Đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
Bài báo phân tích và xác định những đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự
kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Việc xác
định những đặc điểm của truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật
có công chống giặc ngoại xâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện bởi quá trình khảo
sát, phân tích đặc điểm cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh
vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
57 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) ĐẶC ĐIỂM TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ VÀ NHÂN VẬT CÓ CÔNG CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG y Đỗ Thị Hồng Hạnh(*) Tóm tắt Bài báo phân tích và xác định những đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Việc xác định những đặc điểm của truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện bởi quá trình khảo sát, phân tích đặc điểm cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Từ khóa: Truyền thuyết, địa danh, lịch sử, cốt truyện, Đồng bằng sông Cửu Long. 1. Đặt vấn đề Về khái niệm Truyền thuyết địa danh, chúng tôi thống nhất sử dụng theo khái niệm Truyền thuyết địa danh của tác giả Kiều Thu Hoạch: “Truyền thuyết địa danh chủ yếu là chỉ loại truyền thuyết giải thích tên gọi, tức là nói về nguồn gốc tên gọi của các địa danh ở các địa phương mà có gắn với các sự kiện, nhân vật lịch sử có liên quan” [4, tr. 35-36]. Theo khảo sát của chúng tôi, truyền thuyết địa danh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 03 tiểu loại: Truyền thuyết địa danh liên quan đến những nhân vật tiền hiền có công khai phá, xây dựng vùng ĐBSCL; Truyền thuyết địa danh liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm; Truyền thuyết địa danh liên quan đến nhân vật Nguyễn Ánh. Do quy định về dung lượng của một bài báo nên trong công trình này chúng tôi chỉ phân tích tiểu loại Truyền thuyết địa danh liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm (Ký hiệu: TL1B). Vấn đề giải thích nguồn gốc tên gọi của núi, sông, ao hồ, làng, kênh, rạch... vốn đã được nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước trên thế giới từ bao thế hệ quan tâm. Các thể loại tự sự dân gian của người Việt cũng đã thể hiện chức năng, nhiệm vụ này theo cách riêng. Ở thể loại thần thoại, việc lý giải sự hình thành địa danh, tên gọi của địa danh thường gắn liền với công tích của những nhân vật khổng lồ. “Trong những truyện kể về thời khai thiên lập địa, những ông, những bà khổng lồ này hiển nhiên không phải là con người mà chính là thiên nhiên hoang dã đã được nhào nặn theo tư duy thần thoại, tức là sự đồ chiếu sức mạnh thiên nhiên theo dạng thức con người”[1, tr. 50]. Khác với thần thoại, truyền thuyết địa danh giải thích sự hình thành tên gọi của ao hồ, rừng, núi bao giờ cũng gắn liền với việc kể về những con người cụ thể đã góp phần làm nên địa danh ấy. Hay nói cách khác “Khác với thế giới tưởng tượng hào hùng và kỳ vĩ trong thần thoại, truyền thuyết địa danh có cảm hứng lịch sử, đặt câu chuyện vào một khung cảnh, một thời gian với những nhân vật cụ thể” [1, tr. 50]. Trong khi đó, ở thể loại cổ tích, truyện kể địa danh lại lồng vào trong nó những câu chuyện của đời thường, của những mối quan hệ anh em, vợ chồng, cha con... Việc nghiên cứu truyền thuyết địa danh ở Việt Nam đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm. Những công trình đáng chú ý đó là Truyện kể địa danh từ góc nhìn thể loại (Trần Thị An, Tạp chí Văn học, số 3/1999), Bước đầu tìm hiểu nguồn truyện kể địa danh Việt Nam (Nguyễn Bích Hà, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tr.416), Truyền thuyết dân gian và địa danh (Thái Hoàng, Tạp chí Văn học, số 9, 1999)... Trong những công trình này, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề mang tính lý luận về đặc trưng thể loại của truyện kể địa danh nói chung như: đặc trưng nội dung, ý thức nghệ thuật và chức năng thể loại. Những kiến thức lý luận này có ý nghĩa là những kiến thức nền tảng, định hướng cho việc nghiên cứu loại truyền thuyết địa danh ở vùng ĐBSCL. Để xác định được những đặc điểm mang tính (*) Trường Đại học Đồng Tháp. 58 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) đặc trưng của truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL, công trình này sẽ tiến hành khảo sát, phân tích đặc trưng cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL. 2. Khái niệm cốt truyện và các yếu tố tự sự của thể loại truyền thuyết 2.1. Khái niệm cốt truyện Khái niệm Cốt truyện trong cuốn Oxford Advanced Learners Dictionary đã được tác giả A. Hornby định nghĩa như sau: “The series of events that form the story of a novel, play, fi lm” (Dịch ra tiếng Việt: Cốt truyện là một loạt những sự kiện góp phần hình thành câu chuyện của một tiểu thuyết hoặc một bộ phim) [5, tr. 1163]. Ở Việt Nam, khái niệm Cốt truyện cũng đã được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự sự” [9, tr. 233]. Khái niệm Cốt truyện và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm tự sự đã được minh định một cách cụ thể hơn trong một số công trình nghiên cứu của các nhà lí luận văn học. Trong Từ điển thuật ngữ Văn học, các tác giả viết: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự” [3, tr. 70]. Ở đây, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã xem cốt truyện là “bộ phận cơ bản, quan trọng nhất” của một tác phẩm tự sự. Họ đã đánh giá cao vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học thuộc loại tự sự nói chung. Căn cứ vào khái niệm này thì việc nghiên cứu về cấu tạo cốt truyện của một thể loại văn học cụ thể cũng có nghĩa là nghiên cứu về đặc điểm nội dung tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật ... truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCL so với truyền thuyết địa danh cùng tiểu loại ở các vùng miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh điểm tương đồng về nội dung so với truyền thuyết địa danh ở các vùng miền khác như vừa nêu, truyền thuyết địa danh TL1B còn có những nét đặc trưng riêng. Nét đặc trưng nổi bật trước hết thể hiện ở cảm hứng sáng tác. Bên cạnh những truyền thuyết địa danh thể hiện cảm hứng tôn vinh, ngợi ca những con người có công trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, chống lại chế độ phong kiến hà khắc ở một số tỉnh thuộc vùng ĐBSCL thì truyền thuyết địa danh TL1B còn thể hiện những tội ác dã man của giặc Pháp và bọn tay sai, ghi giữ lại những mất mát, đau thương cùng với lòng căm thù, cảm xúc bi thương và tinh thần bi tráng của quần chúng nhân dân vùng ĐBSCL trong giai đoạn chống giặc Pháp xâm lược. Những truyền thuyết tiêu biểu cho nội dung này: Lai lịch Trường Án Cần Lố, Khu Mả Lớn (Đồng Tháp), Sự tích Vũng Liêm (Vĩnh Long), Sự tích Mả Hộc, Gò Trăm Đầu (Long An). Chẳng hạn như ở lớp truyện thứ ba của truyền thuyết Gò Trăm Đầu được sưu tầm ở tỉnh Long An đã kể về tội ác của giặc Pháp với tình tiết như sau: “Pháp đã cho chém đầu hàng loạt nghĩa quân rồi chôn chung thành một gò mả ở ruộng Cây Keo nên nhân dân gọi đây là Gò Trăm Đầu”. Hay là lớp truyện thứ ba của truyền thuyết Sự tích Vũng Liêm, tác giả dân gian đã kể lại tội ác của tên tay sai ác ôn Trần Bá Lộc: “Để trả thù cho quan thầy, Trần Bá Lộc được lệnh kéo binh về tàn sát toàn bộ dân chúng trong vùng, nhà cửa đốt sạch. Kẻ chết đâm, người chết chém, chết bắn, người nào sống sót chúng bắt được ném vào lửa đỏ, cả một vùng hồn linh dật dờ trong khói lửa. Nên dân chúng quanh vùng gọi đây là Vũng Linh. Qua năm tháng Vũng Linh được nói trại thành Vũng Liêm” (Sự tích Vũng Liêm). Trong những truyền thuyết này, tác giả dân gian vừa ghi giữ tội ác của kẻ thù, vừa ghi lại những mất mát, đau thương của các nghĩa binh, của nhân dân vùng ĐBSCL trong giai đoạn lịch sử chống Pháp. Ở đây, cảm xúc bi thương xen lẫn lòng căm thù của nhân dân đối với tội ác của giặc Pháp và lũ tay sai ác ôn đã tạo nên những câu chuyện dân gian nhằm lý giải sự hình thành tên gọi của một số địa danh thuộc vùng ĐBSCL. Đây là một nội dung mang tính đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. Bởi vì khảo sát một số truyền thuyết địa danh ở một số tỉnh thuộc Bắc Bộ, chúng tôi nhận thấy tên gọi một con sông, một đồi gò, một cái ao, một cánh đồng đa số đều được gắn với một chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông. Chẳng hạn như: “Tên gọi Thăng Long của thủ đô gắn với truyền thuyết về Lý Công Uẩn, tên gọi Hồ Gươm gắn với chiến công của Lê Lợi. Ở Vĩnh Phú có cánh đồng Dai, cánh đồng Võ, có vực Chuông ghi lại chiến công trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Lạng Sơn có hang Thái Đức, có núi Vua Ngự gắn liền với chiến công giữ nước của Lê Hoàn” [1, tr. 52]. Cảm hứng bao trùm trong những truyền thuyết dân gian nói trên là cảm hứng ca ngợi, tôn vinh những chiến công, những người anh hùng dân tộc có nhiều công lao đối với cộng đồng. Trong khi đó, ở vùng ĐBSCL, tên gọi một địa danh, một con sông, một cánh đồng không chỉ gắn với chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông mà đó còn là nơi ghi dấu tội ác của quân thù, là nơi ghi dấu lòng căm thù của nhân dân đối với giặc ngoại xâm và bè lũ tay sai. Ở những địa danh này không chỉ có những chiến công vẻ vang mà còn có cả những mất mát, hi sinh, là nơi đầu rơi, máu chảy của quần chúng nhân dân trong lịch sử chống thù trong, giặc ngoài. Vì vậy mà một số truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCL không chỉ chứa đựng cảm 63 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) hứng ca ngợi và tôn vinh mà còn có cả cảm hứng bi tráng khi kể về những mất mát, đau thương của nhân dân, đặc biệt là trong thời kỳ chống giặc Pháp xâm lược của nhân dân Nam Bộ khi chưa có Đảng lãnh đạo. Đặc điểm mang tính đặc trưng này của truyền thuyết địa danh TL1B có cơ sở từ đặc điểm lịch sử, xã hội của vùng ĐBSCL, đặc biệt là giai đoạn lịch sử 1858- 1918, giai đoạn Pháp xâm lược Nam Bộ. Nhân dân đứng lên chống Pháp bằng những vũ khí thô sơ như dao phay, rơm con cúi trong hoàn cảnh triều đình nhà Nguyễn bất lực, yếu hèn. Cuộc chiến đấu khi chưa có một chính đảng lãnh đạo và các cuộc khởi nghĩa hầu như đều thất bại. Hoàn cảnh lịch sử ấy đã tác động rất lớn đến những nội dung mang tính đặc trưng của truyền thuyết địa danh TL1B nói riêng và của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL nói chung. Mặt khác, khảo sát truyền thuyết địa danh TL1B, chúng tôi nhận thấy sự vắng bóng của yếu tố thần kỳ trong cấu tạo cốt truyện của các tác phẩm. Đây là nét đặc trưng thứ hai của truyền thuyết địa danh TL1B so với các truyền thuyết cùng tiểu loại ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chẳng hạn như truyền thuyết Sự tích xã Quán Triều [4, tr. 515] lưu hành ở các tỉnh thuộc Bắc Bộ, truyền thuyết này lí giải tên gọi địa danh xã Quán Triều gắn liền với việc kể về chiến công chống giặc Tống của nhân vật Quán Triều ở tỉnh Thái Nguyên. Trong truyền thuyết này, yếu tố thần kỳ hay là sự hư cấu, tưởng tượng đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc tác phẩm. Yếu tố thần kì xuất kiện ngay từ đầu tác phẩm với sự kiện Quán Triều được tiên nữ cho chiếc áo tàng hình. Nhờ chiếc áo tàng hình này mà Quán Triều lấy được nhiều của cải trong kho chứa của nhà vua để chia cho dân nghèo, nhờ áo tàng hình mà Quán Triều giúp vua chiến thắng giặc Tống xâm lược, nhờ áo tàng hình mà Quán Triều được vua gả công chúa Hồng Liên và được phong tước Hộ Quốc công. Có thể nói yếu tố thần kỳ hiện diện trong suốt tác phẩm này. Hay là truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm cũng chứa đựng trong nó nhiều yếu tố thần kỳ: Từ chi tiết ba lần thanh sắt đều chui vào lưới của Lê Thận đến chi tiết chuôi gươm nạm ngọc trên ngọn cây đa và chi tiết rùa vàng nhận lại gươm thần. Tất cả những chi tiết kể trên đều là sản phẩm của sự hư cấu, tưởng tượng của tác giả dân gian trong quá trình giải thích tên gọi Hồ Gươm gắn liền với chiến công của Lê Lợi. Khác với những truyền thuyết vừa nêu trên, trong 21 truyền thuyết thuộc TL1B chỉ có 01 truyền thuyết chứa đựng yếu tố thần kỳ trong cốt truyện. Đó là truyền thuyết Đám lá tối trời. Trong truyền thuyết Đám lá tối trời, yếu tố thần kỳ chỉ xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm chứ không xuất hiện với mật độ dày đặc như trong 02 truyền thuyết ở vùng Bắc Bộ vừa kể trên: “Từ đó, thiên hạ đồn rằng, đêm hôm ở vùng đám lá tối trời như có tiếng gào thét, như tiếng binh đao va chạm. Có khi, nghe như tiếng thiên binh vạn mã rầm rộ kéo đi, có lúc lại nghe ngựa hí, người la và tiếng trống trận”. Theo cách lý giải của dân gian thì những âm thanh bí ẩn đó chính là sự xuất hiện của đội quân âm binh trong “đám lá tối trời”. Yếu tố thần kỳ này có ý nghĩa ca ngợi và tôn vinh những người nghĩa sĩ đã hi sinh thân mình cho quê hương, cho Tổ quốc. Lúc sống, họ là những anh hùng, khi chết, hồn thiêng của họ vẫn còn luôn luôn gây nên nỗi lo sợ, hốt hoảng đối với quân thù. Đồng thời, vai trò của yếu tố thần kỳ trong truyền thuyết này còn là để linh thiêng hoá địa danh được đề cập đến trong câu chuyện kể. So với một số truyền thuyết địa danh có liên quan đến những nhân vật có công chống giặc ngoại xâm tiêu biểu ở một số tỉnh thuộc Bắc Bộ, chẳng hạn như Sự tích Hồ Gươm gắn với nhân vật Lê Lợi, với chiến công lẫy lừng chiến thắng giặc Minh xâm lược của dân tộc ở thế kỷ XV đã được nhiều người thuộc nhiều địa phương trong cả nước đều biết đến. Trong khi đó, những nhân vật xuất hiện trong truyền thuyết địa danh TL1B này thường không có những công trạng lớn. Vì thế mà tầm ảnh hưởng của nhân vật chỉ giới hạn trong phạm vi một địa phương, một vùng nhất định. Cũng chính vì vậy mà sự lan toả của mỗi câu chuyện kể thường không rộng, thông thường chỉ giới hạn trong một vài địa phương lân cận. Điều này sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là những địa danh có liên quan đến những nhân vật này chỉ được một số địa phương thuộc khu vực ĐBSCL biết và hiểu được ý nghĩa, nguồn gốc của địa danh vốn rất gắn bó với nơi mình sinh sống. 64 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) 4. Kết luận Với những đặc điểm của thể loại, truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL không chỉ giải thích tên gọi của địa danh mà quan trọng hơn, truyền thuyết địa danh TL1B ở vùng đất mới phía Nam này còn phản ánh và ghi giữ những nhân vật và sự kiện lịch sử trong quá khứ có liên quan đến địa danh theo quan điểm, thái độ, tình cảm của nhân dân vùng ĐBSCL. Việc phản ánh này đã góp phần lấp đầy một số khoảng trống trong lịch sử, ghi nhận và khẳng định vai trò, sự ảnh hưởng của một số nhân vật lịch sử trong quá khứ. Cùng với cảm hứng ca ngợi và tôn vinh các nhân vật tiền hiền, các nhân vật chống giặc ngoại xâm... truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL còn chứa đựng cả cảm hứng lên án, tố cáo những tội ác dã man của quân thù - mà chủ yếu là giặc Pháp xâm lược. Thực tế khảo sát hệ thống truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL đã cho thấy, truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL không phải bao giờ cũng gắn với chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông như truyền thuyết địa danh ở một số vùng miền khác trong cả nước mà truyền thuyết địa danh TL1B ở vùng đất mới phía Nam này còn gắn với những tội ác của giặc Pháp và bọn tay sai ác ôn. Đây cũng là một đặc điểm mang tính đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. So với truyền thuyết địa danh ở vùng Bắc Bộ, truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL có một số điểm tương đồng và dị biệt. Điểm tương đồng thể hiện chủ yếu ở nội dung dân tộc lịch sử, ở cốt lõi lịch sử của tác phẩm luôn gắn bó chặt chẽ với những đặc điểm lịch sử - xã hội và văn hóa ở một vùng miền cụ thể. Điểm dị biệt thứ nhất thể hiện ở xu hướng bám sát hiện thực lịch sử của tác phẩm, yếu tố thần kỳ xuất hiện thưa thớt trong hệ thống truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL, cốt truyện thường đơn giản và ít tình tiết. Trong cấu tạo cốt truyện của các tác phẩm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL không thấy sự xuất hiện của motif nhân vật “thụ thai và sinh nở thần kỳ” trong tiểu loại truyền thuyết địa danh này. Kể cả motif nhân vật “hiển linh” cũng xuất hiện một cách thưa thớt trong hệ thống tác phẩm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL. Nhìn chung, các yếu tố thần kỳ ít tham gia vào cốt truyện. Trong khi đó, motif “sự thụ thai và sinh nở thần kỳ”, motif “hóa thân”, motif “hiển linh” xuất hiện khá phổ biến nếu không nói là một thành tố không thể thiếu trong các truyền thuyết dân gian ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Thứ hai, bên cạnh cảm hứng sáng tác chủ đạo là ca ngợi và tôn vinh các nhân vật lịch sử trong quá khứ, truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL còn chứa đựng cả cảm hứng bi tráng, đó là sự thương cảm, xót xa của nhân dân đối với những mất mát, hy sinh của những nghĩa sĩ nông dân, những anh hùng trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm ở vùng ĐBSCL. Cảm hứng sáng tác này đã bổ sung thêm những gam trầm, bổ sung thêm giọng điệu bi tráng cho bản hợp ca về các nhân vật lịch sử trong quá khứ của Việt Nam. Với những đặc điểm mang tính đặc trưng này, truyền thuyết địa danh TL1B nói riêng, truyền thuyết dân gian của người Việt vùng ĐBSCL nói chung đã có nhiều biến đổi khi được sáng tác và lưu truyền từ vùng ngoài vào vùng ĐBSCL và có những đặc trưng riêng so với truyền thuyết dân gian ở các vùng miền khác trong cả nước, đặc biệt là so với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những nét đặc trưng này một mặt là do tác động bởi các yếu tố về lịch sử - địa lý - văn hóa - xã hội và mặt khác, do tính độc đáo trong sáng tác nghệ thuật của tác giả dân gian ở mỗi vùng miền của Việt Nam./. Tài liệu tham khảo [1]. Trần Thị An (1999), “Truyện kể địa danh, từ góc nhìn thể loại”, Tạp chí Văn học, (số 3), tr. 50. [2]. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng type và Motif, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 65 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) [3]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4]. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, tập 4, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [5]. A. Hornby (2010), Oxford Advanced Learners Dictionary, Oxford University press. [6]. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (2006), Lý luận Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [7]. Nguyễn Thị Nguyệt (2000), Khảo sát và so sánh một số type và motif truyện cổ dân gian Việt Nam - Nhật Bản, Luận án tiến sĩ Ngữ văn. [8]. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp Văn học Dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội. [9]. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [10]. Nguyễn Minh Phúc (2008), “Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút”, Tiền Giang - Nhân vật lịch sử và di tích liên quan, tập 1, Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Tiền Giang. THE CHARACTERISTICS OF PLACE-NAME LEGENDS RELATED TO HISTORICAL EVENTS AND ANTI-INVASION FIGURES IN THE MEKONG DELTA Summary This article analyzes and identifi es the characteristics of place-name legends related to historical events and anti-invasion fi gures in the Mekong Delta. These characteristics are identifi ed by surveying and analyzing the plot, structural features of narrative elements in the Mekong Delta place-name legends. Keywords: Legends, place names, history, plot, the Mekong Delta. Ngày nhận bài: 03/01/2019; Ngày nhận lại: 15/02/2019; Ngày duyệt đăng: 25/02/2019.
File đính kèm:
- dac_diem_truyen_thuyet_dia_danh_co_lien_quan_den_nhung_su_ki.pdf