Chẩn đoán phân biệt các ung thư biểu mô buồng trứng biệt hóa kém dựa trên đặc điểm giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch
Đặt vấn đề: Carcinôm buồng trứng gồm nhiều loại mô học có đặc điểm bệnh sinh học khác nhau.
Chẩn đoán chính xác loại mô học trở nên cần thiết do điều trị ngày nay đang dần hướng đến đặc hiệu
theo từng loại mô học. Tuy nhiên, chẩn đoán thường khó khăn trong những trường hợp bướu có hình ảnh
vi thể kém biệt hóa hoặc trên mẫu sinh thiết nhỏ. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm phân loại cho các
carcinôm buồng trứng kém biệt hóa grad cao bằng các đặc điểm hình thái vi thể và đặc điểm biểu hiện
trên hóa mô miễn dịch.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 64 trường hợp carcinôm buồng trứng kém biệt hóa
grad cao. (1) Phân loại mô học dựa trên các đặc điểm hình thái vi thể theo tiêu chuẩn của WHO 2014; (2)
Nhuộm hóa mô miễn dịch (HMMD) với 6 dấu ấn WT-1, p53, p16, ER, PR, Napsin A và phân loại mô học
dựa trên đặc điểm biểu hiện của các dấu ấn này; (3) Đối chiếu hai nhóm kết quả phân loại. Các trường
hợp không đồng thuận sẽ được phân tích, kết hợp đặc điểm hình thái và đặc điểm biểu hiện HMMD để
đưa ra chẩn đoán.
Kết quả: Dựa vào đặc điểm hình thái và tiêu chuẩn chẩn đoán về mặt hình thái của WHO 2014,
chúng tôi ghi nhận có 48 trường hợp (chiếm 75%) là carcinôm dịch thanh grad cao, 4 trường hợp (chiếm
6,3%) là carcinôm dạng nội mạc, 5 trường hợp (chiếm 7,8%) là carcinôm tế bào sáng, 7 trường hợp
(chiếm 10,9%) là carcinôm kém biệt hóa. Dựa vào đặc điểm HMMD, chúng tôi ghi nhận 55 trường hợp
(chiếm 85,9%) có đặc điểm HMMD của carcinôm dịch thanh grad cao, 2 trường hợp (chiếm 3,1%) có đặc
điểm HMMD của carcinôm dịch thanh grad thấp, 1 trường hợp chiếm 1,6%) có đặc điểm HMMD của
carcinôm dạng nội mạc, 4 trường hợp (chiếm 6,3%) có đặc điểm HMMD của carcinôm tế bào sáng, có 2
trường hợp (chiếm 3,1%) không thể phân loại dựa vào đặc điểm HMMD với 6 dấu ấn được khảo sát. Có
16 trường hợp có chẩn đoán dựa vào hình thái và chẩn đoán HMMD không đồng thuận, trong đó, có 11
trường hợp (chiếm 68,8% các trường hợp không đồng thuận) có thể đưa ra chẩn đoán cuối cùng khi phối
hợp giữa hình thái và biểu hiện HMMD.
Kết luận: Chỉ dựa vào đặc điểm hình thái hoặc chỉ dựa vào biểu hiện HMMD có thể đưa ra chẩn
đoán cho carcinôm buồng trứng trong 89,1% và 96,8% các trường hợp. Tuy nhiên, sự đồng thuận giữa 2
chẩn đoán chỉ là 75%. Trong những trường hợp không đồng thuận, có 68,8% các trường hợp đưa ra được
chẩn đoán cuối cùng khi kết hợp hình thái và HMMD. Như vậy, dù giúp ích trong nhiều trường hợp,
HMMD không thể độc lập với hình thái trong việc đưa ra chẩn đoán carcinôm buồng trứng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán phân biệt các ung thư biểu mô buồng trứng biệt hóa kém dựa trên đặc điểm giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 196 CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT CÁC UNG THƯ BIỂU MÔ BUỒNG TRỨNG BIỆT HÓA KÉM DỰA TRÊN ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH VÀ HÓA MÔ MIỄN DỊCH PHẠM MINH TÂM1, NGUYỄN PHAN HOÀNG ĐĂNG2, ÂU NGUYỆT DIỆU2, NGUYỄN VĂN THÀNH1 Địa chỉ liên hệ: Âu Nguyệt Diêu Email: aungdieu@gmail.com Ngày nhận bài: 07/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 Bộ môn Giải phẫu bệnh - Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TÓM TẮT Đặt vấn đề: Carcinôm buồng trứng gồm nhiều loại mô học có đặc điểm bệnh sinh học khác nhau. Chẩn đoán chính xác loại mô học trở nên cần thiết do điều trị ngày nay đang dần hướng đến đặc hiệu theo từng loại mô học. Tuy nhiên, chẩn đoán thường khó khăn trong những trường hợp bướu có hình ảnh vi thể kém biệt hóa hoặc trên mẫu sinh thiết nhỏ. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm phân loại cho các carcinôm buồng trứng kém biệt hóa grad cao bằng các đặc điểm hình thái vi thể và đặc điểm biểu hiện trên hóa mô miễn dịch. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 64 trường hợp carcinôm buồng trứng kém biệt hóa grad cao. (1) Phân loại mô học dựa trên các đặc điểm hình thái vi thể theo tiêu chuẩn của WHO 2014; (2) Nhuộm hóa mô miễn dịch (HMMD) với 6 dấu ấn WT-1, p53, p16, ER, PR, Napsin A và phân loại mô học dựa trên đặc điểm biểu hiện của các dấu ấn này; (3) Đối chiếu hai nhóm kết quả phân loại. Các trường hợp không đồng thuận sẽ được phân tích, kết hợp đặc điểm hình thái và đặc điểm biểu hiện HMMD để đưa ra chẩn đoán. Kết quả: Dựa vào đặc điểm hình thái và tiêu chuẩn chẩn đoán về mặt hình thái của WHO 2014, chúng tôi ghi nhận có 48 trường hợp (chiếm 75%) là carcinôm dịch thanh grad cao, 4 trường hợp (chiếm 6,3%) là carcinôm dạng nội mạc, 5 trường hợp (chiếm 7,8%) là carcinôm tế bào sáng, 7 trường hợp (chiếm 10,9%) là carcinôm kém biệt hóa. Dựa vào đặc điểm HMMD, chúng tôi ghi nhận 55 trường hợp (chiếm 85,9%) có đặc điểm HMMD của carcinôm dịch thanh grad cao, 2 trường hợp (chiếm 3,1%) có đặc điểm HMMD của carcinôm dịch thanh grad thấp, 1 trường hợp chiếm 1,6%) có đặc điểm HMMD của carcinôm dạng nội mạc, 4 trường hợp (chiếm 6,3%) có đặc điểm HMMD của carcinôm tế bào sáng, có 2 trường hợp (chiếm 3,1%) không thể phân loại dựa vào đặc điểm HMMD với 6 dấu ấn được khảo sát. Có 16 trường hợp có chẩn đoán dựa vào hình thái và chẩn đoán HMMD không đồng thuận, trong đó, có 11 trường hợp (chiếm 68,8% các trường hợp không đồng thuận) có thể đưa ra chẩn đoán cuối cùng khi phối hợp giữa hình thái và biểu hiện HMMD. Kết luận: Chỉ dựa vào đặc điểm hình thái hoặc chỉ dựa vào biểu hiện HMMD có thể đưa ra chẩn đoán cho carcinôm buồng trứng trong 89,1% và 96,8% các trường hợp. Tuy nhiên, sự đồng thuận giữa 2 chẩn đoán chỉ là 75%. Trong những trường hợp không đồng thuận, có 68,8% các trường hợp đưa ra được chẩn đoán cuối cùng khi kết hợp hình thái và HMMD. Như vậy, dù giúp ích trong nhiều trường hợp, HMMD không thể độc lập với hình thái trong việc đưa ra chẩn đoán carcinôm buồng trứng. Từ khóa: Carcinôm buồng trứng, hóa mô miễn dịch, hình thái, loại mô học. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 197 ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Globocan 2018, ung thư buồng trứng đứng hàng 8 trong các ung thư ở giới nữ[3]. Carcinôm buồng trứng chiếm 95% các u ác tính của buồng trứng, là một nhóm không thuần nhất, gồm nhiều thực thể khác biệt nhau[4]. Trước đây, người ta xem các carcinôm buồng trứng chỉ là một thực thể duy nhất, điều trị dựa vào grad mô học và giai đoạn bệnh. Nhưng gần đây, các nghiên cứu cho thấy carcinôm buồng trứng gồm nhiều thực thể khác biệt nhau về tổn thương tiền ung, đặc điểm phân tử trong tiến trình sinh ung, kiểu lan tràn, đáp ứng với điều trị và tiên lượng. Do đó, chẩn đoán chính xác loại mô học của carcinôm buồng trứng trở nên cần thiết trên lâm sàng do khuynh hướng điều trị ngày nay đang dần hướng đến đặc hiệu theo từng loại mô học [12],[15]. Theo Bảng phân loại của WHO năm 2014[10], carcinôm buồng trứng có năm nhóm thường gặp nhất là carcinôm dịch thanh grad thấp, carcinôm dịch thanh grad cao, carcinôm dịch nhầy, carcinôm dạng nội mạc và carcinôm tế bào sáng. Với tiêu chuẩn rõ ràng, phân loại mô học carcinôm buồng trứng có thể thực hiện chính xác dựa trên các đặc điểm giải phẫu bệnh, đạt được tỉ lệ đồng thuận chẩn đoán cao, từ 85% đến 94%[9]. Tuy nhiên, vẫn còn một tỉ lệ nhỏ các trường hợp carcinôm buồng trứng kém biệt hóa không thể chẩn đoán xác định chỉ dựa trên hình thái mô học. Các nghiên cứu cho thấy kết hợp với nhuộm hóa mô miễn dịch (HMMD) giúp nâng cao độ chính xác của chẩn đoán[6],[8],[11],[16]. Do đó, HMMD có thể được sử dụng như phương tiện hỗ trợ hoặc xác định chẩn đoán loại mô học cho các carcinôm buồng trứng biệt hóa kém, các trường hợp mẫu sinh thiết quá nhỏ lấy từ các nốt di căn trên mạc nối hoặc các tế bào từ dịch màng bụng[9]. Tại Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Ung bướu TP. Hồ Chí Minh, mỗi năm chúng tôi chẩn đoán khoảng hơn hai trăm trường hợp ung thư buồng trứng, trong đó có những trường hợp carcinôm kém biệt hóa, tái phát hoặc di căn khó chẩn đoán chính xác loại mô học. Chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm phân loại các trường hợp carcinôm buồng trứng kém biệt hóa dựa trên các tiêu chuẩn về hình thái theo bảng phân loại mới của WHO 2014, đồng thời kết hợp với nhuộm HMMD để xác nhận hoặc hỗ trợ cho chẩn đoán trong những trường hợp không thể chẩn đoán phân loại được bằng hình thái mô học đơn thuần. Nghiên cứu này bao gồm các mục tiêu: 1. Khảo sát đặc điểm giải phẫu bệnh vi thể, phân loại các carcinôm buồng trứng biệt hóa kém 2. Khảo sát đặc điểm biểu hiện HMMD, phân loại các carcinôm buồng trứng biệt hóa kém 3. Kết hợp đặc điểm giải phẫu bệnh và đặc điểm HMMD, phân loại các carcinôm buồ ... arcinôm dịch thanh grad cao. Cũng như trường hợp biểu hiện không điển hình thứ nhất, đối với nhóm này, chúng tôi thấy cần phải kết hợp với hình thái vi thể để đưa đến chẩn đoán sau cùng. Với dấu ấn ER/PR, chúng tôi có 74,5% có ER (+), không quá thấp so với con số 80% ER(+) trong các nghiên cứu; PR cho tỉ lệ dương tính rất thấp. Carcinôm dịch thanh grad thấp. Chúng tôi có 2 trường hợp (3,1%) đưa vào nhóm carcinôm dịch thanh grad thấp dựa trên kết quả biểu hiện HMMD. Hai trường hợp này có biểu hiện HMMD WT-1 (+) p53 (-) p16 (-) ER/PR(+) Napsin A (-). Dựa trên thuật toán do Kobel đề nghị[13], chúng tôi xếp các trường hợp này vào nhóm carcinôm dịch thanh grad thấp. Chúng tôi đã không chọn các trường hợp carcinôm grad thấp vào lô nghiên cứu; do đó, chúng tôi nghĩ rằng kết quả này không hợp lý. Xếp vào nhóm dịch thanh nhờ có WT-1 dương tính là hợp lý. Dựa trên biểu hiện âm tính của p53 để xếp vào nhóm grad thấp chưa thuyết phục, bởi vì các nghiên cứu cho biết carcinôm dịch thanh grad cao vẫn có trường hợp biểu hiện p53 kiểu hoang dại. Xét đến cặp dấu Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 202 ấn p53/p16 - được khuyến cáo sử dụng để phân biệt carcinôm dịch thanh grad thấp và grad cao, theo nghiên cứu của Altman, độ mạnh của xét nghiệm là ở giá trị tiên đoán âm (đạt 98%), nghĩa là trong những trường hợp có p53 biểu hiện bất thường, kèm p16 dương hoặc âm tính, chẩn đoán bướu dịch thanh grad cao là rất khó xảy ra; ngược lại, giá trị tiên đoán dương lại thấp (đạt 68%), nghĩa là kết quả xét nghiệm tự một mình nó không thể sử dụng để chẩn đoán bướu dịch thanh grad thấp. Cần kết hợp với hình thái vi thể với cấu trúc đặc trưng, với biểu hiện p53 kiểu hoang dại, p16 nhuộm lốm đốm để khẳng định chẩn đoán[1]. Chúng tôi thấy cả hai trường hợp này đều có tỉ lệ nhân tế bào bướu bắt màu từ 50 - 60% với p53. Một số nghiên cứu đã chọn 60% là ngưỡng dương tính. Do đó, các trường hợp này đều có tỉ lệ bắt màu xấp xĩ ngưỡng dương tính, đó cũng chính là một khó khăn trong phân tích kết quả p53, và cũng là nguyên nhân đưa đến kết quả âm tính giả. Đối với p16, một trường hợp có biểu hiện lốm đốm, một trường hợp dương tính thành khối (nhưng tỉ lệ <90% tế bào bướu), do đó được đánh giá là âm tính. Xét lại lần nữa cặp dấu ấn p53/p16, nếu chúng tôi sử dụng một ngưỡng dương tính của p53 thấp hơn, nhưng vẫn trong khoảng đề nghị của các nghiên cứu, chúng tôi sẽ rơi vào tình huống p53 biểu hiện quá mức/p16 lốm đốm, khi đó dự báo cho chẩn đoán carcinôm dịch thanh grad cao có độ chính xác lên đến 97%. Như vậy, hai trường hợp này thực sự là grad thấp hay grad cao ? Chúng tôi nghĩ cần phải kết hợp thêm với hình thái vi thể và có thể làm thêm những xét nghiệm khác nữa để có chẩn đoán chính xác. Carcinôm dạng nội mạc. Chỉ có 1 trường hợp chẩn đoán carcinôm dạng nội mạc trên HMMD. Trường hợp này biểu hiện cũng không điển hình, với WT-1 (-) do đó không xếp vào nhóm dịch thanh; p16 (<90%) và Napsin A đều âm tính; ER/PR dương tính, ủng hộ cho chẩn đoán carcinôm dạng nội mạc. Chỉ có p53 biểu hiện quá mức ( 70%). p53 dương tính trong 7% các carcinôm dạng nội mạc; đột biến TP53 tìm thấy trong 8,8% carcinôm dạng nội mạc ở buồng trứng[7]. Tuy nhiên, chúng tôi chưa thấy hợp lý khi phân tích trường hợp này: p53 biểu hiện quá mức, p16 bắt màu thành khối nhưng chỉ xấp xĩ 40% mô bướu; không loại trừ khả năng biểu hiện không điển hình của carcinôm dịch thanh grad cao và biểu hiện không phù hợp có thể do tính không đồng nhất của kháng nguyên trong bướu đã dẫn đến sai lầm khi nhuộm HMMD trên mẫu sinh thiết nhỏ hoặc mẫu TMA. Trường hợp này cũng nên được kết hợp hình ảnh vi thể, thêm các xét nghiệm khác để có chẩn đoán chính xác. Carcinôm tế bào sáng. Có 4 trường hợp được xác định là carcinôm tế bào sáng trên hóa mô miễn dịch, chỉ chiếm 6,3%. Với biểu hiện Napsin A (+), WT-1 âm tính, p53 kiểu hoang dại, p16 âm tính, các trường hợp này phù hợp với nhóm carcinôm tế bào sáng. Một trong 4 trường hợp trên có p16 dương tính. Tỉ lệ p16 dương tính trong carcinôm tế bào sáng theo các nghiên cứu là 9 - 13,6%. Chúng tôi chỉ có 4 trường hợp chẩn đoán carcinôm tế bào sáng, tỉ lệ p16 (+) là 25%. Không phân loại. Các trường hợp không phân loại được có biểu hiện hóa mô miễn dịch WT-1 (-) p53 (+) p16 (-) ER/PR (-) Napsin A (-) có thể là biểu hiện không điển hình của những loại mô học thường gặp, hoặc là biểu hiện của những loại mô học hiếm gặp, ví dụ nhưng carcinôm không biệt hóa. Những trường hợp này cần thiết đối chiếu với hình thái vi thể và làm thêm những xét nghiệm cần thiết để phân loại. Kết hợp đặc điểm hình thái và đặc điểm biểu hiện HMMD phân loại carcinôm buồng trứng Đồng thuận giữa chẩn đoán dựa trên đặc điểm hình thái và chẩn đoán dựa trên biểu hiện HMMD. Chúng tôi có 48/64 (75%) trường hợp đồng thuận giữa chẩn đoán hình thái và chẩn đoán trên HMMD. Không cần phải phân tích thêm nhóm này. Kết hợp đặc điểm hình thái và đặc điểm biểu hiện HMMD để phân loại các trường hợp không đồng thuận giữa chẩn đoán dựa trên đặc điểm hình thái và chẩn đoán dựa trên biểu hiện HMMD. *Với 11 trường hợp có chẩn đoán trên HMMD là carcinôm dịch thanh grad cao, chẩn đoán dựa trên đặc điểm hình thái gồm nhiều thực thể khác nhau như carcinôm dạng nội mạc (n=4), carcinôm tế bào sáng (n = 1), carcinôm kém biệt hóa (n = 6). Carcinôm dịch thanh grad cao là loại mô học thường gặp nhất. Carcinôm dịch thanh grad cao có những đặc điểm vi thể đặc trưng và nhiều đặc điểm không đặc trưng, có thể tìm thấy hình ảnh tương tự này trong các loại mô học khác. Kobel đưa ra 1 tiêu chuẩn chẩn đoán mở rộng cho loại mô học này: bướu grad cao có thành phần dịch thanh và thành phần đặc hoặc không biệt hóa được chẩn đoán là carcinôm dịch thanh grad cao; biệt hóa tuyến là một phần trong phổ hình thái của carcinôm dịch thanh grad cao; chẩn đoán carcinôm dạng nội mạc chỉ nên dành cho các bướu rất giống với carcinôm dạng nội mạc của tử cung[6]. Do đó, với 4 trường hợp được chẩn đoán trước đó là carcinôm dạng nội mạc, chuyển thành carcinôm dịch thanh grad cao sau khi được nhuộm hóa mô miễn dịch cho thấy chẩn đoán carcinôm dạng nội mạc trên vi thể cần tuân thủ tiêu chuẩn chặt chẽ hơn để tránh chẩn đoán nhầm. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 203 Tương tự với các trường hợp carcinôm kém biệt hóa và carcinôm tế bào sáng cũng được thay đổi chẩn đoán sau khi nhuộm hóa mô miễn dịch cho thấy tính chất grad cao kém biệt hóa của carcinôm dịch thanh grad cao, cũng như bướu này thường hay mang các đặc điểm vi thể thấy được trong các loại bướu khác. Như vậy, sau khi kết hợp phân tích đặc điểm hình thái và biểu hiện HMMD, tất cả 11 trường hợp nêu ở đây được xếp vào nhóm carcinôm dịch thanh grad cao. *Với 2 trường hợp chẩn đoán trên HMMD là carcinôm dịch thanh grad thấp, chẩn đoán dựa trên hình thái là carcinôm dịch thanh grad cao. Hình thái vi thể của 2 trường hợp này mang đủ đặc điểm để chẩn đoán carcinôm dịch thanh grad cao với kiểu sắp xếp nhú, tạo khe mảnh, đặc, nhân grad cao, dị dạng, hạch nhân ái toan rõ, phân bào nhiều, phân bào bất thường và hoại tử bướu nhiều. Nếu chỉ dựa trên biểu hiện HMMD, sẽ có những tình huống không điển hình; do đó, khi phân tích kết quả HMMD luôn kết hợp giữa giải phẫu bệnh và HMMD. Chẩn đoán phân biệt giữa carcinôm dịch thanh grad thấp và grad cao dựa trên tính chất không điển hình của nhân và phân bào. Kết hợp với các dấu ấn p53, p16 và Ki-67 để phân tích. Chúng tôi nghĩ rằng trường hợp cụ thể này nên nhuộm lại hóa mô miễn dịch trên mẫu mô khác, đánh giá lại p53, p16, và Ki-67; kết hợp đặc điểm hình thái có thể đưa chẩn đoán sau cùng là carcinôm dịch thanh grad cao. *Với 1 trường hợp chẩn đoán carcinôm dạng nội mạc trên HMMD, chẩn đoán dựa trên hình thái là carcinôm dịch thanh grad cao. Biểu hiện HMMD: WT-1 (-), p53 biểu hiện quá mức, p16 bắt màu thành khối nhưng có ít hơn 90% tế bào bướu bắt màu, ER (+) PR (+), Napsin A (-), có thể được biện luận như là một biểu hiện không điển hình của carcinôm dạng nội mạc, nhưng cũng không loại bỏ được khả năng biểu hiện không điển hình của carcinôm dịch thanh grad cao, đặc biệt trong tình huống sử dụng dấu ấn WT-1 với clôn 6F-h2 thường cho kết quả nhuộm yếu. Hơn nữa, nhuộm trên mảnh mô nhỏ có thể bị âm giả do tính không đồng nhất của bướu, trong khi chỉ cần 1% tế bào bắt màu là có thể chẩn đoán WT- 1 dương tính. Trường hợp này trên vi thể chúng tôi thấy hình ảnh sắp xếp kiểu nhú, tuyến có các khe mảnh, hoặc đám đặc có nhân lớn dị dạng, hạch nhân to, rõ ái toan, phân bào nhiều và có phân bào bất thường, không phù hợp với chẩn đoán carcinôm dạng nội mạc. Carcinôm dạng nội mạc có vimentin dương tính, bêta-catenin dương tính màng và có thể dương tính với nhân; trong khi carcinôm dịch thanh grad cao có vimentin âm tính và bêta-catenin nhuộm màng. Cần nhuộm thêm HMMD với các dấu ấn này để xác định chẩn đoán. *Với 2 trường hợp không phân loại được sau nhuộm HMMD, chẩn đoán dựa trên đặc điểm hình thái bao gồm carcinôm dịch thanh grad cao (n = 1) và carcinôm kém biệt hóa (n = 1). Kết hợp phân tích đặc điểm hình thái và HMMD, chúng tôi nghĩ đến khả năng đây là các trường hợp carcinôm dịch thanh grad cao, cần thiết phải làm lại HMMD với dấu ấn WT-1 trên mẫu mô khác và nhuộm thêm các dấu ấn khác chẳng hạn như Ki-67. KẾT LUẬN Chỉ dựa trên đặc điểm hình thái có thể phân loại carcinôm buồng trứng trong đa số trường hợp (89,1%). Chỉ dựa trên biểu hiện HMMD có thể phân loại carcinôm buồng trứng trong hầu hết trường hợp (96,8%). Nhưng đồng thuận giữa hai chẩn đoán chỉ có 75%. Không đồng thuận gặp trong các trường hợp hình thái chồng lấp hoặc kém biệt hóa, các trường hợp biểu hiện HMMD không điển hình. Kết hợp đặc điểm hình thái và HMMD phân loại được 68,8% các trường hợp không đồng thuận. HMMD giúp ích cho phân loại nhưng không thể độc lập với hình thái trong phân loại carcinôm buồng trứng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Altman A.D., Nelson G.S., Ghatage P., McIntyre J.B., Capper D., Chu P., Nation J.G., Karnezis A.N., Han G., Kalloger S.E., Kobel M. (2013). “The diagnostic utility of TP53 and CDKN2A to distinguish ovarian high-grade serous carcinoma from low-grade serous ovarian tumours”. Modern Pathology, 26:1255-1263. 2. Assem H., Rambau P.F., Lee S., Ogilvie T., Sienko A., Kelemen L.E., Kobel M. (2018). “High-grade endometrioid carcinoma of the ovary. A clinical pathologic study of 30 cases”. Am J Sur Pathol 00:000-000. 3. Bray F., Ferlay G., Soerjomataram I., Siegel R.L., Torre L.A., Jemal A. (2018). “Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries”. Cancer J Clin; 68:394 - 424. 4. Clarke B.A., Gilks B. (2011). “Ovarian carcinoma: recent developments in classification of tumour histological subtype”. Canadian journal of pathology, Fall 2011: 33 - 42 5. Howitt B.E., Lee K.R., Muto M.G., Nucci M.R., Crum C.P. (2019). “The pathology of pelvic - ovarian epithelial (epithelial - stromal) tumors”. In Crum C.P. “Diagnostic gynecologic and obstetric pathology’ 3rd edition, Elsevier. 6. Kobel M., Kalloger S.E., Lee S. et al (2013). “Biomarker-based ovarian carcinoma typing: A Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 204 histologic investigation in the ovarian tumor tissue analysis consortium”. Cancer Epidemiol Biomarker Prev, 22:1677 - 1686. 7. Kobel M., Piskorz A.M., Lee S. et al (2016). “Optimized p53 immunohistochemistry is a accurate predictor of TP53 mutation in ovarian carcinoma”. J. Path: Clin Res, 2:247 - 258. DOI: 10.1002/cjp2.53. 8. Kobel M., Rahimi K., Rambau P.F., et al (2016). “An immunohistochemical algorithm for ovarian carcinoma typing”. International Journal of Gynecological Pathology, 00: 1 - 12. 9. Kobel M., Bak J., Bertelsen B.I., et al. (2014). “Ovarian histotype determination is highly reproducible, and is improved through the use of immunohistochemistry”. Histopathology 64, 1004 - 1013. 10. Kurman R.J., Carcangiu M.L., Herrington C.S., Young R.H. (2014). “WHO classification of tumours of female reproductive organs”. 4th edition. IARC Lyon. ISBN: 978-92-832-2435-8 11. Lee S., Piskorz A.M., Le Page C., et al (2015). “Calibration and optimization of p53, WT1, and Napsin A Immunohistochemistry Ancillary tests for histotyping of ovarian carcinoma: Canadian immunohistochemistry quality control (CIQC) experience”. International journal of gynecological pathology, 35:209 - 221. 12. Lheureux S., Braunstein M., Oza A.M. (2019). “Epithelial Ovarian Cancer: Evolution of Management in the Era of Precision Medicine”. CA Cancer J Clin, 0:1 - 25. 13. Peres L.C., Cushing-Haugen K.L., Anglesio M., Wicklund K., Bentley R., Berchuck A., Kelemen L.E., Nazeran T.M., Gilks C.B., Harris H.R., Huntsman D.G., Schildkraut J.M., Rossing M.A., Kobel M., Doherty J.A. (2018). “Histotype classification of ovarian carcinoma: A comparison of approaches”. Gynecol Oncol, https://doi.org/10.1016/j.ygyno.2018.08.016 14. Rosai, Gilks B., Goldblum J.R., Lamps L.W., McKenney J.K., Myers J.L. (2018). “Rosai and Ackerman’s surgical pathology”. 11th edition, Elsevier 15. Soslow R.A., Tornos C.. (2011).”Diagnostic Pathology of Ovarian Tumors”. Springer. ISBN 978-1-4419-9750-0. 16. Wilson A.B., Kobel M., Luo L., Grevers X., Lee S., Gilks C.B., Le N.D., Cook L.S. (2018). “Ovarian carcinoma histotype: Strengths and limitations of intergrating morphology with immunohistochemical predictions”. Int J Gyneco Pathol, 00:1-10.
File đính kèm:
- chan_doan_phan_biet_cac_ung_thu_bieu_mo_buong_trung_biet_hoa.pdf