chéo rất dễ xảy ra. Bài này nhắc lại phần tổng quan về

COVID-19 cũng như nhắc lại các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm căn bản cho nhân viên y tế và phẫu

thuật viên trong thời đại dịch COVID-19.

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 1

Trang 1

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 2

Trang 2

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 3

Trang 3

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 4

Trang 4

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 5

Trang 5

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 6

Trang 6

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 7

Trang 7

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19 trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 6460
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19

Phẫu thuật trong thời đại dịch Covid - 19
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 113 
PHẪU THUẬT TRONG THỜI ĐẠI DỊCH COVID-19 
LÊ QUANG NGHĨA1 
Địa chỉ liên hệ: Lê Quang Nghĩa 
Email: prof.lequangnghia@gmail.com 
1GS. Cố vấn chuyên môn Bệnh viện Bình Dân 
Ngày nhận bài: 01/10/2020 
Ngày phản biện: 03/11/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 
ĐẠI CƯƠNG 
Cuối tháng 12 năm 2019, dịch viêm phổi cấp 
không rõ nguyên nhân xảy ra ở Vũ Hán, tỉnh Hà Bắc 
(Trung Quốc). Nguyên nhân được cho là do dòng 
Coronavirus chủng mới. Lúc đầu được gọi là 
coronavirus 2 (SARS-CoV-2) gây hội chứng suy hô 
hấp cấp và WHO định danh là bệnh coronavirus 
2019 (COVID-19). Về sau WHO xác định virus là 
2019-nCoV. 
Virus gây bệnh là một trong nhóm các virus gọi 
chung là họ coronavirus. Về di truyền virus này gồm 
một chuỗi RNA. Ngày 11/3/2020 WHO tuyên bố 
bệnh này là đại dịch và vào ngày 9/5/2020 bệnh đã 
lan truyền trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ với 
hơn 3.887.914 người nhiễm và trên 270.537 người 
tử vong. Đến ngày 24/7/2020 toàn cầu có 
15.265.081 bệnh nhân, tử vong 624.370, số người 
hồi phục là 8.708.362. Ngày 28/8/2020 toàn cầu có 
24.215.678 bệnh nhân. Tại Việt Nam đến ngày 
24/7/2020 có 412 bệnh nhân và không có tử vong. 
Ngày 28/8/2020 Việt Nam có 1.036 bệnh nhân, tử 
vong 30 người. 
Như vậy 2019- nCoV là nhân tố thứ 7 lây truyền 
trên người. Trong 2 thập niên qua 2 đại dịch trầm 
trọng xảy ra do 2 chủng virus mới, đó là hội chứng 
suy hô hấp cấp SAR-CoV và hội chứng suy hô hấp 
Trung Đông MERS-CoV. Hai loại virus này này 
nhiễm hơn 8000 với tỷ lệ tử vong là 10 - 35%[1]. 
TRUYỀN BỆNH 
Các báo cáo sớm cho rằng virus 2019-nCoV có 
trong loài dơi nhưng ký chủ trung gian thì chưa rõ. 
Người truyền bệnh qua người qua các giọt nhỏ và 
tiếp xúc trực tiếp giữa người bệnh và người lành. Dù 
virus được tìm thấy trong nước mắt và phân của 
bệnh nhân nhưng bệnh có truyền qua ngả miệng. 
phân và kết mạc mắt hay không thì không rõ[1]. 
Bệnh rất hay lây. Vài báo cáo cho thấy hệ số 
lây R0 là 2.20 đến 3.58 nghĩa là 1 người bệnh có thể 
lây qua 2 hay 3 người khác[1]. 
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG 
Thời kỳ ủ bệnh của virus là 14 ngày, trung bình 
là 5,2 ngày. Một trường hợp không có triệu chứng có 
một trong các triệu chứng sau 12,5 ngày sau tiếp 
xúc. 
Bệnh nhân bị COV-19 có thể không có triệu 
chứng hoặc có triệu chứng xếp từ nhẹ đến suy hô 
hấp hay suy đa tạng. Chủ yếu là bệnh nhân có sốt, 
ho khan, đau cơ, mệt và khó thở. Các triệu chứng 
khác ít gặp hơn gồm tiêu chảy, đau bụng, chóng 
mặt, ho có đàm, đau ngực và ho ra máu[4]. 
Các tác giả Trung Quốc chia bệnh nhân ra làm 
4 loại: nhẹ, trung bình, nặng và rất nặng. Thể nhẹ có 
triệu chứng nhẹ và trên X quang không có tổn 
thương phổi. Thể trung bình có sốt và triệu chứng hô 
hấp và trên X quang có dấu viêm phổi. 
Thể nặng có triệu chứng khó thở, thở nhanh 
(nhịp thở > 30/phút), nồng độ Oxy/máu < 93% và tổn 
thương phổi thâm nhiễm trên 50% trong 24 - 48 giờ. 
Thể rất nặng có sốc nhiễm trùng, suy hô hấp và 
suy đa tạng. Đánh giá bước đầu thì tỷ lệ tử vong là 
4,49%[1][5]. 
TÓM LƯỢC 
COVID-19 là bệnh đại truyền nhiễm gây bởi virus đơn RNA thuộc nhóm corona virus gọi là 2019 nCoV 
(SARS-CoV-2). Bệnh lây rất nhiều, phần lớn bởi các giọt bắn hay do tiếp xúc trực tiếp. Tần suất bệnh tăng 
rất khủng khiếp, nhân viên y tế phải tiếp xúc chăm sóc bệnh nhân rất nặng, tiếp xúc với thân nhân bệnh 
nhân và các đồng nghiệp khác nên việc lây nhiễm chéo rất dễ xảy ra. Bài này nhắc lại phần tổng quan về 
COVID-19 cũng như nhắc lại các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm căn bản cho nhân viên y tế và phẫu 
thuật viên trong thời đại dịch COVID-19. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 114 
Ngày 29/4/2020 Trung tâm CDC (Mỹ) chính 
thức bổ sung 6 triệu chứng mới của bệnh COVID- 
GS. Cố vấn chuyên môn Bệnh viện Bình Dân 
19: ớn lạnh, run rẩy, đau cơ, đau đầu, đau họng 
và mất vị giác hoặc khứu giác. 
ĐỊNH BỆNH LÂM SÀNG 
Trong giai đoạn rất sớm của bệnh thì công thức 
bạch cầu bình thường. Triệu chứng thường gặp của 
COVID-19 là leucopenia, lymphopenia. Một số bệnh 
nhân có tăng lactate dehydrogenase, creatinine 
kinase, alanine aminotransferase và aspartate 
aminotransferase[1][2][3]. 
Lymphopenia được xem là triệu chứng chính 
của bệnh này. Khoảng 30% bệnh nhân có gia tăng 
bất thường lượng D-Dimer. Trong đa số các trường 
hợp thì procalcitonin bình thường, C-reactive protein 
tăng. 
Hình ảnh CT[6] liên hệ với 4 thể lâm sàng: nhẹ, 
trung bình, nặng và rất nặng. Ở thể nhẹ thì CT bình 
thường. Ở thể trung bình thì có solid plaque shadow 
và halo sign (ground glass opacity bao quanh một 
nhân hay một khối nhu mô phổi). Các tổn thương 
này hiện diện trong 91% các trường hợp. Trường 
hợp nặng có fibrous strip shadow với thay đổi 
ground glass, tổn thương đa dạng thấy trong 95% 
các trường hợp. Đông đặc phổi là tổn thương chính 
trong thể nặng[1]. 
Hình 1. X quang phổi cho thấy 
viêm phổi hai bên và ở ngoại biên 
Hình 2. X quang phổi cho thấy diễn tiến sau 
5 ngày 
Hình 3. X quang chụp nghiêng. 
Diễn tiến sau 5 ngày 
Hình 4. CT ngực cho thấy bilateral 
peripheric ground glass opacities (kính mờ) 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 115 
Hình 5. Các tổn thương (mũi tên đỏ) 
a. Ground glass opacity[6] 
Hình 6. Các tổn thương (mũi tên đỏ) 
b. Đông đặc (consolidation) 
Hình 7. Các tổn thương (mũi tên đỏ). 
c. Đông đặc và Ground glass opacities 
Hình 8. Các tổn thương (mũi tên đỏ). 
d. Nhân đặc 
Hình 9. CT: Hình ảnh đông đặc và ground glass 
opacities 
Hình 10. CT 2 ngày sau, đậm độ tổn thương 
bớt nhiều 
Hình 11. CT của bệnh nhân sốt 8 ngày Hình 12. CT của bệnh nhân 4 ngày sau 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 116 
a. Hình ảnh ground glass và đông đặc b. Hình ảnh không bớt 
Hình 13. Bệnh nhân sốt 1 ngày 
a. Tổn thương ground glass 
Hình 14. Bệnh nhân 3 ngày sau. 
b. Kích thước tổn thương và đậm độ lớn hơn 
Hình 15. CT của bệnh nhân sốt và ho 3 ngày. 
a. Không có tổn thương 
Hình 16. CT của bệnh nhân 4 ngày sau. 
b. Xuất hiện nhiều tổn thương ground glass 
Tóm lại, CT cho thấy tổn thương thường gặp là 
ground glass (kính mờ) ở ngoại vi 2 bên phổi và thay 
đổi rất nhanh nhất là khi có tiền sử dịch tễ và có 
giảm tế bào lympho[1][6]. Có một số bệnh nhân hình 
phổi bình thường nhưng NAT (Nucleic Acid Testing) 
dương tính[1][6]. 
Tìm ra RNA của virus qua xét nghiệm real-time 
reverse transcriptase-polymerase chain reaction 
(rRT-PCR) là xác nhận định bệnh lâm sàng. Nhạy 
nhất để xác định COVID-19 là lấy cả 2 mu dịch hô 
hấp trên và dưới. 
Dịch rửa khí quản cho kết quả dương tính cao 
nhất 93% các trường hợp, kế đến đàm 72%, phết 
mũi 63%, chải khí quản 46% và phết hầu 32%. Thử 
phân chỉ dương tính 29% và thử máu 1%. Dù dịch 
rửa khí quản dương tính cao nhất nhưng CDC Mỹ 
khuyến cáo chỉ lấy mẫu phết hầu - họng vì an toàn 
cho nhân viên y tế ít nguy cơ bị các giọt bắn[1]. 
Một xét nghiệm bổ sung là serology thử kháng 
thể IgM và IgG. 
Xét nghiệm rRT-PCR, thử IgM, IgG cộng với CT 
ngực là bộ 3 xét nghiệm cần thiết để xác định bệnh 
COVID-19. 
TRƯỚC NHẬP VÀ KHI NHẬP VIỆN[1][3][5][7][8][9] 
Tất cả mọi bệnh nhân trước khi mổ đều được 
phân ra 3 loại xem có nguy cơ nhiễm nCoV-2019 
không: 
- Không nhiễm 
- Có nhiễm nhưng không triệu chứng 
- Bị nhiễm 
Cần làm rõ thể trạng chung của bệnh nhân, có 
bệnh hô hấp hay tiêu hóa đang diễn tiến hay gần 
đây không, thay đổi khứu giác (anosmia), có tiền sử 
đi vào vùng dịch trong vòng 14 ngày hay có tiếp xúc 
với bệnh nhân bị nCoV-19. 
Mọi bệnh nhân đi mổ cần thử nghiệm dù rằng 
không có triệu chứng. Dù tình trạng nhiễm bệnh như 
thế nào thì mọi cuộc mổ chương trình đều được 
hoãn lại. 
Mọi bệnh nhân nghi ngờ hay có bệnh đều phải 
đánh giá rõ xác định có bệnh. Nếu định bệnh rõ rồi 
thì cho cách ly. Mặt khác bệnh nhân không nghi ngờ 
hoặc đã khỏi bệnh cần cho nằm phòng riêng để 
ngừa nhiễm chéo với bệnh nhân trong thời ủ bệnh 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 117 
hay bệnh nhân không có triệu chứng (25 - 50% các 
trường hợp). 
Trong trường hợp cấp cứu đe dọa mạng sống 
mà không thử được PCR thì đều phải xem như có 
bệnh CoVID và xử trí y như người bị bệnh. Mọi biện 
pháp trước trong và sau mổ đều được thực hiện cho 
đến khi định ra bệnh hay khi bệnh nhân được xuất 
viện[3][4][7][8][9]. 
Bảng 1. Các loại phẫu thuật[5]. 
Chỉ định Độ khẩn 
cấp 
Loại phẫu thuật 
Tối khẩn 
(emergent) < 1 giờ 
- Đe dọa tính mạng 
- Sốc mất máu 
- Chấn thương nặng 
- Vết thương/tắc mạch máu 
- Bóc tách động mạch chủ 
- Viêm hoại tử cân 
- Viêm phúc mạc 
- Tắc ruột/thủng ruột 
Khẩn 
(urgent) < 24 giờ 
- Viêm ruột dư/viêm túi mật 
- Viêm khớp nhiễm trùng 
- Gãy xương hở 
- Gãy xương chậu xuất huyết 
- Gãy thân xương đùi/gãy 
khớp háng 
- Chấn thương thần kinh cấp/ 
chấn thương cột sống 
- Nhiễm trùng ngoại khoa 
Khẩn chọn lọc 
(Urgent 
elective) 
< 2 tuần 
- Mổ cardiothoracic/ 
cardiovascular 
- Mổ phình mạch máu não 
- Đặt lỗ dò mạch máu 
- Ghép da, khâu vết mổ 
- Gãy xương kín 
- Gãy cột sống/ gãy khớp 
háng 
Elective 
(essential) 1 - 3 tháng 
- Mổ ung thư/ sinh thiết 
- Sửa van tim bán cấp 
- Mổ thoát vị 
- Cắt tử cung 
- Mổ tạo hình 
Elective 
(discretionary) >3 tháng 
- Mổ thẩm mỹ 
- Mổ điều trị béo phì 
- Thay khớp 
- Mổ thể thao 
- Cột thừng tinh/ cột vòi trứng 
- Mổ vô sinh 
BIỆN PHÁP CHU PHẪU Ở BỆNH NHÂN BỊ COVID-
19[1][7][8][9] 
Biện pháp tiền phẫu 
Mọi nhân viên y tế đều phải mang găng, đội mũ 
và mang khẩu trang đúng đắn. Đối với bệnh nhân 
nghi ngờ hoặc đã có bệnh thì phải áp dụng biện 
pháp phòng ngừa thật nghiêm ngặt đến mức cao 
nhất. Mọi nhân viên đều phải dùng personel 
protective equipment (PPE) gồm có khẩu trang N95, 
face shield, áo quần cách ly, ủng, 2 lớp găng, bọc 
ủng để tránh tiếp xúc tối đa với giọt bắn. Mọi nhân 
viên y tế phải rửa tay trước và sau khi tiếp xúc với 
bệnh nhân và sau khi tháo găng. 
Vì nhân viên y tế tiếp xúc với bệnh nhân, với 
thân nhân và với đồng nghiệp thì nguy cơ lây nhiễm 
chéo rất cao vì vậy mỗi ngày họ cần được đánh giá 
về sức khỏe và đo nhiệt độ. người nào nhiệt độ cao 
đều phải được cách ly và phải xác định xem có 
nhiễm bệnh không. 
Chuyên viên gây mê trang bị đầy đủ oxy 100% 
cho bệnh nhân trong 3 đến 5 phút rồi dẫn mê và đặt 
nội khí quản nhanh để tránh vương vãi virus. Sau khi 
gở bỏ PPE rồi thì phải rửa tay trước khi chạm đồ vật 
chung quanh. 
Nên dùng Heat and Moisture Exchange Filter 
(HMEF) giữa mask và hệ thống ống thở như vậy có 
thể lấy đi 99,97% các giọt nhỏ theo không khí có 
kích thước lớn hơn 0,3 microns. Các thiết bị gây mê 
chỉ dùng một lần cho một bệnh nhân và máy gây mê 
phải được tẩy trùng đúng nguyên tắc sau đó. 
Biện pháp trong khi mổ 
Bệnh nhân rất nghi ngờ hay bị CoVID-19 cần 
mổ trong phòng mổ áp lực âm. Cần giữ độ chênh áp 
lực với bên ngoài là - 4.7. Pa. Nhân viên y tế cần có 
mặt tối thiểu và cần đo nhiệt độ phòng mổ trước khi 
mổ. 
Phẫu thuật viên và đồng nghiệp cần lưu ý đến 
máu và dịch tiết, cần làm sạch dịch này trên dụng 
cụ. Các thủ thuật gây ra xì hơi làm dễ bị lây nhiễm 
chéo cho nhân viên như đặt nội khí quản, rút nội khí 
quản, đặt ống thông ngực (chest tube), nội soi khí 
quản, bóp bóng, nội soi tiêu hóa, nội soi hầu - họng, 
nội soi ổ bụng và việc dùng máy đốt thì cần dùng 
năng lượng tối thiểu để tránh khói và dùng thiết bị 
hút khói. 
Cần cẩn thận khi chọn giữa mổ mở 
(laparotomy) và mổ nội soi ổ bụng (laparoscopy). Mổ 
ngả nội soi ổ bụng dành cho bệnh nhân có tình trạng 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 118 
tim-phổi và thể trạng tốt. Cần lưu ý cẩn thận khi bơm 
hơi vào ổ bụng. Bơm hơi vào ổ bụng làm giảm thể 
tích phổi, tăng áp lực ống thở, tăng độ ứ đọng CO2 
và làm giảm co giãn phổi. Vì vậy nhiễm trùng chu 
phẫu nCoV-19 sẽ cao. Để làm giảm tai hại của bơm 
hơi ổ bụng trên chức năng phổi, trên hệ tuần hoàn 
và trên việc nhiễm vi trùng thì áp lực bơm hơi và áp 
lực CO2 phải thấp nhất. Khói trong phòng mổ và xì 
hơi ổ bụng phải dùng thiết bị nối với máy hút chân 
không. 
Mổ mở cũng là một chọn lựa. Phẫu thuật viên 
phải quen thuộc với việc xử dụng các phương tiện 
phòng ngừa bản thân (PPE). 
Phòng áp lực âm là phòng cách ly đặc biệt chỉ 
sử dụng trong điều trị những ca bệnh nặng, nguy cơ 
lây nhiễm rất cao được các bệnh viện xây dựng để 
tránh tình trạng lây nhiễm chéo. 
Phòng áp lực âm là một căn phòng có áp suất 
thấp hơn xung quanh. Trong căn phòng này, không 
khí chỉ có thể đi vào từ một phía và không thể thoát 
ra qua phía ngược lại. Điều này có nghĩa là gió sẽ 
luôn thổi từ ngoài cửa vào trong. 
Để duy trì được áp suất âm trong phòng, phòng 
được thiết kế với trần nguyên khối, cửa ra vào khít 
với khe hở, vòi nước, ổ cắm điện, cửa sổ đều được 
bịt kín. 
Một hệ thống bơm hút gió sẽ giúp áp suất trong 
phòng giảm xuống. Ống hút gió thường đặt ngay 
gần đầu giường bệnh. 
Hình 17. Phối cảnh phòng cách ly áp lực âm. 
(Ảnh Internet) 
Không khí ô nhiễm trong phòng sẽ được xử lý 
bằng hệ thống lọc không khí hiệu quả cao HEPA 
(High-efficiency particulate air), lọc virus trước khi 
thoát ra ngoài theo hệ thống thông gió. Thiết kế này 
giúp giảm khả năng lây lan của virus, tránh hiện 
tượng lây nhiễm chéo giữa các bệnh nhân và nhân 
viên y tế. 
Hình 18. Phòng áp lực âm 
Hệ thống lọc HEPA hoạt động dựa trên cơ chế 
khyếch tán và hút tĩnh điện cho phép bắt được các 
hạt nhỏ hơn kích thước khe hở, 0,3 micromet. Các 
giọt bắn của mầm bệnh thường có kích thước từ 
hàng chục micromet trở lên, vì vậy bộ lọc HEPA có 
thể xử lý >99,99% không khí trong đường ống hút từ 
phòng áp lực âm. Virus được giữ lại trên các màng 
lọc này, chúng có thể tự chết hoặc bị chết khi nhân 
viên kỹ thuật bệnh viện khử trùng bộ lọc và thay mới. 
Không khí sạch tự nhiên được đưa vào phòng 
áp lực âm qua các cửa hút. Toàn bộ không khí trong 
phòng sẽ được thay mới 5 phút một lần. 
Giữa phòng cách ly và hành lang còn có 2 
phòng nhỏ (buồng đệm). Phòng đệm đầu tiên là nơi 
các nhân viên y tế mặc đồ bảo hộ gồm quần áo 
chống nước, găng tay phẫu thuật, khẩu trang, mủ 
trùm giày (ủng) và mũ trùm đầu trước khi vào phòng 
cách ly. 
Sau khi điều trị cho bệnh nhân, nhân viên y tế 
sẽ rời phòng cách ly bằng phòng đệm thứ hai. Tại 
đây, quần áo đã tiếp xúc với bệnh nhân và kim phẫu 
thuật sẽ được lấy ra và mang đi đốt. 
Biện pháp sau khi mổ 
Hậu phẫu các mẫu bệnh phẩm phải được ghi 
chú rõ là nCoV-2019 trước khi gởi đến khoa bệnh lý. 
Các bệnh nhân không bị nhiễm vẫn được về khoa 
như bình thường. 
Với bệnh nhân bị nhiễm thì mỗi ngày cần đo 
thân nhiệt và theo dõi về hệ hô hấp. Mọi bệnh nhân 
mới sốt và mới xuất hiện ho thì phải cách ly và phải 
xét nghiệm rốt ráo để xem có phải là nhiễm nCoV-
2019 không. 
Bệnh nhân bị nghi ngờ hay đã xác nhận bệnh 
cần được cách ly trong phòng riêng với áp suất âm, 
cung cấp đủ oxy và thực hiện việc phun khí. Thăm 
khám sau mổ, cho thuốc và chăm sóc vết mổ được 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 119 
thực hiện với các biện pháp vô trùng thật nghiêm 
nhặt để tránh tiếp xúc với các dịch tiết. 
Trường hợp nghi ngờ COVID-19 thì mọi nhân 
viên y tế đều phải được cách ly và theo dõi cho đến 
khi bệnh nhân hết bệnh xuất viện. Nếu đã xác định 
COVID-19 hay trước đó đã biết thì mọi nhân viên y 
tế dính vào trường hợp này phải được cách ly 14 
ngày sau mổ[1][7][8][9]. 
KẾT LUẬN 
Trong thời đại dịch COVID-19 mọi nhân viên y 
tế đều phải thực thi mọi biện pháp phòng ngừa cá 
nhân [personel protective equipment (PPE)] để tránh 
mọi truyền nhiễm và tránh các biến chứng không 
mong muốn. 
Với các phẫu thuật cứu mạng mọi bệnh nhân 
phải được xử lý như đã bị COVID-19 cho đến khi có 
bằng chứng ngược lại. 
Các phẫu thuật chương trình đều được hoản 
lại. Chỉ giải quyết các trường hợp cấp cứu ảnh 
hưởng tính mạng và các phẫu thuật ung bướu tiên 
lượng sẽ xấu hơn nếu trì hoãn. Mổ qua nội soi ổ 
bụng vẫn là chọn lựa với các dự phòng khi bơm hơi 
ổ bụng, chú ý sinh lý tim - phổi và khi rút khí khỏi ổ 
bụng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Al-Balas M-Al- Balas HI- Al-Balas H: Surgery 
during the COVID-19 Pandemic: A 
comprehensive overview and perioperative care. 
Am.J.Surg. 2020.04.018. 
2. Loeffelholz MJ et al: Laboratory diagnosis for 
emerging of human coronavirus infections - the 
state of the art. Emerg Microb Infec. 2020. 
3. Ti LK et al: What we do when a COVID-19 
patient needs an operation: operating room 
preparation and guidance. Can J Anesth/J Can 
Anesth. 2020. 
4. Zhou Zili et al: Effect of gastrointestinal 
symptoms on patients infected with COVID-19. 
Gastroenterology. 2020. 
5. Stahel Ph F: How to risk-stratify elective surgery 
during the COVID-19 pandemic ? Patient Safety 
in Surgery. BMC; 14-8. 2020. 
6. Li X et al: CT imaging changes of corona virus 
disease 2019 (COVID-19): a multi-center study 
in Southwest China. J Transl Med 18:154. 2020. 
7. Patriti A et al: What happened to surgical 
emergencies in the era of COVID-19 outbreak ? 
Considerations of surgeons working in an italian 
COVID-19 red zone. Updates in Surgery. 
Published online 23 April 2020. 
8. Fistenberg MS et al: Isolation protocol for a 
COVID-2019 patient requiring emergent surgical 
intervention: case presentation. Patient Safety in 
Surgery. BMC. 14: 15. 2020. 
9. Isabel M et al: The surgeons and the COVID-19 
pandemic. Technical Note. Rev Col Bras Cir 47: 
2536.2020. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 120 
ABSTRACT 
Surgery during the COVID-19 pandemic 
COVID-19 disease is a pandemic disease caused by a single stranded RNA virus that belongs to the 
coronavirus family known as 2019-nCoV (SARS-CoV-2). The disease is and highly contagious and transmitted 
mainly by droplets or close contact. As the global incidence of COVID-19 disease is increasing dramatically, 
health systems worldwide started to suffer in terms of its capability to manage affected people and the ability to 
provide standard treatment for critically ill patients in a safe environment. As Medical staff has extensive contact 
with patients, families as well as other health care providers, they are very likely to cause cross-infection. 
This paper aims to provide a comprehensive overview of COVID-19 disease as well as to highlight to essential 
measures that healthcare providers and surgeons need to take into consideration during their management of 
the patient during the COVID-19 pandemic. 

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_trong_thoi_dai_dich_covid_19.pdf