Đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ sau hóa xạ trị đồng thời
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá sự thay đổi chất lượng sống liên quan sức khỏe (HRQOL) của bệnh
nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ được điều trị bằng hóa xạ trị đồng thời.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu. Đánh giá HRQOL của 60 bệnh nhân
ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ (FIGO 2009: IB2, IIA2, IIB, III, IVA) được điều trị bằng hai
phác đồ hóa xạ trị đồng thời bằng bảng câu hỏi QLQ-C30 tại 4 thời điểm (trước điều trị, 3 tuần, 7 tuần và
9 tháng) ở Khoa Xạ 2, bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ 1/1/2014 đến hết năm 31/12/2018.
Kết quả: Chỉ số sức khỏe tổng quát (GHS) và các chỉ số chức năng (thể chất, vai trò, nhận thức, xã
hội) đều suy giảm đáng kể trong thời gian điều trị, đạt điểm số thấp nhất tại thời điểm 7 tuần và hồi phục
lại tại thời điểm 9 tháng. Ngoại trừ chức năng cảm xúc cải thiện đáng kể theo thời gian. Trong các đó các
chỉ số triệu chứng như mệt mỏi, nôn/ buồn nôn, khó thở, mất ngủ, chán ăn và tiêu chảy đều có xu hướng
tăng lên trong quá trình điều trị (thời điểm 3 tuần và 7 tuần) sau đó hồi phục lại vào thời điểm 9 tháng. Sự
thay đổi có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Chỉ có hai triệu chứng đau và táo bón không có sự thay đổi đáng
kể theo thời gian (p = 0,789 và p = 0,572). Vấn đề tài chính của bệnh nhân cải thiện đáng kể sau điều trị
(p = 0,002).
Trong các yếu tố tuổi và lâm sàng bệnh học, chỉ ghi nhận sự ảnh hưởng đáng kể của BMI lên chỉ số
sức khỏe tổng quát (GHS) tại thời điểm 3 tuần (p = 0,008).
Điểm số GHS của hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời thay đổi tương tự nhau theo thời gian.
Kết luận: HRQOL của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ sau hóa xạ trị đồng
thời suy giảm trong quá trình điều trị, xuống thấp nhất tại thời điểm cuối điều trị (thời điểm 7 tuần) và hồi
phục lại tại thời điểm 9 tháng sau điều trị không khác biệt giữa 2 phác đồ hóa trị mỗi tuần và mỗi 3 tuần
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ sau hóa xạ trị đồng thời
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 378 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SỐNG LIÊN QUAN SỨC KHỎE CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ CỔ TỬ CUNG GIAI ĐOẠN TIẾN XA TẠI CHỖ SAU HÓA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRẦN ĐẶNG NGỌC LINH1, LƯƠNG QUỐC THIỆN2, HOÀNG THỊ THANH THÚY3, ĐẶNG HUY QUỐC THỊNH4 Địa chỉ liên hệ: Trần Đặng Ngọc Linh Email: tranhlinhub04@yahoo.com Ngày nhận bài: 09/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 TS.BS. Trưởng Khoa Xạ trị phụ khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM Trưởng Bộ Môn Ung thư Trường Đại học Y Dược TP. HCM 2 Bác sĩ nội trú Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược TP.HCM 3 Khoa Vận hành máy xạ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 TS.BS. Phó Giám đốc - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới, ung thư cổ tử cung là một trong mười ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và là ung thư phụ khoa phổ biến thứ hai sau ung thư vú. Tại Việt Nam, theo dữ liệu từ GLOBOCAN 2018 ung thư cổ tử cung đứng thứ 2 về ung thư phụ khoa, đứng thứ 7 về các loại ung thư thường gặp ở phụ nữ với xuất độ chuẩn tuổi là 7,1/100000 dân. Tại Việt Nam bệnh TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá sự thay đổi chất lượng sống liên quan sức khỏe (HRQOL) của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ được điều trị bằng hóa xạ trị đồng thời. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu. Đánh giá HRQOL của 60 bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ (FIGO 2009: IB2, IIA2, IIB, III, IVA) được điều trị bằng hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời bằng bảng câu hỏi QLQ-C30 tại 4 thời điểm (trước điều trị, 3 tuần, 7 tuần và 9 tháng) ở Khoa Xạ 2, bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ 1/1/2014 đến hết năm 31/12/2018. Kết quả: Chỉ số sức khỏe tổng quát (GHS) và các chỉ số chức năng (thể chất, vai trò, nhận thức, xã hội) đều suy giảm đáng kể trong thời gian điều trị, đạt điểm số thấp nhất tại thời điểm 7 tuần và hồi phục lại tại thời điểm 9 tháng. Ngoại trừ chức năng cảm xúc cải thiện đáng kể theo thời gian. Trong các đó các chỉ số triệu chứng như mệt mỏi, nôn/ buồn nôn, khó thở, mất ngủ, chán ăn và tiêu chảy đều có xu hướng tăng lên trong quá trình điều trị (thời điểm 3 tuần và 7 tuần) sau đó hồi phục lại vào thời điểm 9 tháng. Sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Chỉ có hai triệu chứng đau và táo bón không có sự thay đổi đáng kể theo thời gian (p = 0,789 và p = 0,572). Vấn đề tài chính của bệnh nhân cải thiện đáng kể sau điều trị (p = 0,002). Trong các yếu tố tuổi và lâm sàng bệnh học, chỉ ghi nhận sự ảnh hưởng đáng kể của BMI lên chỉ số sức khỏe tổng quát (GHS) tại thời điểm 3 tuần (p = 0,008). Điểm số GHS của hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời thay đổi tương tự nhau theo thời gian. Kết luận: HRQOL của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ sau hóa xạ trị đồng thời suy giảm trong quá trình điều trị, xuống thấp nhất tại thời điểm cuối điều trị (thời điểm 7 tuần) và hồi phục lại tại thời điểm 9 tháng sau điều trị không khác biệt giữa 2 phác đồ hóa trị mỗi tuần và mỗi 3 tuần. Từ khóa: Chất lượng sống liên quan sức khỏe, ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ, hóa xạ trị đồng thời. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 379 nhân thường nhập viện ở giai đoạn tiến xa tại chỗ và di căn[11]. Trong vài thập kỉ qua, sự quan tâm về vấn đề chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư đang được gia tăng. Điều này đi liền với hiệu quả điều trị gia tăng thời gian và tỉ lệ sống còn và việc sử dụng các liệu pháp điều trị đa mô thức với những lo ngại về ảnh hưởng của độc tính lên chất lượng cuộc sống bệnh nhân. Việc đưa chất lượng sống vào như kết quả của các thử nghiệm lâm sàng là rất quan trọng để đánh giá tác động đầy đủ của các mô thức điều trị đối với bệnh nhân. Đối với ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ, hóa xạ trị đồng thời dựa trên cisplatin là phương pháp điều trị chuẩn hiện nay với nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả trên giảm đáng kể tái phát tại chỗ và có lợi ích trên sống còn. Tuy nhiên hóa xạ trị đồng thời cũng gia tăng đáng kể độc tính độ 3, độ 4 huyết học và đường tiêu hóa[2],[4]. Không có nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng sống ung thư cổ tử cung. Trong đó đa số là các nghiên cứu cắt ngang và không đồng nhất bao gồm cả giai đoạn sớm và giai đoạn tiến xa với nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Một số nghiên cứu đánh giá tác động của điều trị trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa, hầu hết các triệu chứng và điểm số chức năng suy giảm nhiều nhất tại thời điểm kết thúc điều trị (sau 5 tuần) hoặc 1 tuần sau điều trị và nhìn chung hầu hết các triệu chứng và thang điểm chức năng trở lại mức cơ bản một lần nữa sau khoảng 3 tháng sau điều trị[5-7]. Việc đánh giá chất lượng sống bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ sau hóa xạ trị đồng thời giúp bác sĩ lâm sàng có thêm thông tin đầy đủ về các tác động của điều trị, từ đó giúp tư vấn và hỗ trợ bệnh nhân tốt hơn trong quá trình điều trị trên nhóm bệnh nhân này. Nghiên cứu này đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ sau hóa xạ trị đồng thời. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu hồi cứu Dân số chọn mẫu: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung điều trị tại Khoa Xạ 2 Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 1/1/2014 đến hết năm 31/12/2018. Tiêu chuẩn chọn bệnh Ung thư nguyên phát cổ tử cung có giải phẫu bệnh là carcinôm tế bào gai, carcinôm tuyến hoặc carcinôm gai tuyến. Giai đoạn tiến xa tại chỗ (FIGO 2009: IB2, IIA2, IIB, III, IVA). Chỉ số hoạt động cơ thể (KPS) ≥60 hoặc ECOG 0 - 2. Bệnh nhân có dự trữ tủy và chức năng gan thận chịu đựng được hóa trị. Bệnh nhân biết có khả năng đọc hiểu và trả lời câu hỏi. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và ký giấy xác nhận. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đã được phẫ ... hư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ được điều trị một trong hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời (cisplatin 40 mg/m2 da mỗi tuần hoặc cisplatin 75 mg/m2 da mỗi ba tuần) Đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe: Bảng câu hỏi QLQ-C30 được bệnh nhân thực hiện tại 4 thời điểm: trước điều trị, tuần thứ 3 và tuần thứ 7 của điều trị hóa xạ đồng thời và tháng thứ 9 sau điều trị hóa xạ đồng thời. Trong đó, thời điểm 3 tuần là thời điểm bắt đầu có thể đánh giá được các tác động phụ sớm của điều trị; thời điểm 7 tuần giúp đánh giá HRQOL tại thời điểm kết thúc điều trị hóa xạ trị đồng thời; và thời điểm 9 tháng là thời điểm bệnh ổn định, có thể bắt đầu đánh giá được tác động của các tác dụng phụ muộn của điều trị. Ghi nhận thông tin bệnh nhân qua hồ sơ theo dõi. Xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 21,0. KẾT QUẢ Tổng cộng có 60 bệnh nhân thỏa mãn các tiêu chuẩn của nghiên cứu, trong đó có 29 bệnh nhân điều trị phác đồ cisplatin mỗi tuần và 31 bệnh nhân điều trị phác đồ cisplatin mỗi 3 tuần. Bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 51,2 tuổi. Chỉ số khối cơ thể Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 380 (BMI) trung bình là 2,4kg/m2. Chỉ có 30% bệnh nhân có bệnh lý mãn tính kèm theo, trong đó chủ yếu là bệnh lý tăng huyết áp và đái tháo đường. Tỷ lệ thiếu máu trước điều trị khoảng khá cao 32,7%. Bệnh nhân chủ yếu ở giai đoạn IIB, bướu >4cm (kích thước trung bình 4,5cm), giải phẫu bệnh carcinôm tế bào gai và grad 2. Các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và bệnh học của hai nhóm bệnh nhân trước điều trị là tương đồng nhau, trừ chỉ số BMI. Bệnh nhân điều trị với phác đồ hóa xạ trị đồng thời với liều cisplatin mỗi tuần có chỉ số BMI cao hơn nhóm bệnh nhân điều trị với phác đồ hóa xạ trị đồng thời với cisplatin mỗi 3 tuần (p = 0,017). Biểu đồ 1. Chỉ số GHS theo thời gian Chỉ số GHS thay đổi theo có ý nghĩa thống kê theo thời gian (p < 0,001). Chỉ số GHS giảm trong quá trình điều trị hóa xạ đồng thời và đạt điểm số thấp nhất tại thời điểm 7 tuần, sau đó tăng lên đạt điểm số cao nhất tại thời điểm 9 tháng với điểm trung bình là 84,7. Biểu đồ 2. Các chỉ số chức năng theo thời gian Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 381 Tất cả các điểm số chức năng đều thay đổi có ý nghĩa thống kê theo các thời điểm đánh giá (p <0,05). Chức năng cảm xúc hồi phục sớm, các chức năng còn lại đều suy giảm trong thời gian điều trị, đạt điểm số thấp nhất tại thời điểm 7 tuần và hồi phục lại tại thời điểm 9 tháng. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 382 Biểu đồ 3. Các chỉ số triệu chứng theo thời gian Trong các chỉ số triệu chứng, chỉ có hai triệu chứng đau và táo bón không có sự thay đổi đáng kể theo thời gian (p = 0,789 và p = 0,572). Các triệu chứng còn lại như mệt mỏi, nôn/ buồn nôn, khó thở, mất ngủ, chán ăn và tiêu chảy đều có xu hướng tăng lên trong quá trình điều trị (thời điểm 3 tuần và 7 tuần) sau đó hồi phục lại vào thời điểm 9 tháng. Vấn đề tài chính giảm dần theo thời gian tại các thời điểm theo dõi. Sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Bảng 1. Giá trị p khi so sánh điểm số GHS theo từng yếu tố tại các thời điểm Ban đầu 3 tuần 7 tuần 9 tháng Tuổi 0,752 0,316 0,74 0,539 BMI 0,298 0,008 0,359 0,762 Bệnh kèm theo 0,312 0,917 0,415 0,857 Thiếu máu 0,938 Giai đoạn 0,118 0.324 0,705 0,687 Kích thước bướu 0,933 0,1 0,925 0,179 Phác đồ hóa trị 0,519 0,144 0,137 0,781 Chỉ ghi nhận sự khác biệt đáng kể của chỉ số sức khỏe tổng quát (GHS) giữa hai nhóm BMI <23mg/m2 và ≥23mg/m2 tại thời điểm 3 tuần (p = 0,008). Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 383 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 384 Biểu đồ 4. So sánh điểm số các chỉ số HRQOL giữa hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời Điểm số GHS của hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời thay đổi tương tự nhau theo thời gian với p < 0,001. Nhìn chung, cả 5 chỉ số chức năng của hai phác đồ đều thay đổi tương tự nhau. Tuy nhiên, bệnh nhân điều trị phác đồ mỗi 3 tuần có chức năng nhận thức thay đổi chưa có ý nghĩa thống kê (p = 0,865). Các thang điểm triệu chứng giữa hai phác đồ cũng thay đổi khá tương đồng. Chỉ duy nhất triệu chứng khó thở thay đổi có ý nghĩa thống kê ở phác đồ mỗi tuần (p = 0,024), tuy nhiên không có ý nghĩa ở phác đồ mỗi 3 tuần (p = 0,21). BÀN LUẬN Tùy theo phác đồ hóa xạ trị đồng thời, thời điểm kết thúc hóa xạ trị có thể là 5 tuần, 6 tuần hay 7 tuần. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân có hai phác đồ hóa xạ trị, phác đồ một tuần hóa trị kết thúc vào tuần thứ 6, phác đồ mỗi 3 tuần hóa trị kết thúc vào tuần thứ 7, xạ trị kết thúc vào khoảng tuần thứ 8. Vì vậy thời điểm 7 tuần là thời điểm độc tích cấp tích lũy nhiều nhất là phù hợp. Đây là thời điểm có điểm số chức năng suy giảm mạnh nhất cũng như triệu chứng tích lũy nhiều nhất. Điều này cũng thấy tương tự trong một số nghiên cứu của tác giả Heijkoop và Krichheniner. Trong các nghiên cứu, thời điểm hồi phục bắt đầu từ tháng thứ 3 sau điều trị[5],[6]. Trong nghiên cứu này, chỉ số GHS và các chỉ số chức năng bị suy giảm cũng như các triệu chứng tăng lên trong quá trình điều trị đều hồi phục tại thời điểm 9 tháng là phù hợp. Chức năng cảm xúc cải thiện sau điều trị cho thấy sự lo lắng của bệnh nhân được giảm bớt sau đáp ứng lâm sàng của hóa xạ trị đồng thời. Vấn đề tài chính cải thiện sau điều trị do không còn gánh nặng về các chi phí điều trị cũng như sinh hoạt và đi lại. Một số nghiên cứu ghi nhận tuổi là yếu tố ảnh hưởng đến điểm số sức khỏe chung, trong khi đó một số khác ngược lại[3], [8], [8], [10], [12], [13]. Không ghi nhận sự ảnh hưởng của giai đoạn bệnh lên chỉ số GHS tương tự như nghiên cứu của tác giả Distefano M.(2008) và Pasek (2012)[3], [12]. Có sự khác biệt với tác giả Singh U (2019) khi tác giả ghi nhận kích thước bướu liên quan đến chỉ số GHS[13], tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi 9 trường hợp <4cm đều có kích thước 3cm. Một số nghiên cứu ghi nhận bệnh đồng mắc và thiếu máu có ảnh hưởng đến sức khỏe tổng quát[3],[14]. Trong nghiên cứu này, bệnh đồng mắc phổ biến nhất là tăng huyết áp đều được điều trị và kiểm soát ổn, thiếu máu đa số ở mức độ nhẹ trước điều trị, điều này có thể dẫn đến sự khác Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 385 biệt trong kết quả nghiên cứu. Tác giả Mikkelsen (2016) không ghi nhận sự khác biệt chỉ số GHS với BMI bệnh nhân, tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi[9]. HRQOL tương đồng giữa hai nhóm bệnh nhân được điều trị với hai phác đồ hóa xạ trị đồng thời một lần nữa khẳng định hiệu quả tương đương của hai phác đồ này. Trong đó tỉ lệ tái phát, sống còn cũng như độc tính cấp hay muộn đã được chứng minh là tương đương ở nhiều nghiên cứu, kể cả trên nhóm bệnh nhân của nghiên cứu này[1], [15]. KẾT LUẬN Chất lượng sống liên quan sức khỏe của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa được hóa xạ trị đồng thời ở cả hai phác đồ đều có sự thay đổi tương tự nhau. Đa số đều suy giảm đáng kể trong quá trình điều trị, trong đó suy giảm mạnh nhất tại thời điểm cuối điều trị (thời điểm 7 tuần) và hồi phục lại tại thời điểm 9 tháng sau điều trị. Điểm số tại thời điểm 9 tháng cải thiện hơn so với thời điểm ban đầu tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố như tuổi và lâm sàng bệnh học (BMI, bệnh lý đi kèm, thiếu máu, giai đoạn bệnh, kích thước bướu và phác đồ điều trị) dù ảnh hưởng đến các chỉ số thành phần khác nhau nhưng nhìn chung đều không ghi nhận sự ảnh hưởng đáng kể lên chỉ số sức khỏe tổng quát (GHS). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đường Hùng Mạnh (2018). "So sánh hiệu quả hóa xạ trị triệt để ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ với cisplatin liều cao mỗi ba tuần và liều thấp mỗi tuần". Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại học y dược TP. Hồ Chí Minh. 2. Chemoradiotherapy for Cervical Cancer Meta- Analysis Collaboration 2008. "Reducing uncertainties about the effects of chemoradiotherapy for cervical cancer: a systematic review and meta-analysis of individual patient data from 18 randomized trials". J Clin Oncol, 26(35), 5802 - 12. 3. Distefano M., Riccardi S., Capelli G., et al. (2008). "Quality of life and psychological distress in locally advanced cervical cancer patients administered pre-operative chemoradiotherapy". Gynecol Oncol, 111(1), 144 - 50. 4. Green J. A., Kirwan J. M., Tierney J. F., et al. (2001). "Survival and recurrence after concomitant chemotherapy and radiotherapy for cancer of the uterine cervix: a systematic review and meta-analysis". Lancet, 358(9284), 781 - 6. 5. Heijkoop S. T., Nout R. A., Quint S., et al. (2017). "Dynamics of patient reported quality of life and symptoms in the acute phase of online adaptive external beam radiation therapy for locally advanced cervical cancer". Gynecol Oncol, 147(2), 439 - 449. 6. Kirchheiner K., Nout R. A., Czajka-Pepl A., et al. (2015). "Health related quality of life and patient reported symptoms before and during definitive radio (chemo) therapy using image-guided adaptive brachytherapy for locally advanced cervical cancer and early recovery - a mono- institutional prospective study". Gynecol Oncol, 136(3), 415 - 23. 7. Kirchheiner K., Potter R., Tanderup K., et al. (2016). "Health-Related Quality of Life in Locally Advanced Cervical Cancer Patients After Definitive Chemoradiation Therapy Including Image Guided Adaptive Brachytherapy: An Analysis From the EMBRACE Study". Int J Radiat Oncol Biol Phys, 94(5), 1088 - 98. 8. Kumar Satwant, Rana Madhu Lata, Verma Khushboo, et al. (2014). "PrediQt-Cx: post treatment health related quality of life prediction model for cervical cancer patients". PloS one, 9(2), e89851. 9. Mikkelsen Tina Broby, Sørensen Bente, Dieperink Karin B (2017). "Prediction of rehabilitation needs after treatment of cervical cancer: what do late adverse effects tell us?". Supportive care in cancer, 25(3), 823 - 831. 10. Nie Shu-xia, Gao Chuan-qiang (2014). "Health behaviors and quality of life in Chinese survivors of cervical cancer: a retrospective study". OncoTargets and therapy, 7, 627. 11. Organization World Health (2018). "International Agency of Research on Cancer. GLOBOCAN 2018". CANCER TODAY-Cancer Incidence, Mortality and Prevalence Worldwide in. 12. 12. Pasek Małgorzata, Suchocka Lilia, Urbański Krzysztof (2013). "Quality of life in cervical cancer patients treated with radiation therapy". Journal of clinical nursing, 22(5 - 6), 690 - 697. 13. 13. Singh Uma, Verma Manju Lata, Rahman Zakia, et al. (2019). "Factors affecting quality of life of cervical cancer patients: A multivariate analysis". Journal of Cancer Research and Therapeutics, 15(6), 1338. 14. Vaz Ana Francisca, Pinto-Neto Aarão Mendes, Conde Délio Marques, et al. (2007). "Quality of life of women with gynecologic cancer: Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 386 associated factors". Archives of gynecology and obstetrics, 276(6), 583. 15. Zhu Jiahao, Zhang Zheng, Bian Dongyan, et al. (2020). "Weekly versus triweekly cisplatin-based concurrent chemoradiotherapy in the treatment of locally advanced cervical carcinoma: An updated meta-analysis based on randomized controlled trials". Medicine, 99(1). Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 387 ABSTRACT Health related quality of life in locally advanced cervical cancer patients after concurrent chemoradiation Purpose: To evaluate heath related quality of life (HRQOL) after chemoradiotherapy in locally advanced cervical cancer patients and analyze factors that influence HRQOL. Patient and methods: Retrospective study. Sixty locally advanced cervical cancer patients (FIGO 2009: IB2, IIA2, IIB, III, IVA) were treated with two concurrent chemoradiation regimens in Gynecological Radiotherapy Deparment, Ho Chi Minh Oncology Hospital from 1/1/2014 to 31/12/2018, HRQOL were assessed with QLQ-C30 questionnaire at four time points of treatment (baseline, 3 weeks, 7 weeks and 9 months). Results: Global health status, physical, role, social and cognitive functioning are impaired significally during treatment with lowest scores at 7 weeks and improve at 9 months after treatment. Emotional functioning improves significally over time. Fatique, vomiting/nausea, dyspnea, insomnia, appetite loss and diarrhea increase during treatment (3 weeks, 7 weeks) and decrease at 9 months. The change was statistical significance (p <0,05). Two symptoms (pain and constipation) did not change significantly over time (p = 0,789 and p = 0,572). Financial difficulty improved significally after treatment (p = 0,002). Among age, clinical and pathology factors, there was only a significant association between GHS and BMI at 3 weeks (p = 0,21). GHS scores of two concurrent chemotherapy regimens changed similarly over time (p < 0.001). In general, five functionings and symptoms of 2 regimens change similarly. Conclusion: HRQOL in locally advanced cervical cancer patients treated with two concurrent chemoradiation regimens changed similarly. HRQOL was impaired significally during treatment with lowest scores at 7 weeks and improve at 9 months after treatment. Age, clinical and pathology factors did not generally have a significant association with GHS. Keywords: Heath ralated quality of life, Locally advanced cervical cancer, Concurrent chemoradiation.
File đính kèm:
- danh_gia_chat_luong_song_lien_quan_suc_khoe_cua_benh_nhan_un.pdf