Cảm hứng nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hòa
Nguyễn Thị Kim Hòa sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, tản văn nhưng đều xuất
phát từ một nguồn cảm hứng nhân văn. Đó là những trăn trở, suy tư, rung động mãnh liệt của tác
giả về hiện thực đời sống và con người vùng nắng, gió Phan Rang. Bài viết dựa trên kết quả nghiên
cứu kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp để giới thiệu những nét độc đáo trong cảm hứng
nghệ thuật và văn phong của nhà văn trẻ Nguyễn Thị Kim Hòa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cảm hứng nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cảm hứng nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hòa
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 88 CẢM HỨNG NHÂN VĂN TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ KIM HÒA Phạm Đặng Thùy Dương Trường Đại học Văn Hiến phuhung@thietbipccc.vn Ngày nhận bài: 24/10/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 Tóm tắt Nguyễn Thị Kim Hòa sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, tản văn nhưng đều xuất phát từ một nguồn cảm hứng nhân văn. Đó là những trăn trở, suy tư, rung động mãnh liệt của tác giả về hiện thực đời sống và con người vùng nắng, gió Phan Rang. Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp để giới thiệu những nét độc đáo trong cảm hứng nghệ thuật và văn phong của nhà văn trẻ Nguyễn Thị Kim Hòa. Từ khóa: cảm hứng nhân văn, phong cách, Nguyễn Thị Kim Hòa. Humanitarian inspiration in the prose works of Nguyen Thi Kim Hoa Abstract Nguyen Thi Kim Hoa composed many genres: short stories, long stories, and literature but all came from a human inspiration. Those are the concerns, thoughts and vibrations of the author about the real life and people in the sunny and windy areas of Phan Rang. The article is based on research results combined with analysis - synthetic methods to introduce the unique features in artistic inspiration and style of young writer Nguyen Thi Kim Hoa. Keywords: humanitarian inspiration, style, Nguyen Thi Kim Hoa. Mở đầu Vượt qua hơn 1000 tác phẩm dự thi và giành được giải Nhất cuộc thi Truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội 2013 - 2014, Nguyễn Thị Kim Hòa1 được bạn đọc gần xa yêu thích và đánh giá cao. Dù viết về đề tài lịch sử, chiến tranh hay xã hội nhà văn luôn dành sự ưu ái, quan tâm đến những người mẹ, người vợ, người chị bởi cuộc đời họ thường chịu nhiều thua thiệt, tổn thương mà không gì có thể bù đắp được. Tuy nhiên, đến thời điểm này chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tác giả và tác phẩm một cách hệ thống. Vì thế, bài viết mong muốn cung cấp một số cảm hứng nhân văn mới mẻ trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hòa để giúp người đọc có cái nhìn bao quát về những vấn đề mà nhà văn trăn trở, ưu tư trong tác phẩm. 1 Nhà văn Nguyễn Thị Kim Hòa tên thật cũng là bút danh, sinh năm 1984 tại Ninh Thuận. Hiện nay, tác giả đang sống Nhà văn trẻ Nguyễn Thị Kim Hòa - vệt nhớ miền sa mạc Bắt đầu sáng tác năm 2009, đến năm 2014, Nguyễn Thị Kim Hòa đã khẳng định được tên tuổi của mình bằng các giải thưởng cao như: Giải Nhất cuộc thi Truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội 2013 - 2014 với ba truyện ngắn Đỉnh khói, Hương thôn dã, Thôi mùa cỏ cháy; Giải Nhất cuộc Vận động sáng tác Văn học thiếu nhi giai đoạn 2013 - 2015 của Hội nhà văn Đan Mạch phối hợp NXB – Kim Đồng tổ chức, với tác phẩm Hoàng tử Rơm; Giải C Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam 2015 với tập Đỉnh Khói, Nguyễn Thị Kim Hòa thử sức song song hai lĩnh vực người lớn, trẻ em và lĩnh vực nào nhà văn cũng gặt hái thành công. Đối với truyện thiếu nhi rất kén chọn cách viết nhưng chị lại và làm việc tại Ninh Thuận. Chị cũng là hội viên Hội Văn học tỉnh Ninh Thuận và Hội Nhà văn Việt Nam. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 89 hóa thân thành công trong thế giới nhân vật ấy. Có lẽ nhờ tiếp xúc thường xuyên với các học trò nên tác giả dễ thấu hiểu các em để từ đó thể hiện trên trang viết một cách tự nhiên, trong sáng. Nguyễn Thị Kim Hòa mê đọc sách, yêu văn chương từ nhỏ. Lên cấp ba, tác giả bộc lộ tài năng qua giải thưởng học sinh giỏi Văn quốc gia nhưng chưa bao giờ chị nghĩ sẽ gắn bó cuộc đời mình với văn chương. Đọc những dòng tâm sự của Nguyễn Thị Kim Hòa trên báo Phụ nữ online về công việc, thời gian sáng tác, chúng ta thật sự cảm phục trước sức mạnh nội lực của nhà văn trẻ. Giờ đây, chị xem “viết như là hơi thở”, để “được sống nhiều trong cùng một kiếp người”. Càng đi vào con đường văn chương nhà văn càng được mở rộng tầm mắt về cuộc sống chung quanh, càng hiểu mọi người và hiểu mình hơn. Qua mỗi cảnh đời, mỗi một số phận nhân vật, chị như được tiếp thêm ước mơ, hy vọng để vững bước trong cuộc đời “Nếu như trước năm 25 tuổi, tôi đã luôn dùng lạc quan để mỉm cười, chấp nhận thiệt thòi sức khỏe số phận đã dành cho mình, thì từ năm 25 tuổi đến bây giờ, khi đối diện thêm với căn bệnh cột sống, may làm sao, ngoài lạc quan tôi còn có văn chương” (Hoàng Đăng Khoa, 2017: tr. 60). Khi Tản văn Sa mạc và những vệt nhớ ra đời, Nguyễn Thị Kim Hòa đã nhận được không ít lời khen từ các nhà văn đi trước. Khi tiếp xúc với thế giới truyện của Nguyễn Thị Kim Hòa, chúng tôi nhận ra cái tình của nhà văn trẻ đối với quê hương sâu nặng vô cùng. Tác giả vận dụng hoàn toàn chất liệu cuộc sống của vùng đất miền gió cát Phan Rang. Những cái tên như sông Dinh, chợ Nại, núi Chà Bang, động cát Nam Cương, những loại cây như: xương rồng, bồn bồn, nem, những đặc sản như: nho, cừu, cát trắng, dông, tất cả đều thường trực trong trang viết của nhà văn. Rồi từng ngọn bấc, hạt mưa cho đến những bông hoa mọc lên từ sa mạc cằn cỗi bỗng trở nên tươi đẹp, sống động lạ thường qua lăng kính của tác giả. Nên hiện thực trong truyện của Nguyễn Thị Kim Hòa là hiện thực cuộc sống đời thường, quen biết xung quanh. Chỉ khác là hiện thực ấy được sinh ra từ cảm xúc nhiệt thành, từ sự rung động tha thiết của trái tim dành cho xứ sở. Qua chín năm kết duyên cùng văn chương, Nguyễn Thị Kim Hòa đã khẳng định được tài năng, vị trí của mình trong đội ngũ những người sáng tác trẻ cả nước. Điều đáng quý là chị sử dụng khá lớn từ ngữ của đất và người vùng nắng, gió trong tác phẩm của mình: “Nguyễn Thị Kim Hòa đem được cái gân guốc dữ dội của cuộc sống vào con chữ” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2012: tr. 9). Chính đặc điểm này đã tạo cho cây bút xứ Phan Rang một văn phong riêng biệt mang đậm dấu ấn cá nhân. Biểu hiện chủ yếu của cảm hứng nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hòa Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, ngoài quá trình làm việc nghiêm túc, ... được tình cảm của cha mẹ đối với con cái. Thế nên, các thành viên trong gia đình hãy yêu thương, tin tưởng và tha thứ cho nhau để mái ấm gia đình mãi mãi là bến đỗ bình yên cho mọi người trong suốt cuộc đời. Hãy trân trọng, nâng niu, nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình và đừng bao giờ vì yêu thương mà lại làm đau chính mình và những người mình yêu quý nhất. Số phận bi ai của người phụ nữ hiện lên trên trang viết của Nguyễn Thị Kim Hòa đâu chỉ có đau khổ vì nghèo, vì bất hạnh trong tình duyên, mà họ còn gánh chịu nhiều nỗi cay đắng do những tập tục cổ hủ gây ra. Tập tục cổ hủ đã làm khổ biết bao người phụ nữ vô tội. Với quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, người phụ nữ Việt Nam đã bị đẩy xuống địa vị thấp nhất trong thời gian qua. Thế nên, trong truyện Cơn lũ vẫn chưa qua, người đọc hiểu được vì sao ngày Dương chào đời, người mợ đã dửng dưng đứng bịt mũi ngoài cửa sổ cười chê: “Rồi !... Làm gì không làm lại TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 95 đi làm giống nằm ngửa cho lũ đàn ông chơi!” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2014: tr. 12). Dưới chế độ cũ, người phụ nữ còn bị cấm không cho đi học, Hướng Dương cũng vậy, tám tuổi vẫn chưa có giấy khai sinh, một cái tên đầy đủ họ cũng không. Rồi quan niệm về “chữ trinh” đã làm khổ biết bao người con gái. Trước ngày lấy chồng, người con gái có yêu ai thì không được đánh mất “chữ trinh”. Trong Cơn lũ vẫn chưa qua, nếu Thụ không biết rõ Hướng Dương còn trong trắng thì chắc gì cô được làm vợ Thụ: “Thấy chưa Đàn ông thực ra vẫn thích lắm được làm chủ đốm hoa chấm màu trinh trắng” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2014: tr. 63, 64). Khi gia đình không hạnh phúc, bao giờ người phụ nữ cũng bị gia đình chồng kết tội. Mẹ chồng Hướng Dương cũng thế, biết con trai mình hư hỏng, say khướt cả ngày, bà không khuyên dạy được nửa lời. Đã thế, bà còn đổ lỗi cho con dâu: “từ khi bước vào nhà là đem xui đem rủi, làm hại làm hư con trai duy nhất của bà” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2014: tr. 94). Đại diện cho thành kiến trong câu chuyện không phải ai xa lạ mà chính là mẹ Thụ. Trên đời này không có ai là người hoàn hảo, có chăng chỉ là sự tự đề cao mình mà thôi. Ai cũng có quá khứ nhưng đâu phải ai cũng may mắn, hạnh phúc có một quá khứ đẹp và trong sạch. Vậy mà, cái lý do Hướng Dương bị chồng từ chối quyền làm vợ, làm mẹ chỉ vì quá khứ: “Tôi gửi đơn lên tòa là để nhờ luật pháp giải quyết cho rõ ràng. Tôi đồng ý cho cô ta ẵm con trai tôi đi vì nó còn nhỏ quá, cần có mẹ. Còn con gái tôi, cháu đang tuổi ăn tuổi lớn, sống với một người mẹ quá khứ phức tạp như cô ta lỡ cháu bị ảnh hưởng thì sao” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2014: tr. 94). Đúng là Dương có tội: “Tội lớn nhất của Dương là trốn chạy. Dương phải làm gì đây khi thứ Dương muốn chạy trốn đó đã đuổi ngay đến chân Dương. Và giờ người ta đang dùng nó để tấn công Dương, tước con gái Dương ra khỏi tay Dương” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2014: tr. 95). Phải chăng vì thành kiến tàn nhẫn ấy đã giết chết ước mơ, khát vọng của một người phụ nữ đáng thương. Dương phải trả một cái giá quá đắt cho cái gọi là “quá khứ”. Hay chính những người làm cha, làm mẹ ấy đã góp phần nuôi dưỡng những tập tục bất công, góp phần làm khổ người phụ nữ. Cho đến hôm nay, người đời vẫn còn lắm thành kiến. Họ cho rằng những cô gái làm nghề “bán hoa” đều là kẻ bay bướm, bạc tình. Và không cần phân biệt ai tốt, ai xấu, hễ người nào làm cái nghề này luôn bị xã hội khinh miệt, cười chê. Nếu cô gái nào có người yêu cũng chưa chắc được gia đình chàng trai chấp nhận cưới. Như trong truyện Cơn lũ vẫn chưa qua, khi biết anh Cộc yêu chị Xảo, ba mẹ anh Cộc bảo rằng: “Mày lụi tao với với mẹ mày chết tươi đi rồi hãy qua rước đĩ về nhà!” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2014: tr. 18). Câu nói của cha mẹ anh Cộc chính là phát ngôn cho thành kiến xã hội. Ngoài Cơn lũ vẫn chưa qua, truyện ngắn của Nguyễn Thị Kim Hòa còn xuất hiện rất nhiều người phụ nữ sống bằng nghề buôn hương bán phấn như: Ven sông, Tái sinh, Thôi mùa cỏ cháy. Tuy mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau nhưng họ đều có điểm chung là tứ cố vô thân, nghèo khổ song hết thảy đều có tấm lòng nhân ái, sống tình cảm, ước mơ đẹp đáng để chúng ta trân trọng. Họ thật sự đáng thương hơn đáng trách. Suy đến cùng, họ không có lỗi, mại dâm cũng không phải là lỗi của người phụ nữ nhưng định kiến xã hội bao đời nay vẫn chưa buông tha cho họ. Chính xã hội với những mặt trái, những bất công của chế độ nam quyền, phụ quyền đã xô đẩy người phụ nữ và buộc họ làm cái nghề đáng khinh bỉ này. Đằng sau số phận của Hướng Dương, Xảo, Bèo, Mén, nhà văn lên án gay gắt những phong tục, lễ giáo cổ hủ đã đối xử bất công với người phụ nữ. Đồng thời nhà văn đã cho chúng ta thấy được khoảng tối trong tâm hồn những con người lỡ sa chân vào cái nghề lắm bạc bẽo này. Từ đó người viết kín đáo gửi gắm sự yêu thương và chia sẻ với họ. Đây cũng là cái tâm của một người cầm bút mà từ những tác phẩm đầu tiên chúng ta có thể cảm nhận được ở cây bút trẻ xứ Phan Rang. Cảm hứng nhân văn - dấu văn Nguyễn Thị Kim Hòa trong đời sống văn học trẻ Việt Nam đầu thế kỷ XXI Trong nền văn học Việt Nam trung đại, tác VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 96 giả nữ rất hiếm hoi: Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm Sang đầu thế kỷ XX, các nhà văn nữ vẫn vắng bóng trên văn đàn bởi quan niệm phong kiến hà khắc, người phụ nữ bị trói buộc bởi bổn phận làm mẹ, làm vợ. Ở giai đoạn 1930 – 1945, người phụ nữ cũng bị chi phối bởi hoàn cảnh xã hội, đất nước chiến tranh nên sáng tác văn học ưu thế vẫn thuộc về các nhà văn nam như Thạch Lam, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nhưng đến 1945 - 1975 một số cây bút nữ đã khẳng định được vị thế trên văn đàn: Vũ Thị Thường, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Sau năm 1975, xuất hiện nhiều nhà văn nữ tên tuổi như: Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đoàn Lê, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Dạ ngân, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư mà phần lớn tài năng văn chương của họ được khẳng định qua những giải thưởng, tạo ấn tượng sâu đậm trong tâm trí bạn đọc. Nhiều tác phẩm đã công khai “danh tính” của giới nữ ngay từ nhan đề: Hành trang người đàn bà Âu Lạc (Võ Thị Hảo, 2015), Người đàn bà ám khói (Nguyễn Thị Thu Huệ, 2006), Người đàn bà bơi trên sóng (Bích Ngân, 2011) Hầu hết, thế hệ nhà văn nữ sau 1975 tỏ ra năng động. Nhà văn Văn Giá cho rằng: “Cái tôi trong văn học nữ hôm nay là cái tôi đa diện, đã ngã”. Hơn ai hết, họ đến với văn chương “như một sự lắng nghe, một sự thấu hiểu. Vì đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng bản thân mình” (Phùng Gia Thế và cộng sự, 2016: tr. 278). Đáng mừng là bước sang thế kỷ XXI, bên cạnh những cây bút quen thuộc, văn đàn nước ta được tiếp thêm sức trẻ bởi các nhà văn thuộc thế hệ 8X. Các tác giả này đã có hàng loạt truyện ngắn được xuất bản làm cho đời sống văn học sôi động hẳn lên như: Nguyễn Anh Đào - Chỉ cần em biết khóc, Đỗ Đức Anh - Những sắc màu của gió, Ngô Thị Hạnh - Khúc hát giờ kẹt xe, Trương Thanh Thùy - Một nửa của tình yêu, Nguyễn Thị Hải - Quả đồi phía Tây, Tiểu Quyên - Con tàu đi tìm sân ga Trong những nhà văn ấy thì Nguyễn Thị Kim Hòa được bạn đọc gần xa biết đến nhiều hơn, mặc dù chị không tham gia những phong trào mới thời thượng về sáng tác, về cách tân theo khuynh hướng trào lưu như các nhà văn trẻ cùng thời. Nguyễn Thị Kim Hòa cũng tiếp thu cái mới của văn học hiện đại (nữ quyền) nhưng chủ yếu là về những người phụ nữ xung quanh: “Những người thân yêu ruột thịt, bạn bè, hàng xóm, những người quen sơ hay cả những người chưa gặp một lần. Tất cả họ, dù khác nhau về hoàn cảnh sống, gia đình hay vị trí xã hội, vẫn có chung nhau một khát khao cháy bỏng khôn cùng về hạnh phúc” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2012: tr. bìa). Nguyễn Thị Kim Hòa sáng tác nhiều thể loại: truyện dài, truyện ngắn, tản văn nhưng lĩnh vực truyện ngắn đã đem đến thành công và hình thành nên văn phong đặc biệt cho chị. Dù viết về đề tài thế sự, chiến tranh hay lịch sử, cây bút trẻ đều khẳng định được dấu văn của mình trên văn đàn. Ở đề tài thế sự, nhà văn viết về những vấn đề gia đình, xã hội đương thời, gắn với không gian của vùng đất Ninh Thuận. Tác giả đã khẳng định những câu chuyện được kể luôn “có xen lẫn cả biển, cả cát, cả cái gió như “phan” và nắng như “rang” của vùng đất quê tôi. Những câu chuyện mà hình như đau đáu trong đó cả những khao khát của chính tôi” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2012: tr. bìa). Nhân vật trong truyện của nhà văn sa mạc thuộc nhiều thành phần trong xã hội: người mẹ, người vợ, người chị lao động ở miền quê, các em sinh viên, học sinh, thầy, cô giáo, ông già chăn cừu, anh thợ hớt tóc, các chị tiếp viên, bà chủ quán Hiện lên trong mỗi câu chuyện là vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống của người dân lam lũ chất phác ở vùng đất có khí hậu đầy khắc nghiệt để từ đó chúng ta thông cảm cho những gian khổ trong việc mưu sinh cũng như khâm phục được tinh thần lạc quan, vượt lên hoàn cảnh của họ. Ở đề tài chiến tranh, Nguyễn Thị Kim Hòa đã mở ra một điểm nhìn khác cho người đọc. Mượn hiện thực từ thân phận người phụ nữ để cảm nhận cuộc chiến, nhà văn trẻ đã làm nổi bật những bi kịch đau thương - mất mát mà trước đó văn học chưa đề cập đến. Đó là nỗi đau ghê gớm của người chị có hai em trai đối đầu nhau trong cuộc chiến. Đó là tâm tư của một cô gái làng TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 97 chơi đêm đêm hứng chịu biết bao tiếng khóc của những kẻ đàn ông ở “phía bên kia”. Hay nỗi ám ảnh chiến tranh đã làm cho một người con gái “mỗi lần nhìn về quê hương chỉ thấy kinh sợ, thấy đau đớn”. Bằng cảm hứng nhìn thẳng, nói thực về cuộc chiến tác giả đã mang đến cho độc giả cảm nhận mới mẻ, đầy đủ về cái tàn nhẫn chiến tranh. Chiến tranh đâu chỉ tàn phá thể xác mà còn có cả tâm hồn. Những chiến công oanh liệt, những danh vị cao sang cũng không thể bù đắp được quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người. Đó là quyền: làm chồng, làm cha, làm vợ, làm mẹ Từ đây nhà văn đã phát hiện và thông cảm với những số phận bất hạnh của họ. Qua đó nhà văn đã tiến thêm một bước nữa trong sự nghiệp của mình. Khi tập truyện viết về đề tài lịch sử Con chim phụng cuối cùng ra đời, dấu ấn của Nguyễn Thị Kim Hòa hiện ra đậm nét. Bằng chất liệu hiện thực quê hương - vương quốc Champa thuở nào kết hợp với thế mạnh thân phận giới của mình, tác giả đã tái dựng nên chín bức chân dung lịch sử chân thực và sinh động. Thông qua những câu chuyện ấy mà người đọc hiểu thêm về bi kịch của những người phụ nữ chốn nội cung. Họ chỉ là “con cờ” của “trò chơi quyền lực”. Dù thời bình hay thời chiến, dù hoàng hậu hay thường dân cuối cùng cũng có kết cục giống nhau. Từ bi kịch chốn hậu cung người viết muốn cảm thông, chia sẻ với nỗi đau của người xưa đồng thời gửi gắm bài học kinh nghiệm sống cho người đời nay. Có thể thấy ngôn từ trong hầu hết sáng tác của Nguyễn Thị Kim Hòa từ ngôn ngữ dẫn chuyện đến ngôn ngữ nhân vật đều mang nét đặc trưng của đất và người vùng nắng gió: “ Nguyễn Thị Kim Hòa đem được cái gân guốc dữ dội của cuộc sống vào con chữ” (Nguyễn Thị Kim Hòa, 2012: tr. 9). Số lượng từ ngữ vùng đất Nam Trung bộ được nhà văn sử dụng khá lớn trong tác phẩm của mình. Chính đặc điểm này đã tạo cho truyện ngắn của cây bút xứ Phan Rang một văn phong riêng biệt mang đậm dấu ấn cá nhân. Dù viết về đề tài nào, văn xuôi của Nguyễn Thị Kim Hòa luôn lấy cảm hứng từ thân phận người phụ nữ. Mặc dù cuộc đời họ đều rơi vào bi kịch nhưng trên tất cả họ sống với tâm hồn đầy nữ tính làm tròn trách nhiệm của một người làm mẹ, làm chị. Đằng sau mỗi trang viết là những trăn trở, suy tư nghiêm túc của nhà văn về cuộc đời về lẽ sống đầy sâu sắc. Kết luận Sự trân quý đối với quê hương xứ sở, sự yêu thương, trăn trở cho những phận người bé mọn và thái độ phê phán nhiệt thành những mặt trái của cơ chế xã hội, nhân tình vốn là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của cây bút vùng sa mạc. Đó cũng là tiếng nói cất lên từ trái tim, từ tiếng lòng tha thiết của nhà văn trẻ đầy lương tâm, trách nhiệm với cuộc đời. Những câu chuyện của chị dù viết về đề tài nào cũng hướng đến những tình cảm tốt đẹp như: tình mẫu tử thiêng liêng, tình anh em máu mủ, tình vợ chồng chung thủy, tình bạn keo sơn Tất cả đều là những vấn đề quan trọng và luôn có giá trị vĩnh cửu đối với sự tồn vong của con người và xã hội. Với cảm hứng độc đáo này, Nguyễn Thị Kim Hòa đã có những đóng góp tích cực cho nền văn học Việt Nam đương đại đồng thời định hình được dấu văn của mình trên văn đàn. Tài liệu tham khảo Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như Phương (1995). Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ. Hà Nội, Nxb Giáo dục, tr.118. Võ Thị Hảo, Phương Diệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thủy và Di Li (2015). Truyện ngắn 5 tác giả nữ. Nxb Văn học. Nguyễn Thị Kim Hòa (2012). Nho đắng (Truyện ngắn). Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ. Nguyễn Thị Kim Hòa (2014). Cơn lũ vẫn chưa qua (Truyện dài). Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ. Nguyễn Thị Kim Hòa (2015). Đỉnh khói (Truyện ngắn). Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ. Nguyễn Thị Kim Hòa (2016). Sa mạc và những vệt nhớ (Tản văn). Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ. Nguyễn Thị Huệ (2006). 37 truyện ngắn. Nxb Văn học. Hoàng Đăng Khoa (2017). Song hành và đối thoại. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp, tr. 60. VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 98 Nguyễn Đăng Mạnh (1994). Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Hà Nội, Nxb Giáo dục, tr. 48. Bích Ngân (2011). Người đàn bà bơi trên sóng (tái bản). Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Văn nghệ. Phùng Gia Thế - Trần Thiện Khanh (2016). Văn học và giới nữ - Một số vấn đề lý luận và lịch sử. Hà Nội, Nxb Thế giới, tr. 278.
File đính kèm:
- cam_hung_nhan_van_trong_van_xuoi_nguyen_thi_kim_hoa.pdf