Cảm hứng “giải huyền thoại” trong truyện ngắn bức thư gửi mẹ Âu cơ của Y Ban
“Giải huyền thoại” là một xu hướng văn học góp phần đưa tác phẩm tiệm cận cảm quan hậu
hiện đại với sự phá vỡ trật tự cấu trúc, đem lại một cách cảm nhận hiện thực mới lạ. Từ cảm hứng
“giải huyền thoại”, “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” của Y Ban đã thực hiện xuất sắc sứ mệnh văn chương,
phản ánh được những vấn đề “nóng” trong xã hội, thức tỉnh con người, truyền tải được những thông
điệp ý nghĩa về cuộc sống. Từ đó, khẳng định cái nhìn mới, tiếng nói mới mà Y Ban mang đến cho
văn học nữ Việt Nam hiện đại
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Cảm hứng “giải huyền thoại” trong truyện ngắn bức thư gửi mẹ Âu cơ của Y Ban", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cảm hứng “giải huyền thoại” trong truyện ngắn bức thư gửi mẹ Âu cơ của Y Ban
45 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) CẢM HỨNG “GIẢI HUYỀN THOẠI” TRONG TRUYỆN NGẮN BỨC THƯ GỬI MẸ ÂU CƠ CỦA Y BAN y Phạm Thị Thanh Thủy(*) Tóm tắt “Giải huyền thoại” là một xu hướng văn học góp phần đưa tác phẩm tiệm cận cảm quan hậu hiện đại với sự phá vỡ trật tự cấu trúc, đem lại một cách cảm nhận hiện thực mới lạ. Từ cảm hứng “giải huyền thoại”, “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” của Y Ban đã thực hiện xuất sắc sứ mệnh văn chương, phản ánh được những vấn đề “nóng” trong xã hội, thức tỉnh con người, truyền tải được những thông điệp ý nghĩa về cuộc sống. Từ đó, khẳng định cái nhìn mới, tiếng nói mới mà Y Ban mang đến cho văn học nữ Việt Nam hiện đại. Từ khóa: Giải huyền thoại, Y Ban, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ. 1. Đặt vấn đề Nhìn lại nền văn học hiện đại Việt Nam, nhất là từ sau thời kì đổi mới, ta thấy một điều thú vị là ngay giữa kỷ nguyên công nghệ thông tin, văn chương lại hứng thú với những câu chuyện mang hơi hướng huyền thoại, với những nhân vật kỳ ảo. Với tinh thần “giải thiêng”, dùng “huyền thoại” để “giải huyền thoại”, các nhà văn đã đi vào tái hiện một thế giới khác, một thực tại khác nhằm phá vỡ cái nhìn phiến diện, một chiều về con người và cuộc đời. Xét trên một phương diện nào đó, xu hướng “giải huyền thoại” đã góp phần đưa tác phẩm tiệm cận cảm quan hậu hiện đại với sự phá vỡ trật tự cấu trúc. Đồng thời, thông qua đó, các tác giả có điều kiện đi vào khai thác những thế giới bí ẩn trong tiềm thức và siêu thức ở mỗi con người. Tìm hiểu xu hướng “giải huyền thoại” trong một số truyện ngắn Việt Nam đương đại không chỉ giúp ta tiếp cận truyện ngắn ở phương diện thể loại mà còn giúp ta hiểu được cảm quan thời đại ở mỗi nhà văn. Qua đó có thể thấy rằng, có những lúc văn chương đã phải dùng huyền thoại như một thứ đòn bẩy để phản ánh hiện thực. Nhiều nhân vật từ truyền thuyết, cổ tích, từ một tác phẩm văn học kinh điển đã được tái cấu trúc. Viết lại tích cũ, tái hiện lại những nhân vật thần kì đã quá quen thuộc với cộng đồng, người viết không chỉ tấn công vào lối tư duy một chiều, vào sự áp đặt niềm tin kiểu cổ tích mạnh mẽ khẳng định về khuyến khích phát huy tính chất trò chơi của văn chương. Trong thời đại bùng nổ thông tin có khi làm nhiễu loạn nhận thức, lý trí có thể lạc lối, sự bất an có thể gây ra tình trạng thờ ơ, lãnh cảm, khả năng tái sinh của huyền thoại được xem là một giải pháp nghệ thuật nhiều ý nghĩa. Nhiều nhân vật kỳ ảo được văn chương ưu ái giao cho sứ mệnh phản ánh những vấn đề nóng trong xã hội, thức tỉnh con người, truyền những thông điệp về cuộc sống mà truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban là một điển hình cho tinh thần “giải huyền thoại” trong văn học. 2. Cảm hứng “Giải huyền thoại” trong truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban 2.1. Giới thiệu đôi nét về “giải huyền thoại” Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, giễu nhại, giải thiêng lịch sử, giải huyền thoại đang trở thành cảm ứng mạnh mẽ với điểm tựa là những huyền thoại, những cổ mẫu trong đời sống văn hóa dân tộc hoặc dựa trên tư duy huyền thoại để sáng tạo. Đây có thể được xem là kỹ thuật tự sự nổi bật, tinh thần chủ lưu của chủ nghĩa hậu hiện đại. “Giải huyền thoại thực chất là sự phản tỉnh, phản kháng, là cảm hứng nghệ thuật mới mẻ thậm chí là nhằm “lạ hóa” giải cấu trúc, xóa bỏ đi “lớp sương mù huyền thoại” bao bọc đối tượng, gỡ bỏ những gì vốn trật tự, ổn định, linh (*) Học viên cao học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 46 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) thiêng làm phơi mở khả năng hoài nghi, tra vấn “những chuyện kể vĩ đại” [2]. Có thể chia “giải huyền thoại” làm hai xu hướng chính, đó là “giải huyền thoại” về lịch sử và “giải huyền thoại” về tâm thức dân gian. “Giải huyền thoại” về lịch sử không phải là xóa bỏ lịch sử mà là thể hiện cách cảm nhận lịch sử theo một hướng khác, đương đại hóa cái quá vãng. Khi xây dựng những biểu tượng hóa giải huyền thoại về lịch sử, điều nhà văn hướng đến không phải là việc phủ nhận, bôi nhọ lịch sử, báng bổ quá khứ mà chỉ xem lịch sử giống như một chất liệu nghệ thuật để từ đó nhà văn thể hiện những quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá của mình về cuộc sống, con người. “Xu hướng “giải huyền thoại” lịch sử không chỉ nhằm “giải thiêng” các anh hùng quá khứ, mà còn thể hiện tinh thần dân chủ. Nó mở rộng quan niệm về hiện thực, đề cao tính hư cấu, tính “trò chơi” trong sáng tạo văn học” [2]. “Giải huyền thoại” về tâm thức dân gian có hai cấp độ: viết tiếp huyền thoại và viết lại, giễu nhại, giải huyền thoại. Viết tiếp huyền thoại không phải là hình thức viết tiếp câu chuyện đã kết thúc trong huyền thoại trùng khớp với tinh thần, quan điểm của tác giả dân gian mà là sử dụng “cái nhìn mang tính chất đối thoại, cùng tư duy tranh biện, lối viết “nội hiện” thay vì “ngoại hiện” như trong huyền thoại cổ đã trở thành thi pháp nổi bật” [2]. Trường hợp viết tiếp huyền thoại, tư tưởng giải huyền thoại, giải thiêng hình tượng chỉ giới hạn ở việc đưa ra những suy ngẫm, những góc nhìn khác. “Viết lại, giễu nhại, giải thiêng huyền thoại đã tái tạo nên những huyền thoại mới có xu hướng đối lập, giễu nhại, thậm chí là phủ định huyền thoại dân gian. Không chỉ đối thoại với các tác giả dân gian, các tác giả hiện đại còn đối thoại với nhau” [2]. Tuy nhiên, cách phân chia trên chỉ mang tính chất tương đối vì trong một số sáng tác đương đại, quá trình thâm nhập, tái sinh của huyền thoại diễn ra song song, vừa viết tiếp, vừa giễu nhại, vừa giải thiêng huyền thoại. 2.2. Cảm hứng “giải huyền thoại” trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban 2.2.1. Nhan đề “giải huyền thoại” Lấy cảm hứng từ tự sự dân gian và xuất phát từ xu hướng “Giải huyền thoại” về tâm thức dân gian, Y Ban tái sinh huyền thoại về mẹ Âu Cơ qua truyện ngắn mà nhan đề đã được biến thể: Bức thư gửi mẹ Â ... Đặc biệt, để thể hiện hiệu quả nội tâm nhân vật khi nói về thời gian, Y Ban rất chú trọng thời 51 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) điểm ban đêm bởi trong bước đi tuần tự của thời gian, quãng thời gian ban đêm có một ý nghĩa đặc biệt. Đó là thời điểm con người có thể đối diện với chính cõi lòng của mình, được sống với thế giới riêng tư mà ban ngày nó bị chìm khuất đi bởi bộn bề của cuộc sống. Đó là quãng thời gian mà con người bộc lộ chân thực nhất thế giới nội tâm của mình, không giấu giếm, che đậy. Trong tác phẩm, thời gian ban đêm đã trở thành thời gian nghệ thuật gắn với những trĩu nặng tâm tư của cô gái “Đêm đêm cha mẹ vẫn bên nhau và con thức tỉnh với nỗi đau của mình”. Thời gian trong truyện có mối quan hệ đặc biệt với không gian. Nếu như không gian trong các truyện cổ dân gian là không gian cộng đồng, không gian văn hóa dân gian thì trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban là không gian thế sự - đời tư cá nhân và là không gian đồng hiện. Trong truyện có sự đồng hiện của cả không gian hiện tại và không gian hồi tưởng. Không gian hiện tại là không gian căn phòng. Đó là phòng phụ khoa và phòng làm thuốc hay còn gọi là phòng vô sinh. Phòng phụ khoa là nơi mà cô gái bị gọi với cái tên “bệnh nhân cô-vắc”. Tại nơi này cô phải gánh chịu ánh mắt kinh ngạc, khinh bỉ của mọi người, bị gọi là “kẻ khốn nạn”, “đĩ bợm”, là “kẻ lả lơi” khi cô phải đến đây khám để phá thai: “- Ái à, thế mà mình lại cứ tưởng... - Vậy mà sáng nay mình còn bắt chuyện với nó kia đấy. - Trông người chả ai biết được nhỉ, rõ hiền lành tử tế mà khốn nạn, đĩ bợm. - Trời ơi, sao trời không có mắt? Người chính chuyên hẳn hoi thì trời không ban cho lấy một mụn, kẻ lả lơi thì lại mau mắn”. Phòng vô sinh là nơi cô gái phải thực hiện việc phá thai. Đó là không gian cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Khi hiện hữu trong đó, cô phải đối diện với chính mình, đối diện với nỗi cô đơn dai dẳng, đặc quánh. Cô kinh hãi “quay sang nhìn người nọ, người kia cầu cứu” nhưng “chẳng có ánh mắt nào thương hại” mà thay vào đó là thái độ khinh bỉ, lạnh lùng đến tàn nhẫn và những câu hỏi hết sức thô tục, sống sượng của các y tá, bác sĩ: “- Cởi váy, nằm lên bàn! - Cô thụ thai trong trường hợp nào? Ở đâu? Trong công viên? Trên nền cỏ hay cạnh bờ ao? Hay trên giường nhà anh ta?...”. Cô đau đớn, tủi nhục, cắn răng chịu đựng trong nỗi tuyệt vọng, buông xuôi và để rồi khi không chịu nổi sự sỉ nhục, cô uất ức chạy ra phía cửa, không nghĩ đến việc phải mặc váy nữa. Khi bình tĩnh quay trở lại phòng, cô lại phải chống chọi với nỗi đau đớn, sự giằng xé, trống trải trong tâm hồn bằng thế giới của kỷ niệm tuổi thơ, của tình yêu trong sáng, đầy say mê đầu đời,Thời gian quá khứ đã trở thành một chiều của không gian, tạo thành hồi tưởng, chất chứa bao nỗi niềm của cô gái. Thế giới kỷ niệm của tuổi thơ được thể hiện bằng không gian hồi tưởng. Đó là không gian đan xen giữa miền quê và thành phố đã được cô gái hồi tưởng trong nỗi cô đơn, tuyệt vọng đến tột cùng. Không gian hồi tưởng thứ nhất là một vùng quê êm ả, trù phú. Nơi đây cô đã có quãng thời gian tuổi thơ sống hạnh phúc trong tình yêu thương của cha mẹ, của bạn bè đồng trang lứa và những người xung quanh. Đó là những ngày tháng êm đềm của tuổi thơ với biết bao kỷ niệm đẹp: “Làng xóm vào vụ gặt, con theo các bạn ra sân đình. Vui ơi là vui”, “Lớp học của con ở trong cái đình to. Lớp con đông vui lắm, toàn các bạn quen”. Không gian hồi tưởng thứ hai là Bệnh viện Phụ sản. Chính vì mẹ làm việc ở Khoa Sản nên cô bé hay được mẹ dắt đến đây vào lúc cô bé “đang ở cái tuổi biết nhận thức và hay tò mò”. Thay vì ngồi yên một chỗ như lời mẹ dặn, cô bé lẻn chạy lung tung và đã “đứng sau mẹ khi mẹ đỡ em bé”. Và cũng chính vì vậy mà cô bé khám phá ra những điều của thế giới người lớn - “điều mà không cô giáo nào dạy con cả”. Cô biết em 52 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) bé đã được sinh ra từ “một cái ngách rất nhỏ, kín đáo, bí mật chứ không phải ở nách chui ra, chứ không phải ở bãi rác, khi mẹ đi qua con đã bíu chặt lấy, mẹ đem về nuôi”. Vì những điều trông thấy ở người lớn mà cô bé bắt đầu tập tành làm trò của người lớn “Khi chơi đồ hàng, búp bê, mẹ con, con biết vén áo lên. Trên ngực con có hai cái núm bé xíu. Con bẹo thịt ở ngực ra để ấn cái núm bé xíu ấy vào miệng búp bê thủ thỉ dịu dàng: "Con ngoan của mẹ, bú tí đi nào"”. Không gian hồi tưởng thứ ba là một căn nhà chật hẹp, nơi mà gia đình cô phải đến đây để tránh bom đạn khi chiến tranh xảy ra. Ở nơi này, cả nhà cô phải ngủ chung trên một chiếc giường “Mẹ và ba chúng con nằm một chiều. Cha nằm dưới chân” để rồi đến một đêm cô bé “bỗng mở mắt ra đúng lúc ấy, tò mò, con băn khoăn và con không hiểu... Sáng hôm sau thức giấc, con đã không trong trẻo như những ngày thường”. Cô cứ mang một câu hỏi trong đầu nhưng không dám hỏi người lớn mà chỉ dám hỏi những đứa bạn cùng tuổi “Ban đêm cha mẹ mày có cởi truồng không?”. Có thể nói, những không gian hồi tưởng hiện về trong đầu cô gái là nơi mà cô có những kỷ niệm đẹp đồng thời cũng là nơi đã hình thành ở cô những điều tò mò cần khám phá và cô đã tìm cách tự khám phá mà không có sự định hướng của mẹ, của người lớn. Đó cũng là một phần nguyên nhân cho sự lỡ làng, cho bi kịch mà cô phải trải qua. Như vậy, song hành cùng không gian căn phòng chật hẹp nơi bệnh viện, không gian hồi tưởng xuất hiện như một sự giải tỏa, một chốn bấu víu, nương tựa của cô gái khi cô mất thăng bằng trong cuộc sống hiện tại. Cặp không gian hiện tại và không gian hồi tưởng đã hỗ trợ cho nhau để cùng soi sáng số phận, thân phận và thế giới nội tâm của cô gái. 2.2.5. Motif “giải huyền thoại” Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban không xuất hiện nhiều motif như trong những truyện cổ dân gian mà chỉ xuất hiện một motif nổi bật là motif “tội ác và trừng phạt” nhưng mang hơi hướng hiện đại. Motif này có sức cảnh tỉnh lớn đối với con người hiện đại, góp phần tạo nên sự cân bằng, sự hài hòa cho cuộc sống thời đổi mới. Motif “tội ác và trừng phạt” được Y Ban thể hiện thông qua hai nhân vật đó là cô gái và bà mẹ của cô đồng thời cũng thể hiện qua nhân vật hai bà mẹ theo lời kể của cô gái khi cô gặp hai người này ở bệnh viện. Trước hết, chúng tôi xin nói về sự thể hiện của motif này qua nhân vật hai bà mẹ mà cô gái đã gặp trong bệnh viện và kể lại. Bà mẹ thứ nhất là “cô gái nhỏ 16 tuổi, cô vừa bước chân vào tuổi dậy thì đã vội làm mẹ. Cô là một bệnh nhân, bệnh nhân cô-vắc Ngay ngày hôm trước khi bị mang ra xét xử, cô còn ngồi đánh chuyền với các bạn”. Tội cô bé gây ra là có chửa, “mang một mầm sống trong cơ thể” khi mới 16 tuổi để cha mẹ và gia đình phải mang nỗi nhục và người phán xử, trừng phạt cô bé là bà mẹ của cô. Hình phạt mà cô phải chịu là bị mẹ bắt phá thai, bỏ đi núm ruột của mình, phải gánh chịu nỗi kinh hoàng, đau đớn về thể xác và tinh thần. Bà mẹ thứ hai cô gái gặp là bà mẹ của cô bé kia. Tội ác bà gây ra là giết chết đứa cháu ngoại trong bụng con gái khi nó chưa chào đời bằng cách bắt con gái đi phá thai bởi “bà đau nỗi đau nhục nhã với thiên hạ”. Những hành động, việc làm, lời nói của bà là những hành động, việc làm, lời nói của một con người máu lạnh khiến cho người đọc phải ghê sợ: “Bà mong muốn, thoát khỏi tội lỗi cho nhanh. Cái giống sao mà nó sống dai dẳng đến thế. Không tã lót gì cả để cho nó chết đi! Bà đặt nó vào một tấm xăng rồi bê ra một gốc cây”, “Bà cứ chờ. Nó cứ sống dai dẳng, bà khóc than thân phận và nguyền rủa đứa con tội lỗi của bà”. Hình phạt mà bà phải gánh chịu là cái án “giết người” bị xử bởi tòa án lương tâm. Khi chứng kiến nỗi đau của hai bà mẹ, một 53 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) già - một trẻ khiến cô gái nhớ đến nỗi đau của mình và của mẹ cô. Mặc dù, mỗi người đều mang trong mình nỗi đau riêng nhưng cả hai đều là những người gây ra tội ác và đều phải chịu sự trừng phạt. Tội của cô gái cũng giống như tội của cô bé mà cô đã gặp ở bệnh viện: không chồng mà chửa làm ảnh hưởng đến thanh danh của gia đình và danh dự của bản thân. Cô đã vi phạm vào điều mà đạo đức truyền thống bao đời nay cấm kị. Chưa dừng lại ở đó, tội của cô còn là sự yếu đuối khi không bảo vệ được kết quả của tình yêu, không bảo vệ được đứa con - núm ruột của mình mà đã giết chết nó. Người phán xử, trừng phạt cô gái là bà mẹ của cô và những người xung quanh. Hình phạt mà cô phải nhận là bị mẹ bắt phá thai, bỏ đi đứa con của mình, phải gánh chịu nỗi kinh hoàng, đau đớn về thể xác; chịu sự ghẻ lạnh, khinh bỉ, coi thường, sỉ nhục của những người xung quanh. Không chỉ dừng lại ở đó, nỗi đau đớn về mặt tinh thần sẽ còn theo và hành hạ cô đến suốt đời. Cả phần đời còn lại của cô sẽ phải sống trong chuỗi ngày dằn vặt vì tội lỗi của mình là đã tước đi sự sống của một sinh linh bé nhỏ chưa kịp chào đời. Mẹ cô gái là người phán xử, trừng phạt cô nhưng bà cũng chính là tội đồ đáng bị trừng phạt. Tội của bà là thiếu sự giáo dục, dạy dỗ con gái về những kĩ năng sống trước ngưỡng cửa tình yêu, ngưỡng cửa cuộc đời và tội tước đoạt đi niềm hạnh phúc của con khi cấm cản chuyện tình yêu của con gái. Đặc biệt là tội giết người khi bắt con gái đến bệnh viện phá thai, giết chết đứa cháu ngoại chưa kịp chào đời. Bà không chịu sự trừng trị của pháp luật nhưng phải chịu sự trừng phạt của “tòa án lương tâm”, chịu sự khinh miệt, coi thường của những người xung quanh. Ngoài ra, motif “tội ác và trừng phạt” còn thể hiện thấp thoáng qua lời nói của nhân vật đám đông trong bệnh viện khi cô gái đến đây phá thai: “Nếu các bà bảo ông trời không có mắt là sai. Ông trời có mắt. Ông ấy phạt bọn chúng ta đấy, phạt cả cô ta lẫn các người”. Từ xưa đến nay, trong tâm thức của người Việt, con cái là lộc trời cho. Những người bị vô sinh không thể có con thường bị nói là do ăn ở thất đức nên bị trời trừng phạt?! Những kẻ trời cho có con mà tước đi sự sống của đứa trẻ cũng là kẻ ác đáng bị trừng phạt. Motif “tội ác và trừng phạt” trong truyện gắn với tâm thức dân gian từ bao đời nay của ông cha ta nhưng đồng thời cũng mang đậm hơi thở của cuộc sống, đậm tính thời sự mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống hiện đại hôm nay. Sự trừng phạt dành cho các nhân vật bởi tội ác mà họ gây ra là bài học giáo dục sâu sắc cho biết bao cô gái trẻ và những bậc sinh thành, đặc biệt là những bà mẹ trong việc giáo dục con cái. 3. Kết luận Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban là truyện ngắn “giải huyền thoại” về tâm thức dân gian. Truyện không phải là sự “nhận thức lại” những giá trị tinh thần cũ mà là viết lại, “giải huyền thoại” nhằm đưa đến một cách nhìn nhận mới cho độc giả, mở rộng biên độ tầm nhìn về cuộc sống, về con người một cách đa diện, đa chiều. Nhan đề tác phẩm có sự đan xen giữa yếu tố dân gian và hiện đại. Từ cốt truyện, nhân vật, không - thời gian đến motif trong tác phẩm đều được đặt dưới cái nhìn “giải huyền thoại”, mang những tầng nghĩa mới. Không - thời gian trong tác phẩm mở ra đa chiều, là không - thời gian đồng hiện góp phần đắc lực trong việc thể hiện chiều sâu tâm lý nhân vật. Có thể nói, trong dòng chảy của văn hóa, văn học dân tộc, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban nói riêng và những tác phẩm mang cảm hứng “giải huyền thoại” nói chung đã góp phần xóa bỏ khoảng cách, rút ngắn khoảng cách giữa những thần tượng của quá khứ và con người của hôm nay; đưa quá khứ tiến lại gần hơn với cuộc sống hiện đại, giúp cho con người hiện đại hiểu rõ hơn về quá khứ để từ đó nhìn nhận lại bản thân và hướng đến lẽ sống cao đẹp./. 54 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) Tài liệu tham khảo [1]. Thanh Hằng (2014), “Nhà văn Y Ban: Tác phẩm đầu tiên đã định hình phong cách viết”, Tạp chí Công an nhân dân online, (11/08/2014), Nha-van-Y-Ban-Tac-pham-dau-tien-da-dinh-hinh-phong-cach-viet-268907/. [2]. Lê Quốc Hiếu (2017), “Khuynh hướng giải huyền thoại trong văn xuôi Việt Nam đương đại từ 1986 đến nay”, Tạp chí Sông Hương, (số 342), c7/n25898/Khuynh-huong-giai-huyen-thoai-trong-van-xuoi-Viet-Nam-duong-dai-tu-1986-den- nay.html. [3]. Trần Thị Lý, Nguyễn Văn Thuấn (2016), “Giải huyền thoại trong truyện ngắn huyền thoại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế , (số 04), tr. 46-53, http:// tckhgd.huce.vn/DOC_BAIBAO/34_528_TranThiLy,NguyenVanThuan_09_tran%20thi%20ly.pdf. [4]. E. M. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [5]. Nhiều tác giả (2007), Huyền thoại và văn học, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. [6]. Trần Viết Thiện (2010), “Một ngả rẽ thú vị của truyện ngắn Việt Nam sau 1986”, Tạp chí Văn học Việt online, (10/2010), https://sites.google.com/site/vanhocviet2013/van-chuong-thanh- van-luu-tru---cong-trinh-moi/-trn-vit-thin-mt-ng-r-th-v-ca-truyn-ngn-vit-nam-sau-1986. [7]. Phùng Văn Tửu (2007), “Phương thức huyền thoại trong sáng tạo văn học”, Nghiên cứu Văn học, (số 10), “DEMYSTIFICATION” SENTIMENT IN THE SHORT STORY “THE LETTER TO MOTHER AU CO” BY Y BAN Summary “Demystifi cation” is a literary trend contributing to advancing literary works towards post- modern sentiments by shattering the structural order and making a new way of reality perception. With “demystifi cation” sentiment, The Letter To Mother Au Co by Y Ban has excellently performed its literary mandate, successfully refl ecting “hot” social issues, awakening the reader, and conveying meaningful messages about life. Thus, it affi rms a new outlook, a new voice that Y Ban has brought to the modern Vietnamese Women's Literature. Keywords: “Demystifi cation”, Y Ban, The Letter To Mother Au Co. Ngày nhận bài: 11/4/2019; Ngày nhận lại: 18/4/2019; Ngày duyệt đăng: 02/5/2019.
File đính kèm:
- cam_hung_giai_huyen_thoai_trong_truyen_ngan_buc_thu_gui_me_a.pdf