Đánh giá hiện trạng tuân thủ luật quốc tế về tiếp thị các sản phẩm thay thế sữa mẹ của các công ty sản xuất sản phẩm thay thế sữa mẹ
Nhóm tác giả xin ghi nhận sự tận tâm và quá trình làm việc vất vả của nhóm làm việc từ cơ
quan đối tác tại Hà nội, Viện nghiên cứu Y - Xã hội học (ISMS). Không có các anh chị, nghiên
cứu thử nghiệm này sẽ không thể hoàn thành một cách thành công. Đặc biệt, chúng tôi xin
cảm ơn Thạc sỹ Bùi Đại Thụ - điều phối nghiên cứu, Thạc sỹ Nguyễn Thị Linh - trợ lý điều
phối nghiên cứu, và Tiến sỹ Nguyễn Trương Nam, Giám đốc Điều hành, vì những nỗ lực
không ngừng nghỉ của các anh chị trong quá trình triển khai điều tra, hỗ trợ kiểm tra dữ
liệu để phân tích, và đưa các số liệu vào báo cáo cuối cùng. Chúng tôi cũng xin cảm ơn PGS,
Tiến sỹ Đinh Phương Hoa đến từ Viện nghiên cứu Sức khoẻ Trẻ em của Việt Nam và nguyên
là PGS tại Trường Cao đẳng Sức khoẻ Công và Phó Vụ trưởng Vụ Sức khoẻ Bà mẹ Trẻ em, Bộ
Y tế, đã đóng góp cho nghiên cứu với cương vị là chuyên gia dinh dưỡng trẻ sơ sinh. TS. Hoa
tư vấn cho nhóm nghiên cứu về các khuyến nghị nuôi con bằng sữa mẹ, các quy định có liên
quan, và so sánh các quy định trong nước với Luật Quốc tế về Marketing cho Các Sản phẩm
thay thế sữa mẹ.
Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thành viên chính trong nhóm nghiên cứu Westat vì
những đóng góp to lớn của các anh chị trong nghiên cứu thử nghiệm này. Tiến sỹ Adam
Chu, Phó Chủ tịch cao cấp và Chuyên gia Thống kê Cao cấp đã đóng góp vào thiết kế, chọn và
tính mẫu. Thạc sỹ Richard Mitchell, Giám đốc Công nghệ Thông tin và Chuyên gia Phân tích
Hệ thống Cao cấp đã chủ trì thực hiện các ứng dụng công nghệ thông tin cần thiết để nhập
và chuyển tải số liệu. Ông Dương Quân, Kỹ sư Phát triển bộ số liệu cao cấp đã xây dựng ứng
dụng nhập liệu. Thạc sỹ Emmanuel Aluko đã quản lý dữ liệu. Dallaporn Chaisangrit, chuyên
gia nghiên cứu số liệu đã đào tạo cho nhóm nhập liệu từ kết quả điều tra và giám sát chất
lượng số liệu. Thạc sỹ Belinda Yu, chuyên gia lập trình thống kê đã hỗ trợ lập trình để phân
tích số liệu thống kê. Kate Wilczynska-Ketende, Cố vấn Kỹ thuật cao cấp với kinh nghiệp
triển khai các đánh giá của Nhóm liên cơ quan giám sát thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ
(IGBM) đã tư vấn kỹ thuật cho Quỹ tiếp cận Dinh dưỡng ATNF và nhóm nghiên cứu Westat
trong quá trình thiết kế các khảo sát của ATNF. Việc này không ngụ ý bà đã có ý kiến chấp
nhận phần nghiên cứu hay kết quả từ phía bà.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiện trạng tuân thủ luật quốc tế về tiếp thị các sản phẩm thay thế sữa mẹ của các công ty sản xuất sản phẩm thay thế sữa mẹ
Đánh giá hiện trạng tuân thủ Luật Quốc tế về Tiếp thị các Sản phẩm Thay thế Sữa mẹ của các công ty sản xuất Sản phẩm Thay thế Sữa mẹ Báo cáo cuối cùng của Việt Nam Các tác giả Stephen J. Durako, BA, Phó chủ tịch Mamadou S. Diallo, PhD, Chuyên gia thống kê cao cấp Mekkla Thompson, MPH, CHES, Giám đốc nghiên cứu Katherine E. Aronson, MA, Trợ lý nghiên cứu Tháng 1, 2016 Báo cáo chuẩn bị cho: Thực hiện bởi: Quỹ tiếp cận Dinh dưỡng (Access to Nutrition Westat Foundation) Tập đoàn nghiên cứu của nhân viên (An Employee- Hà Lan Owned Research Corporation)® 1600 Research Boulevard Rockville, Maryland 20850-3129 (301) 251-1500 Lời cảm ơn Nhóm tác giả xin ghi nhận sự tận tâm và quá trình làm việc vất vả của nhóm làm việc từ cơ quan đối tác tại Hà nội, Viện nghiên cứu Y - Xã hội học (ISMS). Không có các anh chị, nghiên cứu thử nghiệm này sẽ không thể hoàn thành một cách thành công. Đặc biệt, chúng tôi xin cảm ơn Thạc sỹ Bùi Đại Thụ - điều phối nghiên cứu, Thạc sỹ Nguyễn Thị Linh - trợ lý điều phối nghiên cứu, và Tiến sỹ Nguyễn Trương Nam, Giám đốc Điều hành, vì những nỗ lực không ngừng nghỉ của các anh chị trong quá trình triển khai điều tra, hỗ trợ kiểm tra dữ liệu để phân tích, và đưa các số liệu vào báo cáo cuối cùng. Chúng tôi cũng xin cảm ơn PGS, Tiến sỹ Đinh Phương Hoa đến từ Viện nghiên cứu Sức khoẻ Trẻ em của Việt Nam và nguyên là PGS tại Trường Cao đẳng Sức khoẻ Công và Phó Vụ trưởng Vụ Sức khoẻ Bà mẹ Trẻ em, Bộ Y tế, đã đóng góp cho nghiên cứu với cương vị là chuyên gia dinh dưỡng trẻ sơ sinh. TS. Hoa tư vấn cho nhóm nghiên cứu về các khuyến nghị nuôi con bằng sữa mẹ, các quy định có liên quan, và so sánh các quy định trong nước với Luật Quốc tế về Marketing cho Các Sản phẩm thay thế sữa mẹ. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thành viên chính trong nhóm nghiên cứu Westat vì những đóng góp to lớn của các anh chị trong nghiên cứu thử nghiệm này. Tiến sỹ Adam Chu, Phó Chủ tịch cao cấp và Chuyên gia Thống kê Cao cấp đã đóng góp vào thiết kế, chọn và tính mẫu. Thạc sỹ Richard Mitchell, Giám đốc Công nghệ Thông tin và Chuyên gia Phân tích Hệ thống Cao cấp đã chủ trì thực hiện các ứng dụng công nghệ thông tin cần thiết để nhập và chuyển tải số liệu. Ông Dương Quân, Kỹ sư Phát triển bộ số liệu cao cấp đã xây dựng ứng dụng nhập liệu. Thạc sỹ Emmanuel Aluko đã quản lý dữ liệu. Dallaporn Chaisangrit, chuyên gia nghiên cứu số liệu đã đào tạo cho nhóm nhập liệu từ kết quả điều tra và giám sát chất lượng số liệu. Thạc sỹ Belinda Yu, chuyên gia lập trình thống kê đã hỗ trợ lập trình để phân tích số liệu thống kê. Kate Wilczynska-Ketende, Cố vấn Kỹ thuật cao cấp với kinh nghiệp triển khai các đánh giá của Nhóm liên cơ quan giám sát thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ (IGBM) đã tư vấn kỹ thuật cho Quỹ tiếp cận Dinh dưỡng ATNF và nhóm nghiên cứu Westat trong quá trình thiết kế các khảo sát của ATNF. Việc này không ngụ ý bà đã có ý kiến chấp nhận phần nghiên cứu hay kết quả từ phía bà. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam ii Lưu ý sử dụng Westat cùng với cơ quan thầu phụ tại Việt Nam chịu trách nhiệm thu thập các dữ liệu có liên quan đến viêc tuân thủ của doanh nghiệp đối với Luật Quốc tế về Tiếp thị các sản phẩm thay thế sữa mẹ (SPTTSM) và các quy định cụ thể khác trong nước liên quan đến việc tiếp thị các sản phẩm này. Westat chịu trách nhiệm với việc phân tích các số liệu liên quan đến việc tuân thủ các tiêu chuẩn tiếp thị các SPTTSM và chuẩn bị báo cáo tóm tắt do Quỹ Tiếp cận Dinh dưỡng ATNF tích hợp vào để đánh giá hiệu quả của các công ty trong Chỉ số Tiếp cận Dinh dưỡng. Westat và cơ quan thầu phụ làm việc với các cơ sở y tế, phụ nữ mang thai và bà mẹ có con nhỏ tại các cơ sở y tế, các cán bộ y tế làm việc tại đây và các nhà cung cấp bán lẻ trong quá trình thu thập và xử lý dữ liệu. Người sử dụng báo cáo và các thông tin trong báo cáo này tự chịu các rủi ro của việc sử dụng hay xin phép sử dụng thông tin. KHÔNG CÓ TÁC NHÂN BẢO ĐẢM HAY ĐẠI DIÊN NÀO LIÊN QUAN ĐẾN THÔNG TIN (HAY CÁC KẾT QUẢ CÓ DO VIÊC SỬ DỤNG THÔNG TIN), VÀ LIÊN QUAN ĐẾN MỨC ĐỘ TỐI ĐA CHO PHÉP CỦA LUẬT HIÊN HÀNH, TẤT CẢ CÁC ĐẢM BẢO HÀM Ý (BAO GỒM MÀ KHÔNG GIỚI HẠN BẤT CỨ ĐẢM BẢO VỀ NGUỒN GỐC, TÍNH CHÍNH XÁC, TÍNH BẤT VI PHẠM, TÍNH TOÀN VẸN, KHẢ NĂNG BÁN, VÀ SỰ PHÙ HỢP VỚI MỤC ĐÍCH CỤ THỂ) LIÊN QUAN ĐẾN BẤT CỨ THÔNG TIN NÀO CŨNG BỊ LOẠI TRỪ VÀ MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM. Nếu không bị giới hạn bởi các quy định từ trước và tới mức độ tối đa do các luật hiện hành cho phép, Quỹ Tiếp cận Dinh dưỡng, Westat hay bất cứ liên minh hay thầu phụ nào của các cơ quan này trong bất cứ sự kiện nào sẽ không chịu trách nhiệm về bất cứ thông tin nào gây ra các thiệt hại trực tiếp, gián tiếp, đặc biệt, trừng phạt hay các hậu quả (bao gồm mất lợi nhuận) hay các thiệt hại khác ngay cả khi có dấu hiệu có thể có các thiệt hại đó. Các việc xảy ra trước đó sẽ không loại trừ hay giới hạn bất kỳ trách nhiệm nào mà luật hiện hành không loại trừ hay giới hạn. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam iii Mục lục Chương Trang Lời cảm ơn ............................................................................................................................................. ii Các từ viết tắt ....................................................................................................................................... x Tóm lược ............................................................................................................................................. ES-1 1 Giới thiệu chung ......................................................................................................... 1-1 A. Xuất phát điểm của Nghiên cứu thử nghiệm ................................. 1-1 B. Tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ sơ sinh và sức khoẻ của trẻ ............................................................. 1-2 C. Lịch sử và Mục đích của Luật Quốc ... cơ sở trên hoặc các đại lý bán lẻ, quan sát các chương trình khuyến mại tại điểm bán ở những loại đại lý bán lẻ khác nhau xung quanh các cơ sở y tế, phân tích nhãn mác và tờ giới thiệu thông tin sản phẩm, và quản lý những phương tiện truyền thông liên lạc khác nhau để xác định việc quảng cáo sản phẩm SPTTSM. Quá trình này đã đòi hỏi có 6 nguồn thông tin khác nhau cần thu thập, theo các phương pháp luận khác nhau. Ngoài ra, cách lấy mẫu các cơ sở y tế, chị em phụ nữ, nhân viên y tế làm cho nghiên cứu này mang tính đại diện cho quảng đại dân số trong lĩnh vực Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 6-4 Kết luận và đề xuất 6 nghiên cứu dành cho các cơ sở y tế, phụ nữ mang thai và bà mẹ có trẻ sơ sinh, và nhân viên y tế ở những cơ sở y tế khám cho các phụ nữ đủ tiêu chí theo nghiên cứu. Với 6 nguồn thông tin để thu thập dữ liệu, Nghị định thư IGBM đã bám sát một số lượng lớn các Điều khoản của Điều 4,5,6,7 và 9 của Luật Quốc tế Quốc tế. Tóm lại, chúng tôi đã có thể đánh giá sự tuân thủ 16 Điều khoản của Luật Quốc tế. Điều này bám sát tất cả các Điều khoản áp dụng cho các nhà sản xuất SPTTSM, ngoại trừ Điều 8, ngăn cấm một số hoạt động nhất định, như nhân viên của các nhà sản xuất SPTTSM không được thực hiện các chức năng giáo dục liên quan đến phụ nữ mang thai hoặc bà mẹ có trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Một thay đổi hiện đại đáng chú ý là một tỷ lệ lớn các quảng cáo cho các sản phẩm trong phạm vi xuất hiện trên Internet, Facebook, hoặc YouTube. Những nguồn này không phải trọng tâm của Nghị định thư IGBM, được cập nhật gần nhất vào năm 2007, nhưng vấn đề này cần được chú ý nhiều hơn trong tương lai. Đối với Điều khoản 4.2, chúng tôi có thể xác định 23 Điều khoản mục được coi là tài liệu in về giáo dục hoặc thông tin. Rõ rang, các nhà sản xuất đã chuyển sang truyền thông điện tử, như một phương thức giao tiếp. Cuối cùng, Nghị định thư không nắm bắt thông tin về những yêu cầu được ban hành quanh Điều khoảng thời gian cập nhật gần nhất của nó hoặc sau này, và sẽ có ích nếu Nghị định thư cập nhật các quy định này. Một trong số các yêu cầu đó là cần kiểm tra các nhãn mác có hay không cảnh báo rằng sữa bột công thức cho trẻ sơ sinh không phải là sản phẩm vô trùng và có thể chứa những vi sinh vật có hại, theo WHA 58.32 (2005). Điều này đã được cho vào các quy định của Indonesia. Và Nghị định thư không đề cập đến những nguồn cung cấp miễn phí hoặc giá rẻ. WHA 47.5 cấm những nguồn cung cấp miễn phí và giá rẻ của các sản phẩm trong phạm vi Luật Quốc tế ở bất cứ bộ phận nào trong hệ thống y tế. WHA 63.23 cấm các xác nhận về dinh dưỡng và sức khỏe của thức ăn cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ trên nhãn mác sản phẩm. Còn có những Điều khoản mới hơn khác có thể thêm vào Nghị định thư. Khuyến cáo Đối với các công ty trong tiếp thị sản phẩm. Các nhà sản xuất SPTTSM phải củng cố các chính sách của công ty và bít lại các lỗ hổng trong quy trình quản lý mà có thể đã làm tăng tỉ lệ vi phạm Luật Quốc tế và quy định trong nước như được ghi lại từ các phỏng vấn hoặc quan sát. Ví dụ như các đại diện công ty liên hệ với chị em phụ nữ, vấn đề hàng mẫu, và các Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 6-5 Kết luận và đề xuất 6 chương trình khuyến mại của các sản phẩm ở các đại lý bán lẻ. Trong khi việc quảng cáo phần lớn liên quan đến các quyết định và tham dự ở cấp công ty toàn cầu, thì việc khuyến mại bán hàng có thể phát triển ở thị trường nội địa, và không rõ là những hành động của người bán hàng thể hiện quyết định của công ty hay chỉ là quyết định của cá nhân họ. Một tiêu điểm nữa là việc đào tạo hợp thức đối với các nhân viên công ty ở địa phương về những nghĩa vụ và hạn chế của họ theo Luật Quốc tế và quy định trong nước. Ngoài ra, các nhà sản xuất phải thực hiện tất cả các bước hợp lý để bảo đảm rằng những nhà phân phối và bán lẻ hiểu rõ nghĩa vụ của họ theo Luật Quốc tế và quy định trong nước. Chúng tôi cũng đề nghị các nhà sản xuất sữa công thức xem xét việc thay đổi nhãn mác và đóng gói sản phẩm để phân biệt rõ ràng các sản phẩm cho những lứa tuổi khác nhau, trẻ em từ 0-24 tháng tuổi với trẻ em từ 2 tuổi trở lên. Điều này có thể giảm bớt sự bối rối của phụ nữ khi họ nhìn thấy quảng cáo về một sản phẩm cho trẻ lớn hơn và không hiểu được sự khác nhau giữa sản phẩm đó và các sản phẩm có cùng nhãn hiệu dành cho trẻ nhỏ hơn. Các nhà sản xuất cũng nên mở rộng trách nhiệm đối với việc tiếp thị sản phẩm trực tuyến, và họ nên chú ý hơn đến các sản phẩm được bán bởi các cửa hàng trên mạng. Mặc dù nhóm nghiên cứu quan sát được các cửa hàng này trong quá trình giám sát quảng cáo, nghiên cứu này lại không được thiết kế để đánh giá loại hình bán hàng đó. Trong một trường hợp, chúng tôi thấy một cửa hàng bán hàng qua mạng của Việt Nam rõ ràng đang quảng cáo các SPTTSM, nhưng khi nhân viên nghiên cứu liên hệ với cửa hàng, họ lại được cho biết rằng những sản phẩm đó không thể mua được ở Việt Nam. Đây là một trường hợp phát sinh mới mà chưa có nhiều thông tin. Đối với WHO và Chính phủ. Những nỗ lực trong tương lai nhằm tăng cường sự tuân thủ của các nhà sản xuất SPTTSM đối với Luật Quốc tế nên chú trọng cụ thể vào quảng cáo trực tuyến và việc sử dụng mạng xã hội. Những phương tiện truyền thông này đã thay đổi bộ mặt của quảng cáo, và đã phát triển ở bình diện toàn cầu, vì các kênh này có thể được phụ nữ ở nhiều quốc gia khác nhau truy cập chứ không chỉ ở một quốc gia riêng lẻ. Đây là một vấn đề sẽ rất khó khăn để quản lý. Giáo dục cho công chúng. Nghiên cứu này là về sự tuân thủ của các nhà sản xuất SPTTSM đối với Luật Quốc tế Quốc tế và những quy định của Việt Nam, nhưng từ khía cạnh y tế công cộng, nhóm nghiên cứu cũng xác định được những vấn đề quan trọng khác có thể ảnh hưởng đến việc một phụ nữ lựa chọn sản phẩm thay thế sữa mẹ. Những nỗ lực nhằm giáo Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 6-6 Kết luận và đề xuất 6 dục tốt hơn cho dân chúng nói chung, hoặc đưa ra nhiều hơn những lời khuyên trực tiếp về việc chỉ nuôi con bằng sữa mẹ cho phụ nữ mang thai, như nhiều quốc gia và tổ chức đang làm, sẽ giúp nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ. Củng cố các định nghĩa về thuật ngữ. Chúng tôi đã một vài lần nhắc đến việc có một số tình huống khó xác định liên quan đến việc luận giải Luật Quốc tế. Mặc dù việc hiệu chỉnh Luật Quốc tế để có những định nghĩa chính xác hơn là khó khăn, nhưng có thể có những hướng dẫn bổ sung từ WHO hoặc các tổ chức khác cho những điểm chưa rõ ràng này. Một ví dụ cụ thể về nhãn mác là những loại hình ảnh nào được coi là lý tưởng hóa SPTTSM, đặc biệt là chỉ có những hình ảnh về con người nằm trong định nghĩa này, hay các hình ảnh về động vật và các tạo hình không phải con người cũng được coi là vi phạm. Một định nghĩa được toàn thế giới chấp nhận sẽ rất có giá trị. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 6-7 Hạn chế của Nghiên cứu Thử nghiệm 7 Như đã được nhắc đến nhiều lần trước đây, nghiên cứu thử nghiệm này dựa theo Nghị định thư IGBM và các bảng mẫu thu thập dữ liệu. Nghị định thư IGBM đã làm một việc rất tốt là bám sát hầu như tất cả các Điều khoản trong Luật Quốc tế quốc tế áp dụng cho các nhà sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong bản nghiên cứu này và cách người sử dụng nên hiểu và hành động theo các đề xuất. A. Sai lệch trong trí nhớ Hạn chế nổi bật nhất của nghiên cứu này là rất nhiều thông tin cần thiết để đánh giá sự tuân thủ đến từ các cuộc phỏng vấn với phụ nữ và nhân viên y tế. Trong bất kỳ tình huống phỏng vấn nào, những thông tin hoặc sự việc được báo cáo lại có thể bị sai lệch do sự không chính xác của trí nhớ, hiểu nhầm, lưỡng lự khi đưa ra toàn bộ thông tin, hoặc người trả lời nghĩ câu trả lời được mong đợi là như vậy. Khi liên quan đến một giai đoạn của ký ức, như trong trường hợp với cả các phụ nữ và nhân viên y tế, sẽ có thể có sự sai lệch trong trí nhớ mà lồng ghép một sự việc nhớ được vào giai đoạn ký ức đó, cho dù nó xảy ra ngoài Điều khoảng thời gian đó, hoặc bỏ sót một sự việc ra ngoài giai đoạn ký ức trong khi nó thực sự xảy ra trong Điều khoảng đó. Chúng tôi tin rằng những câu hỏi chúng tôi đặt ra đều rõ ràng và được viết một cách khách quan, không có gợi ý về câu trả lời được mong đợi. Những phỏng vấn viên cũng được đào tạo kỹ lưỡng để không sử dụng những thăm dò mang tính dẫn dắt và không phỏng đoán câu trả lời nếu người trả lời không đưa ra một câu trả lời đầy đủ. Một chủ đề có thể đã bị hiểu nhầm bởi những phụ nữ là vấn đề quảng cáo những sản phẩm trong phạm vi nghiên cứu, như đã được thảo luận ở Chương 5 và 6. Sự sai lệch ký ức và trí nhớ không chính xác là những cảnh báo tiềm ẩn khi phân tích dữ liệu. Chỗ nào mà những cuộc phỏng vấn chỉ xác định được một con số rất nhỏ những dấu hiệu có thể là vi phạm, thì thông tin phải được sử dụng rất cẩn trọng, vì chúng có thể là những lỗi ký ức. Mặt khác, khi nhiều tình tiết được báo cáo, thì chúng ta nên tự tin thừa nhận rằng một số lượng lớn vi phạm đã xảy ra (trừ những quảng cáo trên TV đã được đề cập đến), ngay cả khi có một vài lỗi ký ức. Phần trăm ước tính chính xác ít quan trọng hơn tầm quan trọng hiển nhiên của vấn đề. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 7-1 Hạn chế của Nghiên cứu 7 B. Lựa chọn cán bộ y tế Hạn chế thứ hai của nghiên cứu là mặc dù các nhân viên y tế được chọn lựa ngẫu nhiên tại mỗi cơ sở y tế, họ có thể không phải là những nhân viên tốt nhất để phỏng vấn những vấn đề liên quan đến cơ sở y tế của mình. Các phỏng vấn với nhân viên y tế có một phần liên quan trực tiếp đến nhân viên; còn những phần khác là các câu hỏi ở mức độ cấp cơ sở. Đối với những câu hỏi này, những người trả lời hiểu biết nhất có thể là giám đốc cơ sở hoặc giám đốc tài chính của cơ sở y tế. Cách tiếp cận của nghiên cứu có thể đã không lấy được báo cáo đầy đủ cho một số vấn đề nào đó, như việc tài trợ thiết bị và các lần đến thăm của nhân viên bán hàng. C. Lựa chọn điểm bán lẻ Hạn chế thứ ba liên quan đến việc lựa chọn các đại lý bán lẻ để quan sát các chương trình khuyến mại tại điểm bán. Sự lựa chọn này là có mục đích, chứ không mang tính đại diện. Mục đích là lựa chọn những cửa hàng được đánh giá có nhiều khả năng sẽ có các chương trình khuyến mại và những chương trình khuyến mại đó sẽ được ghi chép lại vào sổ sách. Phần trăm số cửa hàng có ít nhất một khuyến mại rất cao, nhưng điều này cũng không thể suy diễn ra với hàng loạt cửa hàng tại nội thành Hà Nội. Hơn nữa, mỗi cửa hàng chỉ được đến khảo sát trong một ngày, vì vậy có thể quan sát được số lượng nhiều hơn các cửa hàng có khuyến mại nếu các cửa hàng này được khảo sát tần suất cao hơn trong một quãng thời gian. D. Các hạn chế khác Bởi vì khung mẫu chỉ giới hạn trong bà mẹ có con đến 6 tháng tuổi, Nghị định thư cũng không nhắc đến việc đẩy mạnh nuôi con bằng sữa mẹ cho đến khi trẻ 24 tháng tuổi, và vì vậy có thể đánh giá thấp việc tiếp thị những sản phẩm SPTTSM cho trẻ lớn hơn. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 7-2 Hạn chế của Nghiên cứu 7 E. Các hạn chế khác Những hạn chế khác bao gồm sự thiếu hụt những định nghĩa chính xác cho một số yếu tố cần đánh giá và không đủ dữ liệu để tiếp cận số ít lĩnh vực. Một số tình huống đã được nhắc đến ở “vùng mờ”, không rõ việc đó có được coi là vi phạm hay không. Trong những tình huống như vậy chúng tôi đã rất thận trọng không luận giải quá mức thông tin. Nhiều ví dụ được trích dẫn trong Chương 5, như là quà tặng cho nhân viên y tế hoặc phụ nữ mang thai có ảnh hưởng đến quyết định của họ sẽ quảng cáo hay sử dụng các SPTTSM hay không. Nghiên cứu thử nghiệm này là một khảo sát mặt cắt tại một thời điểm cung cấp những đánh giá phổ biến hợp lý tại thời điểm nó được tiến hành. Hiện tại không có khả năng giám sát những thay đổi qua thời gian, hoặc liên tục giám sát, như IBFAN đã làm. Những nghiên cứu tiếp theo trong cùng khu vực địa lý có thể sử dụng kết quả của nghiên cứu thử nghiệm này như dữ liệu ban đầu có giá trị để đánh giá việc tuân thủ có tiến bộ theo thời gian hay không. Trọng tâm của Nghị định thư IGBM đặt vào việc đo lường sự tuân thủ của các nhà sản xuất SPTTSM đối với Luật Quốc tế Quốc tế và các quy định trong nước. Nghị định thư không đề cập đến việc các phụ nữ có chọn sử dụng một sản phẩm SPTTSM tại một thời điểm nào đó rồi hay không, cũng không ước tính tỷ lệ phụ nữ xác nhận chỉ nuôi con bằng sữa mẹ. Cuối cùng, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở 12 khu vực nội thành Hà Nội. Kết quả đại diện cho khu vực này, nhưng không nên lý giải để áp dụng cho toàn bộ Việt Nam. Nhóm nghiên cứu tin rằng việc quảng cáo các sản phẩm SPTTSM gần như cao nhất ở khu vực thành thị như Hà Nội bởi vì mật độ dân số cao, dễ dàng tiếp cận các chị em phụ nữ, và cư dân thành thì cũng có khả năng mua hàng cao hơn. Nhưng nhóm nghiên cứu không có bằng chứng nào từ những khu vực thành thị hoặc nông thôn khác của Việt Nam để khẳng định điều này. Những kết quả nghiên cứu này nên được hiểu là chỉ áp dụng cho khu vực đô thị ở Hà Nội. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam 7-3 Tài liệu tham khảo Việt Nam MICS 2014, Thống kê Việt Nam/Luật Quốc tế tế về Tiếp thị Các sản phẩm thay thế sữa mẹ và những nghị quyết liên quan sau đó của UNICEF (WHO 1981) Nghị định thư IGBM về việc đánh giá độ phổ biến của những vi phạm Luật Quốc tế và các quy chuẩn quốc gia (IGBM 2007) Khảo sát việc tuân thủ Luật Quốc tế các sản phẩm thay thế sữa mẹ ở Lãnh thổ thủ đô, Nigeria (2013). Dr. Nkem Ene – Save the Children/ Preston Healthcare Consulting Khảo sát về việc thực thi nuôi con bằng sữa mẹ và những vi phạm Luật Quốc tế Quốc tế về Tiếp thị các sản phẩm thay thế sữa mẹ (2013). Save the Children/Gallup Pakistan. Các sản phẩm thay thế sữa mẹ Threan Young Lives: 2012 Nghiên cứu việc sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ ở Sierra Leone. (2012). Save the Children. Báo cáo cuối cùng của Việt Nam R-1
File đính kèm:
- danh_gia_hien_trang_tuan_thu_luat_quoc_te_ve_tiep_thi_cac_sa.pdf