Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú

Trên thế giới năm 2018 có khoảng 2,1 triệu ca

UTV mới mắc (chiếm khoảng 11,6 % các bệnh ung thư)

và có 626.679 ca tử vong. Tại Đông Nam Á năm 2018,

ghi nhận khoảng 137 514 ca mới mắc và 50.900 ca

chết vì UTV ( theo GLOBOCAN năm 2018) [1]. Ở Việt

Nam, theo số liệu của Chương trình mục tiêu phòng

chống ung thư năm 2013, UTV với tỷ lệ mắc chuẩn theo

tuổi là 24,4/100.000 dân, đến năm 2018 con số này là

26,4 trong đó tỷ lệ mắc UTV mới là 12 000 người, tử

vong trong năm 2018 là 6000 người [2].

Hiện nay, chụp X- quang và siêu âm(SA) vú là hai

phương pháp phổ biến nhất được dùng để phát hiện

khối u vú cũng như những bất thường khác ở vú. SA

B-mode là phương pháp được áp dụng rộng rãi, an toàn

không nhiễm xạ và có giá trị cao để chẩn đoán UTV.

Trong nghiên cứu của Thomas Stavros[5] và phân loạị

ACR- BIRADS 2013[6], các dấu hiệu về hình ảnh SA

nghi ngờ ác tính của khối u vú đã được giới thiệu và

áp dụng, bao gồm có 08 dấu hiệu: (1) Khối có tua gai;

(2) Khối bờ không đều với bờ góc cạnh; (3) Có bóng

cản âm phía sau khối; (4) Có thành phần giảm âm;(5)

Hướng không song song (bao gồm khối tròn);(6) Ống

tuyến giãn nằm trong nhu mô; (7) Nhiều thuỳ múi nhỏ;

(8) Vi vôi hoá nhỏ trong hoặc ngoài khối. Các dấu hiệu

này có giá trị chẩn đoán và có thể thấy ở cả các tổn

thương lành tính, ví dụ dấu hiệu số (4) là có thành phần

giảm âm có thể gặp ở u xơ tuyến vú, biến đổi xơ nang,

sẹo xơ [7].

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 1

Trang 1

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 2

Trang 2

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 3

Trang 3

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 4

Trang 4

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 5

Trang 5

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 6

Trang 6

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 7

Trang 7

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 9620
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú

Đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/2020 23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA CÁC 
DẤU HIỆU NGHI NGỜ ÁC TÍNH TRÊN 
SIÊU ÂM VÚ 
Diagnostic value of suspected malignancy signs 
on breast ultrasound
Phạm Thị Phương*, Nguyễn Thu Hương**, Nguyễn Công Tiến***,
Phạm Minh Thông***
Objective: To evaluate the diagnostic value of suspected malignancy 
signs on breast ultrasound.
Methods: patients who have the solid mass in breasts underwent 
ultrasound examination (they have at least one of eight signs of suspected 
malignancy on breast ultrasound) and performed the ultrasound guided needle 
biopsy of these mass at Bach Mai Hospital from July 2019 to July 2020 were 
investigated. 
Results: 268 patients have breast tumors with signs of suspected 
malignancy detected on ultrasound (mean age, 42,1 years; range, 12 to 75). 
There were 97 breast cancer patients accounted for 36,2 %, including 84.5% 
of patients over 40 years old. Cancer lesions are mainly at the upper - outer 
quadrant position, accounting for 58,8 %.
The sensitivity, specificity, PPV and the OR value in regression analysis 
of suspected malignancies signs, respectively: spiculation and/or thick 
hyperechoic halo ( 67,01%; 97,07%, 92,87%; 67,44), irregular shape with 
angular margins (89,69% and 70,76%; 63,5%; 21,05), retrotumoral acoustic 
shadowing (18,56 % and 98,83 %; 90 %, 19,25), hypoechoic echo pattern 
(96.91% and 7.02%; 37.15%), orientation not parallel (includes round solid 
nodules with round shape) (57,73 % and 84.21%; 67,47 %; 7,29), duct changes - 
enlarged ducts within surrounding tissues (24,74 % and 95.91%; 77,42 %; 7,7), 
microlobulations (38,14 % and 90.06 %; 68,52 %; 5,59), microcalcifications 
within or outside a mass (49,48 % and 89,47 %; 72,73%; 8,33).
Conclusion: The signs of suspected malignancy on breast ultrasound 
have high diagnostic value in diagnosing breast cancer, especially the signs of 
spiculation and/or thick hyperechoic halo, irregular shape with angular margins 
and retrotumoral acoustic shadowing. In which, spiculation and/or thick 
hyperechoic halo is the sign with the highest UTV diagnostic value, followed 
by a sign of irregular shape with angular margins and retrotumoral acoustic 
shadowing. Hypoechoic echo pattern sign have high Se but low Sp and PPV, 
have no meaning in the diagnosis of breast cancer.
* Trường ĐH Y Hà Nội 
** Bệnh viện Đa khoa quốc tế 
Vinmec
*** Trung tâm Điện Quang, 
Bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/202024
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới năm 2018 có khoảng 2,1 triệu ca 
UTV mới mắc (chiếm khoảng 11,6 % các bệnh ung thư) 
và có 626.679 ca tử vong. Tại Đông Nam Á năm 2018, 
ghi nhận khoảng 137 514 ca mới mắc và 50.900 ca 
chết vì UTV ( theo GLOBOCAN năm 2018) [1]. Ở Việt 
Nam, theo số liệu của Chương trình mục tiêu phòng 
chống ung thư năm 2013, UTV với tỷ lệ mắc chuẩn theo 
tuổi là 24,4/100.000 dân, đến năm 2018 con số này là 
26,4 trong đó tỷ lệ mắc UTV mới là 12 000 người, tử 
vong trong năm 2018 là 6000 người [2].
Hiện nay, chụp X- quang và siêu âm(SA) vú là hai 
phương pháp phổ biến nhất được dùng để phát hiện 
khối u vú cũng như những bất thường khác ở vú. SA 
B-mode là phương pháp được áp dụng rộng rãi, an toàn 
không nhiễm xạ và có giá trị cao để chẩn đoán UTV. 
Trong nghiên cứu của Thomas Stavros[5] và phân loạị 
ACR- BIRADS 2013[6], các dấu hiệu về hình ảnh SA 
nghi ngờ ác tính của khối u vú đã được giới thiệu và 
áp dụng, bao gồm có 08 dấu hiệu: (1) Khối có tua gai; 
(2) Khối bờ không đều với bờ góc cạnh; (3) Có bóng 
cản âm phía sau khối; (4) Có thành phần giảm âm;(5) 
Hướng không song song (bao gồm khối tròn);(6) Ống 
tuyến giãn nằm trong nhu mô; (7) Nhiều thuỳ múi nhỏ; 
(8) Vi vôi hoá nhỏ trong hoặc ngoài khối. Các dấu hiệu 
này có giá trị chẩn đoán và có thể thấy ở cả các tổn 
thương lành tính, ví dụ dấu hiệu số (4) là có thành phần 
giảm âm có thể gặp ở u xơ tuyến vú, biến đổi xơ nang, 
sẹo xơ[7]. Do vậy các dấu hiệu này được nghiên cứu 
nhiều ở cả những tổn thương lành tính và ác tính. Tuy 
nhiên hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về cách phân 
loại những dấu hiệu này trên thế giới, đặc biệt là trong 
phân loại BIRADS 4 với dự báo tiên lượng ác tính rộng 
từ 2% đến 94 %. Các tài liệu để phân loại BIRADS những 
dấu hiệu siêu âm nghi ngờ ác tính cũng như đánh giá 
giá trị của những dấu hiệu này chủ yếu được thực hiện 
ở các nước phương tây và các nước phát triển, nơi có 
điều kiện sống, đặc điểm về nhu mô tuyến vú cũng như 
tính chất di truyền của quần thể không giống với phụ nữ 
châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. 
Ở Việt Nam, SA vú đã được áp dụng rộng rãi từ 
rất lâu, hệ thống phân loại BIRADS và những dấu hiệu 
nghi ngờ ác tính của khối u vú trên SA cũng đã được 
áp dụng. Tuy vậy, sự hiểu biết sâu sắc để đánh giá giá 
trị cũng như áp dụng các dấu hiệu này vào phân loại 
BIRADS trong chẩn đoán, tiên lượng, can thiệp điều 
trị còn hạn chế, chưa có nghiên cứu. Do vậy chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá giá trị chẩn 
đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu 
âm vú” để bước đầu có những số liệu khoa học ở một 
trung tâm, với mong muốn phát triển thêm nữa nghiên 
cứu này tại các trung tâm khác ở Việt Nam nhằm xây 
dựng hệ thống số liệu tin cậy, đầy đủ, đa trung tâm phục 
vụ cho việc đánh giá, phân loại các dấu hiệu này trong 
hệ thống phân loại BIRADS, góp phần quan trọng trong 
chẩn đoán, tiên lượng và can thiệp điều trị cho bệnh 
nhân UTV ở Việt Nam. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu được tiến 
hành tại Trung tâm Điện quang Bệnh viện Bạch Mai từ 
tháng 7/2019 đến hết tháng 7/2020 với 268 bệnh nhân 
có khối u vú với ít nhất 1 trong 8 dấu hiệu nghi ngờ ác 
tính trên siêu âm vú.
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Thứ 1, có khối u vú với 1 
hoặc nhiều dấu hiệu thuộc 8 dấu hiệu nghi ngờ ác tính  ... 5,91% và 77,42)
Bảng 4. Giá trị OR trong mô hình hồi quy đơn 
biến của 8 dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm 
trong chẩn đoán UTV
Tên dấu hiệu Giá trị 
OR
95% CI của 
OR
p
Khối có tua gai 67,44 25,18 - 180,62 < 0,01
Khối bờ không đều 
với bờ góc cạnh
21,05 10,12 - 43,81 < 0,01
Có bóng cản âm 
phía sau khối
19,253 4,36 - 85,01 < 0,01
Có thành phần 
giảm âm
2,37 0,65 -8,60 0,138
Hướng không song 
song (gồm khối 
tròn)
7,29 4,10 - 12,95 < 0,01
Ống tuyến giãn 
nằm xung quanh 
khối
7,70 3,18 - 18,68 < 0,01
Nhiều thuỳ múi nhỏ 5,59 2,93 - 10,67 < 0,01
Vi vôi hóa nhỏ 
trong hoặc ngoài 
khối
8,33 4,43 – 15,64 < 0,01
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/202026
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét: dấu hiệu có thành phần giảm âm không 
có ý nghĩa trong chẩn đoán UTV, 7 dấu hiệu còn lại đều 
có ý nghĩa trong chẩn đoán UTV.
Kết quả phân tích hồi quy đa biến với các biến độc 
lập là 7 dấu hiệu có giá trị tiên lượng dựa vào kết quả 
của mô hình hồi quy đơn biến (Bảng 4), biến phụ thuộc 
là “có UTV”:
Bảng 5. Giá trị OR và B trong mô hình hồi quy 
đa biến nhị phân của 7 dấu hiệu nghi ngờ ác tính 
trên siêu âm có ý nghĩa trong chẩn đoán UTV
Tên dấu hiệu Giá trị OR B p
Khối có tua gai 64,8 4,17 < 0,01
Khối bờ không đều 
với bờ góc cạnh
38,5 3,65 < 0,01
Có bóng cản âm 
phía sau khối
35,1 3,56 < 0,05
Hướng không song 
song (gồm khối tròn)
6,4 1,86 < 0,01
Ống tuyến giãn nằm 
xung quanh khối
15,8 2,76 < 0,01
Nhiều thuỳ múi nhỏ 14,9 2,70 < 0,01
Vi vôi hóa nhỏ trong 
hoặc ngoài khối
6,0 1,79 < 0,01
Nhận xét: các dấu hiệu đều có ý nghĩa chẩn đoán 
UTV một cách độc lập, không có yếu tố nhiễu, dấu hiệu 
có giá trị chẩn đoán cao nhất là khối có tua gai.
Có 13 bệnh nhân có cả 3 dấu hiệu khối có tua gai, 
khối bờ không đều với bờ góc cạnh và có bóng cản âm 
phía sau khối đều mắc UTV. Sp và PPV của khối u có 
cả 3 dấu hiệu trên xấp xỉ 100 %. 
Khi cho cả 3 dấu hiệu này vào mô hình hồi quy đa 
biến nhị phân logistic với biến phụ thuộc là “ có UTV” cho 
kết quả: tỷ lệ trung bình dự đoán đúng là 86,9 %.
Bảng 6. Mức độ ảnh hưởng của 03 dấu hiệu có giá 
trị cao trong chẩn đoán UTV dựa vào mô hình hồi 
quy đa biến nhị phân 
Dấu hiệu Beta OR p
Khối có tua gai 4,35 77,48 0,000
Khối có bờ không 
đều với góc cạnh
3,24 25,5 0,000
Bóng cản âm sau 
khối
2,75 15,69 0,015
Nhận xét: cả 3 dấu hiệu đều có giá trị cao trong 
chẩn đoán UTV, trong đó dấu hiệu khối có tua gai có giá 
trị chẩn đoán cao nhất với OR = 77,48
IV. BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu đánh giá trên 
268 BN có tổn thương vú có các dấu hiệu nghi ngờ ác 
tính trên siêu âm. Tuổi trung bình của nhóm BN là 42,1 
tuổi. Có 97 BN UTV chiếm 36,2 % chủ yếu là những BN 
trên 40 tuổi chiếm 84,5 %. Điều này phù hợp với kết quả 
nghiên cứu của Nguyễn Chấn Hùng và Trần Văn Thiệp 
(1999) nghiên cứu trên 2158 trường hợp UTV cho thấy 
độ tuổi 40-49 hay gặp nhất chiếm tỷ lệ 31,5% [8]. Antonio 
P.L và cộng sự (2017) nghiên cứu trên 4411 BN UTV cho 
thấy tỷ lệ mắc UTV có độ tuổi trên 40 là 87 % [9].
Trong nghiên cứu này, vị trí UTV chủ yếu ở góc 
¼ trên ngoài chiếm 58,8 %, tiếp theo là ¼ trên trong ( 
20,6 %), ¼ dưới ngoài và dưới trong có tỷ lệ gặp ít hơn 
( 10,3 %). Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Dahnert 
(1999) tỷ lệ UTV tại vị trí ¼ trên ngoài là cao nhất chiếm 
54%, tiếp đến là ¼ trên trong chiếm 32,8%. Tỷ lệ mắc 
UTV tại các vị trí này cũng được thấy cao hơn hẳn trong 
các nghiên cứu khác như nghiên cứu của Đỗ Doãn 
Thuận (2008) là 53,94% và 23,97%[10], Đặng Văn 
Chính (2008) là 52,4% và 19,4% [11], Trương Thị Hiền 
(1998) 57,4% và 23,8% [12].
Có 76% BN UTV có sờ thấy khối trên lâm sàng, 
kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Kim-Kyung 
Kim và cộng sự (2008) với tỷ lệ 71,33 % [13].
2. Đặc điểm hình ảnh siêu âm của 8 dấu hiệu 
nghi ngờ ác tính
2.1. Khối có tua gai
Dấu hiệu khối có bờ tua gai có Se trong chẩn 
đoán UTV là 67.01 % cao hơn đối với nghiên cứu của 
Stavros(2008) -36 % [14] và tương đồng với kết quả 
của Đỗ Doãn Thuận (2008)- 70%[7]; Sp của dấu hiệu 
này là 97.07 %, kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của S.Hong và cộng sự (2005) với Sp là 98,85%[15]. 
PPV của dấu hiệu bờ tua gai trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 92.87% cao hơn so với nghiên cứu của 
Stavros (2008) 87%, S.Hong (2005) 86%. Khối bờ 
không đều với bờ góc cạnh
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/2020 27
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Dấu hiệu khối có bờ không đều với góc cạnh có 
Se, Sp, PPV lần lượt là 89.69%, 70.76%, 63.5%, con 
số này trong nghiên cứu của S.Hong (2005) là 72,34%, 
76,3% và 62% với Se thấp hơn. Nghiên cứu của 
Stavros (2008) cho thấy Se và PPV của dấu hiệu này 
là 90% và 59% kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của chúng tôi[14], [15].
1.1. Có bóng cản âm phía sau khối
Se của dấu hiệu này là 18.56% tương đồng với 
kết quả của Stavros 16%. Nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy PPV của dấu hiệu này là 90% cao hơn so với 
S.Hong (2005) và Stavros (2008) có giá trị PPV lần lượt 
là 69 % và 73%[14], [15].
1.2. Có thành phần giảm âm
Se, Sp và PPV của dấu hiệu thành phần giảm âm 
trong khối là 96.91%, 7.02%, 37.15%, nghiên cứu của 
S.Hong (2008) cho thấy Se, PPV của dấu hiệu này là 
91% và 40%, kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của chúng tôi [15].
Hình 1. Hình ảnh minh họa dấu hiệu có thành 
phần giảm âm trong khối
BN nữ, 40 tuổi, khám sức khỏe định kì, siêu âm vú 
tình cờ phát hiện có nhân giảm âm bờ có phần không 
đều, kết quả giải phẫu bệnh là u xơ tuyến vú.
1.3. Hướng không song song (bao gồm khối 
tròn)
Kết quả nghiên cứu cho thấy Se, Sp và PPV của 
dấu hiệu này là 57.73%, 84.21%, 67.47%, tương đồng 
với nghiên cứu của S.Hong (2008) với các giá trị tương 
ứng là 53%, 87%, 69% và nghiên cứu của Stavros (2005) 
với Se 48% và giá trị PPV cao hơn là 74% [14], [15]. 
Hình 2. Hình ảnh minh họa dấu hiệu trục lớn 
không song song với mặt da 
BN nữ 35 tuổi, sờ thấy khối ở vú cách vào viện 5 
tháng, gần đây thấy khối to lên nhanh kèm đau nhẹ vú 
trái. Giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô thể ống xâm 
nhập típ NST độ 2.
1.4. Ống tuyến giãn nằm xung quanh khối
Se, Sp và PPV của dấu hiệu này là 24.74%, 
95.91%, 77,42%. Nghiên cứu của Stavros (2005) cho 
kết quả với Se cao hơn là 49% và giá trị PPV thấp hơn 
là 46%[14].
1.5. Nhiều thuỳ múi nhỏ
Trong nghiên cứu này Se của dấu hiệu bờ thùy 
múi nhỏ là 38.14%, trong khi đó kết quả nghiên cứu 
S.Hong(2008) là 13,47% và Stavros(2005) Se cao hơn 
hẳn 92%. Sp và PPV của dấu hiệu này là 90.06% và 
68.52% tương đồng với nghiên cứu của S.Hong và 
Stavros với PPV là 51% và 50%[14],[15].
1.6. Vi vôi hoá nhỏ trong hoặc ngoài khối
Se, Sp và PPV của dấu hiệu vi vôi hóa trong và ngoài 
khối là 49.48%, 89.47%, 72.73% tương đồng với nghiên 
cứu của Stavros có Se và PPV là 40% và 73%, [14].
2. So sánh giá trị chẩn đoán UTV của các dấu 
hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú
Dựa vào kết quả mô hình hồi quy đơn biến và đa 
biến với biến phụ thuộc là “có UTV” và biến độc lập là 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/202028
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
8 dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên SA cho thấy có 7 dấu 
hiệu có giá trị chẩn đoán UTV (trừ dấu hiệu có thành 
phần giảm âm). Ba dấu hiệu khối có bờ tua gai, khối có 
bờ không đều với góc cạnh và có bóng cản âm sau khối 
là các dấu hiệu có giá trị chẩn đoán cao nhất. Có 13 
bệnh nhân có cả 3 dấu hiệu này và đều mắc UTV. Sp và 
PPV của khối u có cả 3 dấu hiệu trên xấp xỉ 100 %. Khi 
cho cả 3 dấu hiệu này vào mô hình hồi quy đa biến nhị 
phân logistic với biến phụ thuộc là “ có UTV” cho kết 
quả: dấu hiệu khối có bờ tua gai là dấu hiệu có sự ảnh 
hưởng nhiều nhất đến nguy cơ UTV với giá trị OR và B 
lần lượt là 77,48 và 4,35, tiếp đến là dấu hiệu khối có 
bờ không đều với góc cạnh (OR:25, 5 và B: 3,24), sau 
cùng là có bóng cản âm sau khối (OR: 15,69; B: 2,75) 
với tỷ lệ trung bình dự đoán đùng là 86,3%.
Hình 3. Hình ảnh minh họa cho khối u có cả 3 dấu hiệu bờ tua gia, bờ không đều tạo góc, bóng cản 
âm sau khối
BN nữ 63 tuổi, vào viện khám vì sờ thấy khối ở 
vú phải kèm cảm giác đau vùng vú phải. Hình ảnh siêu 
âm là khối giảm âm bờ không đều, tua gai, có tạo góc 
nhọn, ranh giới không rõ, có viền tăng âm halo xung 
quanh, bóng cản âm sau khối, trục lớn vuông góc với 
mặt da, được phân loại BIRADS 5 và tiến hành sinh 
thiết. Kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô thể 
ống xâm nhập độ cao.
KẾT LUẬN
Các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm có 
giá trị chẩn đoán cao trong chẩn đoán UTV, đặc biệt 
là 3 dấu hiệu khối có bờ tua gai, khối có bờ không đều 
với góc cạnh, có bóng cản âm sau khối. Trong kết quả 
mô hình hổi quy đa biến Logistic, dấu hiệu khối có bờ 
tua gai là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán UTV cao nhất 
với giá trị OR và B lần lượt là 77,48 và 4,35, tiếp đến là 
dấu hiệu khối có bờ không đều với góc cạnh (OR:25, 5 
và B: 3,24), sau cùng là có bóng cản âm sau khối (OR: 
15,69; B: 2,75). Dấu hiệu có thành phần giảm âm có 
Se cao nhưng Sp và PPV thấp, không có ý nghĩa trong 
chẩn đoán UTV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GLOBOCAN of Breast cancer 2018.
2. Chương trình mục tiêu phòng chống ung thư vú năm 2013.
3. ACR BI-RADS Atlas Breast Imaging Reporting and Data System, Carl J. D’Orsi, MD, Editor and Chair, 
Committee on BI-RADS Edward A. Sickles, MD, Chair, Subcommittee on BI-RADS Mammography Ellen B. 
Mendelson, MD, Chair, Subcommittee on BI-RADS UltrasounElizabeth A. Morris, MD, Chair, Subcommittee on 
BI-RADS MRI
4. Brayn CP, Smith GE. The Papyrus Ebers, Translated from the German Version. Letchworth, Herts: The 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/2020 29
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Guardian City Press LTD; 1930.
5. Ultrasound positive predictive values by BI-RADS categories 3–5 for solid masses: An independent reader 
study
A. Thomas Stavros1 & Andrea G. Freitas2 & Giselle G. N. deMello2 & Lora Barke3 & Dennis McDonald4,5 & Terese 
Kaske3,6 & Ducly Wolverton3,7 & Arnold Honick4,8 & Daniela Stanzani2 & Adriana H. Padovan2 & Ana Paula 
C. Moura2 & Marilia C. V. de Campos ACR BI- RADS 2013 5th Edition, William E. Creech, ACR staff member.
6. Priscilla F. Butler, MS, ACR staff member Paul G. Wiegmann, ACR staff member,Mythrey, B. Chatfield, PhD, 
ACR staff member, Luther W. Meyer, MS, ACR staff member Pamela A. Wilcox, MBA, ACR staff member.
7. Gomez-Raposo C, Zambrana Tevar F, Sereno Moyano M, Lopez Gomez M, Casado E. Male breast cancer. 
Cancer Treat Rev. 2010;36(6):451–457. [PubMed].
8. Nguyễn Chấn Hùng T.V.T. (1999). Chẩn đoán và điều trị ung thư vú tại Trung Tâm Ung Bướu TP Hồ Chí Minh. 
Học TP Hồ Chí Minh, 4(3), 297–306.
9. Maffuz-Aziz A., Labastida-Almendaro S. Espejo-Fonseca A. et al. (2017). Clinical and pathological features of 
breast cancer in a population of Mexico. Cir Cir Engl Ed, 85(3), 201–207.
10. Đỗ Doãn Thuận (2008). Nghiên cứu giá trị của chụp Xquang và siêu âm trong chẩn đoán ung thư vú. Đại Học 
Hà Nội.
11. Đặng Văn Chính (2008). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, X quang, đánh giá kết quả sinh thiết bằng kim dưới 
hướng dẫn siêu âm trong chẩn đoán ung thư vú Tis-T1. Học Viện Quân Hà Nội.
12. Trương Thị Hiền (1998). So sánh giá trị ba phương pháp lâm sàng, tế bào học, chụp vú trong chẩn đoán ung 
thư vú tại viện bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh. Trường Đại Học Hà Nội.
13. Kim E.-K., Ko K.H., Oh K.K. et al. (2008). Clinical Application of the BI-RADS Final Assessment to Breast 
Sonography in Conjunction with Mammography. Am J Roentgenol, 190(5), 1209–1215.
14. Stavros T, Thickman D, Rapp CL, Dennis MA, Parker SH, Sisney GA. Solid breast nodules: use of sonography 
to distinguish between benign and malignant lesions.
15. Andrea S. Hong, Eric L. Rosen, Mary S. Soo and Jay A. Baker. BI-RADS for Sonography: Positive and Negative 
Predictive Values of Sonographic Features, 2008.
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm vú.
Phương pháp: 268 bệnh nhân (BN) có khối u vú với các dấu hiệu nghi ngờ ác tính phát hiện trên siêu âm độ tuổi từ 12 tuổi 
đến 75 tuổi, độ tuổi trung bình là 42,1. Các khối u vú đươc chẩn đoán mô bệnh học thông qua sinh thiết kim lõi hoặc sinh thiết 
hút chân không dưới hướng dẫn siêu âm tại Trung tâm Điện quang Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2019 đến hết tháng 7/2020.
Kết quả: có 268 BN có khối u vú với các dấu hiệu nghi ngờ ác tính phát hiện trên siêu âm độ tuổi từ 12 tuổi đến 75 tuổi, 
độ tuổi trung bình là 42,1 tuổi. Có 97 BN có tổn thương UTV chiếm 36,2%, trong đó BN trên 40 tuổi chiếm 84,5%, tổn thương 
UTV chủ yếu ở vị trí ¼ trên ngoài chiếm 58,8 %. Se, Sp, PPV và giá trị OR trong phân tích hồi quy của các dấu hiệu nghi ngờ 
ác tính tương ứng: khối có tua gai ( 67,01%; 97,07%, 92,87%; 67,44), bờ không đều với góc cạnh (89,69% và 70,76%; 63,5%; 
21,05), bóng cản âm phía sau khối ( 18,56 % và 98,83 %; 90 %, 19,25), có thành phần giảm âm (96,91 % và 7,02 %; 37,15 %), 
hướng không song song (bao gồm khối tròn) (57,73 % và 84.21%; 67,47 %; 7,29), ống tuyến giãn nằm xung quanh khối (24,74 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 41 - 12/202030
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
% và 95.91%; 77,42 %; 7,7), bờ thuỳ múi nhỏ (38,14 % và 90.06 %; 68,52 %; 5,59), vi vôi hoá trong hoặc ngoài khối (49,48 % 
và 89,47 %; 72,73%; 8,33).
Kết luận: Các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm có giá trị chẩn đoán cao trong chẩn đoán UTV, đặc biệt là 3 dấu hiệu 
khối có bờ tua gai, khối có bờ không đều với góc cạnh, có bóng cản âm sau khối. Trong đó dấu hiệu khối có bờ tua gai là dấu 
hiệu có giá trị chẩn đoán UTV cao nhất, tiếp đến là dấu hiệu khối có bờ không đều với góc cạnh và bóng cản âm sau khối. Dấu 
hiệu có thành phần giảm âm có Se cao nhưng Sp và PPV thấp, không có ý nghĩa trong chẩn đoán UTV.
Từ khóa: ung thư vú, các dấu hiệu nghi ngờ ác tính trên siêu âm
Người liên hệ: Phạm Thị Phương, Email: phamphuongcdha@gmail.com
Ngày nhận bài: 9/10/2020. Ngày chấp nhận đăng: 7/11/2020

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_gia_tri_chan_doan_cua_cac_dau_hieu_nghi_ngo_ac_tinh.pdf