Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh

Mục tiêu: Chất lượng cuộc sống (CLCS) đã và đang là vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới, đặc

biệt đối với các bệnh ung thư có thể chữa được như ung thư vú. Tại Việt Nam, đa phần các nghiên cứu

dùng các thang đo chung, không đo lường được những vấn đề mang tính chuyên biệt của ung thư vú.

Nghiên cứu này nhằm xác định điểm CLCS trung bình và các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư vú

tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020, có sử dụng thang đo chuyên biệt cho bệnh

nhân ung thư vú.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 04/2020 đến

tháng 06/2020, tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, với phương pháp chọn mẫu phân tầng

theo khoa phòng. Thang đo QLQ BR-53 được sử dụng để đo lường CLCS của bệnh nhân ung thư vú. Đây

là thang đo được xây dựng từ bộ thang đo QLQ C-30 và QLQ BR-23 của tổ chức nghiên cứu và điều trị

ung thư Châu Âu (EORTC), đã được đánh giá tính giá trị và độ tin cậy trên cùng đối tượng và cùng địa

điểm nghiên cứu. Các biến số được sử dụng để tìm các yếu tố liên quan đến CLCS bao gồm: thang đo

APGAR để đánh giá chức năng gia đình, thang đo HADS để khảo sát tình trạng lo âu, trầm cảm bệnh

viện.

Kết quả: Điểm CLCS trung bình của bệnh nhân ung thư vú là 61,6 ± 19,0. Chức năng chịu ảnh hưởng

nhiều nhất là Hình ảnh cơ thể với điểm số là 65,7 ± 23,7. Triệu chứng gây tác động xấu nhất là Triệu

chứng cơ năng và Triệu chứng rụng tóc với các mức điểm lần lượt là 44,6 ± 23,1 và 44,6 ± 34,8. Các yếu

tố liên quan bao gồm nhóm tuổi, tình trạng kinh tế, phân loại BMI, trầm cảm.

Kết luận: Điểm CLCS của bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện ung bướu nằm ở mức

trung bình so với các nước trong khu vực và thế giới. Gia đình, bệnh viện cần có sự quan tâm nhiều hơn

đến sự xuất hiện và tác động của các yếu tố liên quan gây giảm CLCS của bệnh nhân.

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 10171
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú và các yếu tố liên quan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 484 
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ 
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
NGUYỄN THỊ THÚY QUYÊN1, KIM XUÂN LOAN2 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Thúy Quyên 
Email: quyen.nguyen.vhdp14@gmail.com 
Ngày nhận bài: 07/10/2020 
Ngày phản biện: 03/11/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 
1 Bác sĩ Y học dự phòng - ĐHYD TP. HCM 
2 Giảng viên Bộ môn Dịch tễ - ĐHYD TP. HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo GLOBOCAN, tại Việt Nam, năm 2018, tỉ lệ 
mới mắc chuẩn theo tuổi của ung thư vú (UTV) là 
26,4/100.000 phụ nữ, cao nhất trong các loại ung 
thư ở phụ nữ và vẫn đang có xu hướng tăng 
nhanh[8,10]. Những cải tiến trong phát hiện sớm và 
điều trị đã giúp bệnh nhân UTV kéo dài đáng kể số 
năm sống. Tuy nhiên, ngay cả khi tỉ lệ chữa khỏi 
bệnh cao, bệnh nhân UTV vẫn phải đấu tranh với 
nhiều vấn đề liên quan khác. Do đó, bên cạnh việc 
điều trị sức khỏe thể chất, cần khảo sát về CLCS 
nhằm tìm ra các giải pháp giúp thúc đẩy, cải thiện 
CLCS bệnh nhân trong và sau điều trị, gia tăng tỉ lệ 
sống còn của bệnh nhân, đặc biệt đối với các bệnh 
ung thư có thể chữa được như UTV. 
Có tương đối ít nghiên cứu về CLCS của bệnh 
nhân UTV ở Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Thu Hà và cộng sự sử dụng thang đo QLQ-
C30, cho kết quả điểm Sức khỏe tổng quát (SKTQ) 
của bệnh nhân UTV là 58,6 ± 16,6[3]. Nghiên cứu 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Chất lượng cuộc sống (CLCS) đã và đang là vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới, đặc 
biệt đối với các bệnh ung thư có thể chữa được như ung thư vú. Tại Việt Nam, đa phần các nghiên cứu 
dùng các thang đo chung, không đo lường được những vấn đề mang tính chuyên biệt của ung thư vú. 
Nghiên cứu này nhằm xác định điểm CLCS trung bình và các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư vú 
tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020, có sử dụng thang đo chuyên biệt cho bệnh 
nhân ung thư vú. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 04/2020 đến 
tháng 06/2020, tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, với phương pháp chọn mẫu phân tầng 
theo khoa phòng. Thang đo QLQ BR-53 được sử dụng để đo lường CLCS của bệnh nhân ung thư vú. Đây 
là thang đo được xây dựng từ bộ thang đo QLQ C-30 và QLQ BR-23 của tổ chức nghiên cứu và điều trị 
ung thư Châu Âu (EORTC), đã được đánh giá tính giá trị và độ tin cậy trên cùng đối tượng và cùng địa 
điểm nghiên cứu. Các biến số được sử dụng để tìm các yếu tố liên quan đến CLCS bao gồm: thang đo 
APGAR để đánh giá chức năng gia đình, thang đo HADS để khảo sát tình trạng lo âu, trầm cảm bệnh 
viện. 
Kết quả: Điểm CLCS trung bình của bệnh nhân ung thư vú là 61,6 ± 19,0. Chức năng chịu ảnh hưởng 
nhiều nhất là Hình ảnh cơ thể với điểm số là 65,7 ± 23,7. Triệu chứng gây tác động xấu nhất là Triệu 
chứng cơ năng và Triệu chứng rụng tóc với các mức điểm lần lượt là 44,6 ± 23,1 và 44,6 ± 34,8. Các yếu 
tố liên quan bao gồm nhóm tuổi, tình trạng kinh tế, phân loại BMI, trầm cảm. 
Kết luận: Điểm CLCS của bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện ung bướu nằm ở mức 
trung bình so với các nước trong khu vực và thế giới. Gia đình, bệnh viện cần có sự quan tâm nhiều hơn 
đến sự xuất hiện và tác động của các yếu tố liên quan gây giảm CLCS của bệnh nhân. 
Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, ung thư vú, QLQ BR-53, HADS, APGAR. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 485 
Trần Thanh Hương và cộng sự, sử dụng thang đo 
SF-36, cho điểm SKTQ là 54,6 (95% CI: 52,5-
56,7)[12]. Tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, 
giai đoạn bệnh, stress, thói quen ngủ trễ là các yếu 
tố liên quan được tìm thấy trong 2 nghiên cứu trên. 
Tuy nhiên, cả 2 nghiên cứu này đều sử dụng các 
thang đo chung, chưa thể hiện được các đặc điểm 
và các tác động chuyên biệt của bệnh UTV lên 
CLCS của bệnh nhân. Tại Việt Nam, thang đo đánh 
giá CLCS dành riêng cho UTV theo tổ chức nghiên 
cứu và điều trị ung thư Châu Âu (QLQ-C30 và QLQ-
BR23) đã được đánh giá tính giá trị và tin cậy bởi tác 
giả Lưu Quốc Quang 2018. Do vậy, nghiên cứu này 
được thực hiện có sử dụng thang đo đã được đánh 
giá nhằm xác định điểm CLCS trung bình của bệnh 
nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện Ung 
Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020, từ đó cung 
cấp thêm dữ liệu cơ sở khoa học về CLCS bệnh 
nhân ung thư vú ở công cụ mang tính đặc thù hơn, 
rõ ràng hơn. 
Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM là bệnh viện 
chuyên khoa hạng I, được Bộ Y tế phân công phụ 
trách các tỉnh thành phía Nam. Đây là một trong 
những bệnh viện đầu ngành về Ung Bướu của Việt 
Nam. Do đó, đây là địa điểm phù hợp để thực hiện 
các nghiên cứu về các bệnh ung thư, trong đó có 
ung thư vú. 
Nghiên cứu này được thực hiện tại bệnh viện 
Ung Bướu nhằm xác định điểm CLCS bệnh nhân 
UTV và các yếu tố liên quan, từ đó có cơ sở để xây 
dựng giải pháp để cải thiện, nâng cao CLCS cho 
bệnh nhân UTV. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Thời gian nghiên cứu: tháng 04 - tháng 06 năm 
2020. 
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Ung Bướu 
TP. HCM. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên đang điều trị ung 
thư vú nội trú hoặc ngoại trú, tại Bệnh viện Ung 
Bướu TP. HCM trong thời gian tiến hành nghiên cứu 
và đồng ý tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân quá 
yếu, không có khả năng tự chăm sóc và khó khăn 
trong giao tiếp, bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn 
trầm cảm, rối loạn lo âu trong vòng 
01 tháng được loại ra khỏi nghiên cứu. 
Cỡ mẫu 
Sử dụng công thức ước lượng trung bình: 
N = Z2(1- ) * ( 
Trong đó: α là xác suất sai lầm loại 1, chọn α = 
0,05. Z2(1- ) là trị số phân phối chuẩn => Z2(1- ) = 
1,96. σ là độ lệch chuẩn ước lượng trong dân số. 
Theo nghiên cứu của Sri Ganesh tại Malaysia[8], 
điểm CLCS trung bình là 65,7 ± 21,4 chọn σ = 
21,4. 
d là sai số của ước lượng, chọn d = 4. Dự  ... ,1 ± 33,8 
0,741 
Phẫu thuật 
Có 
Không 
p 
68,1 ± 15,2 
80,9 ± 15,8 
0,104 
45 ± 16,7 
44,5 ± 23,3 
0,976 
50 ± 29,4 
66,7 ± 28,5 
0,315 
60,4 ± 40,5 
65,9 ± 23,2 
0,877 
20,8 ± 41,6 
45,4 ± 34,5 
0,230 
Hóa trị 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 489 
Có 
Không 
p 
79,9 ± 14,9 
81,8 ± 18,1 
0,337 
47,8 ± 22,4 
37,3 ± 23,1 
0,009 
67,1 ± 27,8 
63,7 ± 30,5 
0,549 
67,1 ± 21,2 
62,6 ± 28,5 
0,507 
54,7 ± 31,7 
21,6 ± 30,6 
0,000 
Xạ trị 
Có 
Không 
p 
83,5 ± 18,1 
79,5 ± 14,9 
0,096 
36,4 ± 24,1 
47,5 ± 22,1 
0,009 
64,6 ± 30,4 
66,5 ± 28,0 
0,708 
62,2 ± 27,7 
66,9 ± 22,1 
0,418 
24,5 ± 30,8 
51,9 ± 33,5 
0,000 
Giai đoạn bệnh 
Giai đoạn I 
Giai đoạn II 
Giai đoạn III 
Không rõ 
p 
87,8 ± 11,4 
78,2 ± 17,2 
82,2 ± 14,5 
88,9 
0,499 
37,3 ± 29,3 
46,5 ± 23,6 
43,9 ± 21,6 
0 
0,311 
64,4 ± 21,4 
67,8 ± 28,9 
63,6 ± 28,9 
100 
0,529 
85,0 ± 17,1 
66,0 ± 21,4 
63,0 ± 25,6 
100 
0,108 
40,0 ± 38,3 
46,4 ± 33,2 
43,0 ± 37,1 
50,0 
0,966 
BMI 
Gầy 
Bình thường 
Thừa cân/ Tiền béo phì 
Béo phì 
p 
64,4 ± 16,0 
78,6 ± 16,4 
85,9 ± 12,0 
80,6 ± 16,7 
0,039 
49,3 ± 30,0 
43,4 ± 23,4 
45,0 ± 22,8 
45,2 ± 22,8 
0,984 
60,0 ± 36,5 
64,3 ± 28,1 
70,1 ± 27,4 
65,6 ± 30,2 
0,782 
55,0 ± 24,7 
63,5 ± 22,3 
68,2 ± 22,5 
68,2 ± 26,7 
0,443 
26,7 ± 36,5 
43,1 ± 35,4 
45,8 ± 34,4 
48,5 ± 34,7 
0,629 
Lo âu 
Có 
Không 
p 
73,1 ± 17,1 
82,4 ± 15,1 
0,014 
51,1 ± 23,4 
42,9 ± 22,8 
0,123 
45,4 ± 29,6 
71,1 ± 26,0 
0,000 
59,7 ± 31,8 
67,1 ± 21,1 
0,317 
39,6 ± 38,0 
45,8 ± 34,1 
0,545 
Trầm cảm 
Có 
Không 
p 
71,2 ± 17,7 
84,2 ± 13,5 
0,000 
59,8 ± 21,2 
38,6 ± 21,0 
0,000 
45,1 ± 28,8 
74,2 ± 24,1 
0,000 
52,4 ± 27,9 
70,9 ± 19,6 
0,000 
53,4 ± 35,7 
41,2 ± 34,1 
0,054 
Phân loại APGAR 
Gia đình mâu thuẫn 
Gia đình gắn kết không tốt 
Gia đình gắn kết tốt 
p 
66,7 ± 23,9 
82,9 ± 14,5 
80,9 ± 15,5 
0,326 
61,3 ± 26,0 
37,6 ± 17,8 
44,7 ± 23,3 
0,182 
40,0 ± 42,0 
70,6 ± 25,6 
66,7 ± 27,9 
0,267 
78,3 ± 23,3 
69,0 ± 19,2 
64,6 ± 24,2 
0,530 
36,7 ± 50,5 
33,3 ± 33,3 
46,6 ± 34,2 
0,383 
Bảng 7. Điểm CLCS và các yếu tố liên quan (TT) 
Nội dung TT TCTH GĐTCTL TCMN SKTQ 
Nhóm tuổi 
< 50 tuổi 
≥ 50 tuổi 
p 
46,8 ± 10,4 
50,7 ± 11,3 
0,041 
6,4 ± 10,7 
12,4 ± 19,8 
0,192 
51,3 ± 7,1 
53,7 ± 8,9 
0,252 
17,2 ± 12,5 
26,0 ± 18,9 
0,012 
64,6 ± 18,5 
58,5 ± 18,9 
0,046 
Tình trạng kinh tế 
Không đủ sống 
47,6 ± 12,9 
9,7 ± 16,2 
57,0 ± 9,3 
27,6 ± 18,7 
50,2 ± 16,5 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 490 
Đủ sống 
p 
49,2 ± 10,1 
0,371 
9,2 ± 16,1 
0,617 
50,3 ± 6,5 
0,000 
18,6 ± 14,5 
0,010 
67,1 ± 17,6 
0,000 
Phẫu thuật 
Có 
Không 
p 
49,3 ± 13,3 
48,7 ± 11,0 
0,941 
0 
9,7 ± 16,2 
0,137 
58,3 ± 6,8 
52,3 ± 8,1 
0,117 
11,1 ± 12,8 
21,8 ± 16,5 
0,118 
58,3 ± 31,2 
61,7 ± 18,5 
0,912 
Hóa trị 
Có 
Không 
p 
49,0 ± 10,9 
48,0 ± 11,4 
0,709 
11,1 ± 17,2 
5,4 ± 12,4 
0,018 
52,0 ± 8,7 
53,6 ± 6,4 
0,333 
22,9 ± 15,9 
18,3 ± 17,4 
0,118 
62,1 ± 18,0 
60,6 ± 21,2 
0,857 
Xạ trị 
Có 
Không 
p 
47,5 ± 11,5 
49,1 ± 10,8 
0,519 
6,6 ± 13,2 
10,4 ± 16,9 
0,351 
53,6 ± 8,7 
52,1 ± 8,7 
0,342 
19,4 ± 18,1 
22,2 ± 15,9 
0,329 
59,6 ± 20,1 
62,3 ± 18,5 
0,521 
Giai đoạn bệnh 
Giai đoạn I 
Giai đoạn II 
Giai đoạn III 
Không rõ 
p 
51,7 ± 7,2 
49,2 ± 10,9 
47,9 ± 11,5 
50,0 
0,869 
2,2 ± 4,9 
9,8 ± 17,9 
9,7 ± 14,5 
0 
0,632 
55,0 ± 4,5 
52,1 ± 8,6 
52,6 ± 7,8 
58,3 
0,408 
15,5 ± 18,5 
22,9 ± 16,7 
20,6 ± 16,2 
11,1 
0,617 
76,7 ± 10,9 
63,0 ± 16,0 
58,3 ± 21,5 
83,3 
0,106 
BMI 
Gầy 
Bình thường 
Thừa cân / Tiền béo phì 
Béo phì 
p 
47,8 ± 7,7 
48,2 ± 12,5 
50,3 ± 10,2 
48,1 ± 9,9 
0,847 
8,9 ± 12,3 
8,9 ± 13,1 
8,6 ± 16,6 
10,8 ± 20,1 
0,929 
56,7 ± 6,9 
54,2 ± 8,2 
49,5 ± 7,3 
52,2 ± 8,1 
0,058 
17,8 ± 6,1 
23,9 ± 18,1 
20,5 ± 14,4 
19,2 ± 16,7 
0,729 
55,0 ± 13,9 
62,2 ± 19,3 
69,0 ± 17,7 
54,5 ± 17,7 
0,008 
Lo âu 
Có 
Không 
p 
46,1 ± 10,6 
49,4 ± 11,1 
0,272 
11,6 ± 15,9 
8,8 ± 16,1 
0,279 
53,8 ± 6,5 
52,1 ± 8,4 
0,349 
23,6 ± 17,4 
21,0 ± 16,3 
0,437 
53,8 ± 23,3 
63,6 ± 17,2 
0,062 
Trầm cảm 
Có 
Không 
p 
48,9 ± 11,9 
48,6 ± 10,7 
0,587 
10,8 ± 16,7 
8,8 ± 15,8 
0,472 
56,4 ± 8,2 
50,9 ± 7,5 
0,003 
24,2 ± 14,10 
20,4 ± 17,3 
0,111 
48,2 ± 20,0 
66,8 ± 15,7 
0,000 
Phân loại APGAR 
Gia đình mâu thuẫn 
Gia đình gắn kết không tốt 
Gia đình gắn kết tốt 
p 
47,2 ± 18,3 
50,6 ± 12,4 
48,5 ± 10,5 
0,882 
2,2 ± 4,9 
6,3 ± 11,2 
10,1 ± 16,8 
0,491 
66,7 ± 8,3 
56,5 ± 6,7 
51,2 ± 7,4 
0,000 
33,3 ± 15,7 
19,0 ± 14,7 
21,2 ± 16,6 
0,252 
41,6 ± 25 
66,1 ± 12,8 
62,0 ± 18,8 
0,122 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 491 
BÀN LUẬN 
Các đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
như độ tuổi, tình trạng kinh tế, tình trạng hôn nhân, 
giai đoạn bệnh, bảo hiểm y tế khá tương đồng với 
nghiên cứu trước đây của tác giả Thiên Trương 
Thùy Dương[1] và nghiên cứu của tác giả Lưu Quốc 
Quang[2] trên cùng đối tượng và địa điểm nghiên 
cứu. 
Về điểm SKTQ, nghiên cứu này tìm thấy điểm 
số là 61,6 điểm, cao hơn so với nghiên cứu của tác 
giả Nguyễn Thu Hà năm 2014 là 58,6 điểm (nghiên 
cứu này sử dụng thang đo QLQ C-30)[3]. So với các 
nước khác, điểm SKTQ của Việt Nam vẫn nằm ở 
nhóm thấp trong khu vực và thế giới[4,11]. 
Trong khảo sát các mối liên quan của nghiên 
cứu này, Chức năng gia đình là yếu tố chưa tìm ra 
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với CLCS mặc dù 
điểm số trung bình tìm thấy có sự chênh lệch giữa 
các nhóm. Khác với nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Thu Hà[3], nghiên cứu này không tìm thấy mối liên 
quan của giai đoạn bệnh và điểm SKTQ. Sự khác 
biệt này có lẽ đến từ sự khác nhau trong phân bố 
giai đoạn của 2 nhóm đối tượng nghiên cứu là khác 
nhau. Về chỉ số BMI của nhóm đối tượng, thể trạng 
của bệnh nhân UTV bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, 
bao gồm hội chứng suy mòn (cachexia) xuất hiện ở 
50% bệnh nhân ung thư[7] và sự tăng cân do tác 
dụng phụ của thuốc hóa trị[6]. Trong nghiên cứu này, 
BMI được tìm thấy có liên quan với hoạt động thể 
chất và sức khỏe tổng quát, sự khác biệt theo 
hướng những người có phân độ BMI bình thường và 
thừa cân thì có CLCS tốt hơn so với những người 
thiếu cân và béo phì. Kết quả này tương tự với 
“nghịch lý béo phì” (obesity paradox) được tác giả 
Juan Xia và các cộng sự tìm ra trong nghiên cứu về 
CLCS bệnh nhân UTV trước đây[14]. Lo âu được tìm 
thấy tác động lên CLCS qua 2 lĩnh vực hoạt động 
thể chất và ảnh hưởng tâm lý. Bên cạnh đó, rất 
nhiều mối liên quan được tìm thấy giữa yếu tố trầm 
cảm và CLCS của bệnh nhân UTV (hầu hết các lĩnh 
vực khảo sát trừ triệu chứng tiêu hóa, triệu chứng 
mất nước và tổng thể). Có thể thấy, vấn đề lo âu, 
trầm cảm tác động rất mạnh mẽ đến CLCS của bệnh 
nhân, các con số thống kê mà nghiên cứu này tìm ra 
là phù hợp với những nghiên cứu đã được thực hiện 
trước đây và có phần rõ ràng hơn khi tìm thấy nhiều 
hơn các mối liên quan có ý nghĩa thống kê[5,9,13]. 
Điều này cũng phản ánh một thực trạng về lo âu, 
trầm cảm mà nhóm đối tượng nghiên cứu đang gặp 
phải và sự tác động của nó lên CLCS là rất đáng kể. 
Cần nhiều hơn các chương trình hỗ trợ, can thiệp để 
giảm thiểu tỉ lệ và mức độ ảnh hưởng của lo âu, 
trầm cảm trên nhóm đối tượng này. 
Đây là nghiên cứu đầu tiên sử dụng thang đo 
chuyên biệt cho UTV sau khi thang đo này được 
đánh giá tính giá trị và độ tin cậy bởi tác giả Lưu 
Quốc Quang[2]. Kết quả bước đầu cho thấy nhiều ưu 
điểm của thang đo, đánh giá được cụ thể các vấn đề 
về CLCS bệnh nhân UTV. Tuy nhiên không tránh 
khỏi những hạn chế. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi 
đã được đánh giá tính giá trị và tin cậy nhưng mới 
được đưa vào áp dụng trong nghiên cứu này nên kết 
quả nghiên cứu có nhiều hạn chế khi so sánh với 
các nghiên cứu khác sử dụng bộ câu hỏi chưa 
chuẩn hóa. 
KẾT LUẬN 
CLCS của bệnh nhân UTV mà nghiên cứu này 
tìm thấy là 61,6 ±19,0. Mức điểm này vẫn thấp so 
với các nước trong khu vực và thế giới. Cần nhiều 
nỗ lực hơn để cải thiện CLCS của bệnh nhân. 
Các mối liên quan được tìm thấy bao gồm: 
nhóm tuổi, tình trạng kinh tế, BMI và trầm cảm. 
Những kết quả này cho thấy cần quan tâm nhiều 
hơn đến tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân trong 
quá trình điều trị và nên phát triển thêm các chương 
trình sàng lọc, phát hiện sớm trầm cảm để có thể 
can thiệp kịp thời, giúp cải thiện CLCS của 
bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thiên Trương Thùy Dương (2019) Trầm cảm và 
các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư vú 
tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí 
Minh, Khóa luận Tốt nghiệp Bác sỹ Y học Dự 
phòng, Khoa y tế công cộng, Đại học y dược 
Tp.HCM, 93. 
2. Lưu Quốc Quang (2017) Giá trị của bộ công cụ 
EORTC QLQ-BR53 để đo lường chất lượng 
cuộc sống cho bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh 
viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, Khóa 
luận Tốt nghiệp Bác sỹ Y học Dự phòng, Khoa y 
tế công cộng, Đại học y dược Tp.HCM, 132. 
3. Nguyễn Thu Hà, Tạ Thị Thanh Bình, Nguyễn 
Quỳnh Anh (2017) "Chất lượng cuộc sống của 
người bệnh ung thư vú sử dụng thang đo QLQ-
C30 và một số yếu tố liên quan tại một số bệnh 
viện Ung bướu tại Việt Nam". 27, 102. 
4. ACTION Study Group (2017) "Health-related 
quality of life and psychological distress among 
cancer survivors in Southeast Asia: results from 
a longitudinal study in eight low-and middle-
income countries". BMC medicine, 15 (1), 10. 
5. Catherine C., Camellia V., Husada M. S., Loebis 
B., Effendy E., Amin M. M. (2019) "Affective 
Psychopathology Towards the Quality of Life of 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 492 
Breast Cancer Patients with Radiotherapy in 
Medan, Indonesia". Open Access Macedonian 
Journal of Medical Sciences, 7 (9), 1456. 
6. Demark-Wahnefried W., Winer E. P., Rimer B. K. 
(1993) "Why women gain weight with adjuvant 
chemotherapy for breast cancer". Journal of 
Clinical Oncology, 11 (7), 1418-1429. 
7. Fearon K., Strasser F., Anker S. D., Bosaeus I., 
Bruera E., Fainsinger R. L., et al. (2011) 
"Definition and classification of cancer cachexia: 
an international consensus". The lancet 
oncology, 12 (5), 489-495. 
8. Ganesh S., Lye M. S., Lau F. N. (2016) "Quality 
of Life among Breast Cancer Patients In 
Malaysia". Asian Pac J Cancer Prev, 17 (4), 
1677-84 
9. GLOBOCAN (2018) VietNam Fact Sheet, 
s/704-viet-nam-fact-sheets.pdf, Access on 7 Nov 
2019. 
10. Hutter N., Vogel B., Alexander T., Baumeister H., 
Helmes A., Bengel J. (2013) "Are depression 
and anxiety determinants or indicators of quality 
of life in breast cancer patients?". Psychol Health 
Med, 18 (4), 412-9. 
11. Pham T., Bui L., Kim G., Hoang D., Tran T., 
Hoang M. (2019) "Cancers in Vietnam-Burden 
and Control Efforts: A Narrative Scoping 
Review". Cancer Control, 26 (1), 
1073274819863802. 
12. Scott N. W., Fayers P., Aaronson N. K., 
Bottomley A., de Graeff A., Groenvold M., et al. 
(2008) "EORTC QLQ-C30 reference values 
manual". 
13. Tran T. H., Trinh N. L., Hoang Y., Nguyen T. L., 
Vu T. T. (2019) "Health-Related Quality of Life 
Among Vietnamese Breast Cancer Women". 
Cancer Control, 26 (1), 1073274819862787. 
14. Trinca F., Infante P., Dinis R., Inácio M., Bravo 
E., Caravana J., et al. (2019) "Depression and 
quality of life in patients with breast cancer 
undergoing chemotherapy and monoclonal 
antibodies". ecancermedicalscience, 13 
15. Xia J., Tang Z., Deng Q., Wang J., Yu J. (2018) 
"Being slightly overweight is associated with a 
better quality of life in breast cancer survivors". 
Scientific Reports, 8 (1), 1-8. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 493 
ABSTRACT 
Quality of life among breast cancer patients and relating factors in Ho Chi Minh City Oncology Hospital 
Introduction: Quality of life (QoL) has been an issue of concern around the world, especially for treatable 
cancers like breast cancer. In Vietnam, most studies use general scales, which cannot measure breast cancer-
specific problems. This study aims to determine the average QoL score and related factors of breast cancer 
patients at Ho Chi Minh City Oncology Hospital in 2020, using a specific scale for breast cancer patients. 
Methods: A cross-sectional study was conducted from 04/2020 to 06/2020 at Ho Chi Minh City Oncology 
Hospital. The sampling method was stratified sampling based on proportion. QLQ BR-53 scale is used to 
measure the QoL of breast cancer patients. This is a scale built from the QLQ C-30 scale and module QLQ BR-
23 of The European Organization for Research and Treatment of Cancer (EORTC), which has been assessed 
for validity and reliability in Vietnam. Survey of related factors using the scales: APGAR to investigate family 
function, HADS to investigate hospital anxiety and depression. 
Result: Breast cancer patient's QoL score was 61.6 ± 19.0. The function most affected is Body Image with 
a score of 65.7 ± 23.7. Symptoms that have the worst impact are Physical and Hair Loss Symptoms with 
scores of 44.6 ± 23.1 and 44.6 ± 34.8 respectively. Associated factors included age group, economic status, 
BMI, depression. 
Conclusion: The QoL score of breast cancer patients being treated at oncology hospitals is at an average 
level compared with other countries in the region and the world. Families and hospitals need to pay more 
attention to the occurrence and impact of related factors that reduce the patient's QoL. 
Keywords: Quality of life, breast cancer, QLQ BR-53, HADS, APGAR. 

File đính kèm:

  • pdfchat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_ung_thu_vu_va_cac_yeu_to.pdf