Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc)

Bài báo này tập trung nghiên cứu về biến thể của thành ngữ trong quá trình thực hiện chức năng giao

tiếp ở phương diện cấu trúc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi tham gia vào quá trình giao tiếp, thành

ngữ có thể biến đổi ở những mức độ và dạng thức khác nhau. Có hai cấp độ biến thể cơ bản là ngữ âm

và cấu trúc. Ở cấp độ ngữ âm, biến thể thành ngữ dựa trên hiện tượng gần âm, chệch âm, hoặc thay đổi

thành tố song giữ nguyên cấu trúc của thành ngữ gốc. Ở cấp độ cấu trúc, thành ngữ gốc có thể được mở

rộng hoặc thu hẹp quy mô và số lượng thành tố trong thành ngữ biến thể

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 1

Trang 1

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 2

Trang 2

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 3

Trang 3

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 4

Trang 4

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 5

Trang 5

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 6

Trang 6

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 7

Trang 7

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 8

Trang 8

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc) trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 9220
Bạn đang xem tài liệu "Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc)

Biến thể thành ngữ trong hành chức (xét trên phương diện cấu trúc)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 74 (02/2021) No. 74 (02/2021) 
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:  
31 
BIẾN THỂ THÀNH NGỮ TRONG HÀNH CHỨC 
(XÉT TRÊN PHƯƠNG DIỆN CẤU TRÚC) 
Idiom variations in communicative functions in terms of structures 
TS. Trần Thị Lam Thủy(1), Ngô Hải Quân(2) 
(1)Trường Đại học Sài Gòn 
(2)Học viên cao học Trường Đại học Sài Gòn 
TÓM TẮT 
Bài báo này tập trung nghiên cứu về biến thể của thành ngữ trong quá trình thực hiện chức năng giao 
tiếp ở phương diện cấu trúc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi tham gia vào quá trình giao tiếp, thành 
ngữ có thể biến đổi ở những mức độ và dạng thức khác nhau. Có hai cấp độ biến thể cơ bản là ngữ âm 
và cấu trúc. Ở cấp độ ngữ âm, biến thể thành ngữ dựa trên hiện tượng gần âm, chệch âm, hoặc thay đổi 
thành tố song giữ nguyên cấu trúc của thành ngữ gốc. Ở cấp độ cấu trúc, thành ngữ gốc có thể được mở 
rộng hoặc thu hẹp quy mô và số lượng thành tố trong thành ngữ biến thể. 
Từ khóa: biến thể thành ngữ, cấu trúc, thành ngữ biến thể, thành ngữ gốc 
ABTRACT 
This article focuses on the variations of idiomatic expressions in the process of implementing 
communicative functions in terms of structures. Research results show that, when participating in the 
communication, idioms can be changed in different levels and forms. There are two basic levels: 
phonetics and syntax. At the phonetic level, idiom variations are based on near-homophones, 
phonological deviations, or elemental changes that still preserve the structures of the original idioms. At 
the syntactic level, the original idioms can be expanded or narrowed down to scales as well as numbers 
of elements in variable idioms. 
Keywords: idiom variation, structures, variable idioms, original idioms 
1. Đặt vấn đề 
Thành ngữ vốn được xem là dạng cụm 
từ cố định, có cấu trúc ngữ pháp tương đối 
ổn định. Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, 
thành ngữ tiếng Việt đã có những biến đổi 
về cấu trúc vô cùng phong phú, đồng thời 
tạo ra những sắc thái ngữ nghĩa mới giúp 
người sử dụng đạt được mục đích giao tiếp 
hiệu quả. 
Để thấy được biến đổi cấu trúc của 
thành ngữ tiếng Việt trong hành chức, chúng 
tôi đã chọn Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt 
Nam trong hành chức của tác giả Đỗ Thị 
Kim Liên làm tài liệu khảo sát. Đây là cuốn 
từ điển thống kê thành ngữ Việt Nam được 
sử dụng trong các tác phẩm văn học của một 
số nhà văn như Ma Văn Kháng, Nam Cao, 
Vũ Bằng, Nguyên Hồng, v.v. Chính vì cuốn 
từ điển thống kê thành ngữ trong các tác 
phẩm văn học nên bảo đảm được tính hành 
chức của thành ngữ, tính hệ thống và chặt 
chẽ vì thế cũng rất cao. 
Email: ttlthuy@sgu.edu.vn 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 
32 
Chúng tôi đã khảo sát toàn bộ cuốn từ 
điển của tác giả Đỗ Thị Kim Liên, thống kê 
tất cả các đơn vị là thành ngữ. Sau đó, đối 
chiếu với thành ngữ trong Từ điển thành 
ngữ tiếng Việt của tác giả Nguyễn Lân để 
xác minh cấu trúc gốc của thành ngữ. Từ đó 
tìm ra những thành ngữ có sự biến đổi về 
mặt cấu trúc trong quá trình hành chức. 
Thông qua thống kê và so sánh, chúng tôi 
sắp xếp các thành ngữ có biến đổi về mặt 
cấu trúc thành các loại biến đổi khác nhau 
để tìm ra những đặc điểm, nguyên tắc và 
nguyên nhân biến đổi của các thành ngữ ấy. 
2. Nguyên tắc và kết quả khảo sát 
Trên thực tế số lượng thành ngữ biến thể 
ở Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam trong 
hành chức của tác giả Đỗ Thị Kim Liên rất 
phong phú và đa dạng. Tuy nhiên căn cứ vào 
các dấu hiệu ngôn ngữ, chúng tôi cố gắng 
phân loại một cách chính xác nhất có thể 
theo các nguyên tắc: 
- Khảo sát trực tiếp trên sách từ điển – 
đảm bảo tính chính xác trung thực; 
- Khảo sát theo trình tự sắp xếp trong 
sách từ đầu đến cuối; 
- Kê khai mỗi đơn vị thành ngữ một 
lần duy nhất – đảm bảo tính chính xác, 
tránh sự lặp đi lặp lại; 
- Thống kê theo thành ngữ gốc và sắp 
xếp theo thứ tự bảng chữ cái; 
- Sắp xếp thành ngữ vào các nhóm 
biến thể theo các đặc điểm giống nhau về 
cấu trúc hoặc về ngữ nghĩa. 
Dưới đây là bảng hệ thống các cấp độ 
và trường hợp biến thể của thành ngữ trong 
hành chức qua khảo sát: 
Bảng 1. Tổng hợp các dạng biến thể thành ngữ về mặt cấu trúc 
TT Cấp độ Dạng biến thể Số lượng Tỉ lệ (%) 
1 
Ngữ âm và 
thành tố 
1) Biến thể gần âm, chệch âm 43 3.87 
2) Biến thể thay đổi thành tố 269 24.2 
2 Cấu trúc 
1) Biến thể mở rộng 
2) Biến thể thu hẹp 
3) Tách thành ngữ thành nhiều vế 
4) Thay đổi trật tự các thành tố 
657 
63 
41 
38 
59.13 
5.67 
3.69 
3.44 
 Cộng: 1111 100.0 
Qua khảo sát, chúng tôi đã thống kê 
được 1111 đơn vị thành ngữ có biến thể. 
Sự phân chia của chúng tôi có thể còn 
mang tính tương đối song bước đầu đã cho 
thấy cấu trúc của biến thể thành ngữ trong 
hành chức là rất đa dạng, diễn ra ở nhiều 
cấp độ khác nhau. 
3. Biến thể cấu trúc của thành ngữ 
tiếng Việt trong hành chức 
3.1. Biến thể thành ngữ ở cấp độ ngữ 
âm và thành tố 
3.1.1. Biến thể ngữ âm của thành ngữ 
Biến thể ngữ âm của thành ngữ thường 
chỉ diễn ra trên một hoặc hai thành tố của 
thành ngữ. Đây là hiện tượng chệch âm, trại 
âm hoặc gần âm. Tuy nhiên ý nghĩa và cấu 
trúc của thành ngữ hoàn toàn không có sự 
thay đổi. Tuy nhiên, giữa thành ngữ gốc và 
TRẦN THỊ LAM THỦY - NGÔ HẢI QUÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
33 
thành ngữ biến thể có thể khác nhau về sắc 
thái phong cách do sắc thái phong cách của 
biến thể ngữ âm của từ được thay thế mang 
l ...  ăn ngon ngủ 
kĩ. No và ngon đều là từ đơn tiết và đều là 
tính từ. Vì vậy cấu trúc của thành ngữ 
biến thể hoàn toàn không làm thay đổi so 
với thành ngữ gốc. Sau khi đã thay thế 
thành tố mới cho thành ngữ thì ta vẫn có 
cấu trúc thành ngữ như ban đầu: [động từ 
+ tính từ + động từ + tính từ] và quy mô 
(số lượng thành tố) của thành ngữ cũng 
không thay đổi. 
Mặt khác, xem xét các biến thể thành 
ngữ loại này, ta cũng nhận thấy, việc thay 
thế thành tố trong thành ngữ gốc thông 
thường chỉ xảy ra ở thành tố phụ chứ 
không xảy ra ở thành tố chính. Chẳng hạn, 
trong thành ngữ: ăn bữa nay, lo bữa mai, ý 
nghĩa cơ bản của thành ngữ là sự việc ăn. 
Thế nên ăn không thể thay đổi được vì nếu 
thay đổi từ ăn sẽ chắc chắn làm thay đổi 
nghĩa cơ bản của thành ngữ. 
3.2. Biến đổi cấu trúc thành ngữ 
3.2.1. Thay đổi trật tự thành tố 
TRẦN THỊ LAM THỦY - NGÔ HẢI QUÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
35 
Thay đổi trật tự thành tố trong thành ngữ 
là hình thức đảo vị trí của các thành tố trong 
thành ngữ nhằm nhấn mạnh yếu tố nào đó 
trong thành ngữ mới. Qua khảo sát, chúng tôi 
có các dạng cấu trúc được tạo nên từ việc thay 
đổi vị trí các thành tố trong thành ngữ như sau: 
Bảng 4. Tổng hợp các dạng cấu trúc thành ngữ biến thể thay đổi trật tự các thành tố 
STT Cấu trúc gốc 
Cấu trúc 
biến đổi 
Tỉ lệ Ví dụ 
1 AxBy ByAx 29/38 ý hợp tâm đầu  tâm đầu ý hiệp 
2 AxBy AyBx 4/38 nay đây mai đó  nay đó mai đây 
3 AxBy xABy 2/38 đổ dầu vào lửa  dầu đổ vào lửa 
4 AxBy yxAB 1/38 trẻ người non dạ  non người trẻ dạ 
5 AxBy ABxy 1/38 chăn bông gối nệm  chăn gối nệm bông 
6 AxBy AxyB 1/38 nặng như đá đeo  nặng như đeo đá 
Tổng hợp ban đầu cho chúng tôi 38 
trường hợp thay đổi vị trí thành tố trong 
thành ngữ, đưa về 06 dạng cấu trúc cơ 
bản. Trên thực tế, đây là loại thành ngữ có 
quy mô và sự ổn định nhất về mặt thành 
tố. Nghĩa là số lượng các thành tố trong 
thành ngữ không có sự thay đổi trong các 
biến thể khi hành chức. Các yếu tố từ ngữ 
trong loại thành ngữ này có tính chất khái 
quát rất cao. Vì vậy, dù có thay đổi trật tự 
các thành tố theo bất cứ cấu trúc nào thì 
nghĩa của thành ngữ cũng không thay đổi. 
Việc thay đổi trật tự các thành tố trong 
thành ngữ một cách dễ dàng giúp cho 
thành ngữ trở nên linh hoạt và phù hợp 
hơn với nhiều văn cảnh. Đồng thời nó 
giúp người sử dụng có thể cố tình tạo ra 
sự khác biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ 
của mình. 
3.2.2. Mở rộng cấu trúc thành ngữ 
Mở rộng thành ngữ là một dạng biến 
thể phổ biến của thành ngữ trong hành 
chức. Đây là cách thức thêm yếu tố (từ, 
cụm từ) và thành ngữ gốc. Qua khảo sát, 
chúng tôi thu được 629 thành ngữ trên tổng 
số 1070 thành ngữ chiếm gần 60% số 
thành ngữ có biến thể. Các thành ngữ biến 
đổi theo cách thức mở rộng cấu trúc cũng 
có những dạng khác nhau. Về cơ bản, chúng 
tôi nhận thấy có hai dạng phổ biến. 
3.2.2.1. Thêm một từ hoặc một số từ mới 
Ví dụ: khuôn mặt trái xoan (thành ngữ 
gốc: mặt trái xoan, có nghĩa: người phụ nữ 
có khuôn mặt thon thả, như hình quả 
xoan); khỏe như con trâu (thành ngữ gốc: 
khỏe như trâu, có nghĩa: rất to khỏe, làm 
việc hùng hục như trâu); mắt như hai cái 
hạt nhãn (thành ngữ gốc: mắt hạt nhãn, có 
nghĩa: hai mắt tròn, đen nháy); mất cả ăn 
cả ngủ (thành ngữ gốc: mất ăn mất ngủ, có 
nghĩa: lo lắng, suy nghĩ nhiều, không ăn 
uống gì được). 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 
36 
Bảng 5. Bảng phân tích tổng quát trường hợp thêm thành tố mới trong thành ngữ gốc 
STT Thành ngữ gốc 
Thành ngữ 
biến thể 
Loại từ và vị trí thêm So sánh cấu trúc 
1 
an cư lạc 
nghiệp 
an cư mới lạc 
nghiệp 
“mới”  chỉ kết quả 
 giới từ thêm vào 
giữa hai vế của thành 
ngữ 
Thay đổi cấu trúc so với 
ban đầu. Tăng số âm tiết 
trong thành ngữ biến thể. 
Làm rõ cấu trúc chỉ kết 
quả “A thì “mới” B”. 
2 
kẻ ăn ốc, người 
đổ vỏ 
ăn ốc đâu mà 
đổ vỏ? 
“đâu mà”  xen giữa 
2 vế của thành ngữ 
Thay đổi từ cấu trúc 
khẳng định sang cấu trúc 
phủ định. 
3 
ăn thủng nồi 
trôi rế 
ăn thì thủng 
nồi trôi rế 
“thì”  giới từ thêm 
vào ngay sau động từ 
chính của thành ngữ 
Thay đổi cấu trúc và kết 
cấu ngữ pháp, nhấn 
mạnh động từ đứng đầu 
thành ngữ. 
Qua Bảng 5, ta thấy nhóm biến thể này 
chủ yếu thêm các hư từ. Do có sự gia tăng 
số lượng thành tố nên nhóm biến thể này 
làm thay đổi cấu trúc tổng thể và liên kết 
ngữ pháp trong thành ngữ, tất nhiên có tạo 
ra những sự thay đổi về sắc thái ý nghĩa. 
Các từ loại được thêm vào trong nhóm 
biến thể này chủ yếu là các hư từ, các trợ từ 
tình thái làm bổ nghĩa cho các danh từ, 
động từ hay/ hoặc tính từ chính. 
3.2.2.2. Biến thể chêm xen thành tố/ 
từ/ cụm từ mới trong thành ngữ gốc 
Đây là những thành ngữ biến thể theo 
cách chêm xen từ ngữ mới vào cấu trúc 
thành ngữ gốc. Dạng biến thể này có số 
lượng không nhiều song lại mang lại cho 
thành ngữ mới những tính năng và ý nghĩa 
rất thiết thực. Nếu thêm thành tố mới vào 
thành ngữ không bị quy định bởi vị trí 
thành tố được thêm vào thì chêm xen thành 
tố lại có vị trí giữa thành ngữ. Vì thế, yếu 
tố được chêm xen trở thành trung tâm và 
có nghĩa nhấn mạnh cho thành ngữ mới. 
Bảng 6. Biến thể chêm xen thành tố mới trong thành ngữ gốc 
TT Thành ngữ gốc Thành ngữ biến thể Từ ngữ được chêm xen 
1 ba hồn chín vía 
ba hồn còn đó nhưng chín 
phách không đâu 
chêm xen những cụm từ có 
nghĩa tình thái 
2 bắt cá hai tay hai tay bắt được hai con cá chêm xen cụm từ bổ nghĩa 
3 cá lớn nuốt cá bé cá bé phải để cá lớn nuốt chêm xen cụm từ chỉ tình thái 
4 
vừa đánh trống vừa 
ăn cướp 
đánh trống để cho nó ăn 
cướp 
chêm cụm giới từ 
5 đỏ mặt tía tai đỏ tía mặt tía tai xen thêm tính từ 
TRẦN THỊ LAM THỦY - NGÔ HẢI QUÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
37 
Chúng tôi thấy có một số đặc điểm của 
thành ngữ biến thể bằng hình thức chêm 
xen như sau: 
Thứ nhất, từ, ngữ được dùng để chêm 
xen thường là những tính từ, có tác dụng 
bổ nghĩa cho danh từ hoặc cụm danh từ 
trong thành ngữ gốc. Ngoài ra còn chêm 
xen, danh từ chỉ lượng, danh từ chỉ đơn vị, 
danh từ chỉ loại có tính chất cụ thể hóa cụm 
danh từ hoặc danh từ chủ ngữ và đồng thời 
có ý nhấn mạnh tính cụ thể của sự vật, sự 
việc được nói đến trong thành ngữ. Bên 
cạnh đó, cũng có nhiều thành ngữ chêm 
xem những từ, ngữ chỉ tình thái, thể hiện 
thái độ, cách đánh giá của người nói về sự 
vật, sự việc trong văn bản. 
Nhìn chung, những từ, cụm từ được 
thêm vào thành ngữ gốc để tạo ra biến thể 
rất phong phú, đa dạng. Các từ ngữ thêm 
vào đôi khi là chủ thể phát ngôn như “tôi” 
để nhấn mạnh đến sự tác động của sự việc 
hoặc cụ thể hóa chủ thể của sự việc được 
nhắc đến trong thành ngữ. 
Thứ hai, biến thể thành ngữ dạng này 
hầu hết có sự thay đổi về cấu trúc. Có hai 
trường hợp thay đổi liên quan đến cấu trúc: 
Một là, thay đổi quy mô nhưng không 
phá vỡ cấu trúc cơ bản hai vế của thành ngữ. 
Hai là, thay đổi quy mô đồng thời phá 
vỡ cấu trúc, phá vỡ sự cân bằng hai vế của 
thành ngữ. 
3.2.3. Tách thành ngữ thành nhiều vế 
Bảng 7. Tổng hợp các trường hợp tách thành ngữ thành nhiều vế 
TT 
Cơ sở tách thành ngữ 
trong biến thể 
Ví dụ 
Thành ngữ gốc Thành ngữ biến thể 
1 
Tách thành ngữ thành hai vế, 
thêm chủ thể vào để cụ thể hóa 
sự việc 
kẻ ăn ốc người đổ vỏ ăn ốc để anh phải đổ vỏ 
2 
Giữ lại vế đầu, phát triển thành 
một thành ngữ mới 
ăn vụng khéo chùi mép 
ăn vụng còn đánh trống 
khua chiêng 
3 
Cả thành ngữ gốc trở thành 
một vế trong thành ngữ mới 
bám lấy phao 
như người rơi xuống nước 
bám lấy một cái phao 
4 
Tạo cấu trúc lặp để nhấn mạnh 
ý cần diễn tả 
bán trôn nuôi miệng 
bán miệng dưới nuôi 
miệng trên 
Ở dạng biến thể này, các thành ngữ 
gốc được sử dụng hết sức linh hoạt. Người 
dùng có thể chỉ lấy một vế của thành ngữ 
rồi thêm những từ ngữ theo ý riêng của 
mình để tạo ra những nét nghĩa mới. Về 
mặt cấu trúc, có thành ngữ được tăng lên 
về quy mô, phá vỡ cấu trúc ban đầu của 
thành ngữ gốc; có thành ngữ (số ít) lại 
giảm về quy mô - dung lượng - so với 
thành ngữ gốc. Sự tăng lên hay giảm đi về 
quy mô cũng không hề bị quy định, ràng 
buộc bởi bất cứ quy tắc, quy định nào. 
Có thể nói việc sử dụng các vế, các 
phần của thành ngữ để tạo ra các phát ngôn 
mới đã đem đến một khả năng vô cùng linh 
hoạt cho hành chức của thành ngữ. 
3.2.4. Thu hẹp cấu trúc thành ngữ 
Thu hẹp thành ngữ ở đây hiểu theo 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 
38 
nghĩa là sự cắt giảm các yếu tố trong cấu 
trúc tổng thể của thành ngữ gốc. Qua 
khảo sát, thống kê, chúng tôi có bảng tổng 
hợp sau: 
Bảng 8. Tổng hợp các trường hợp biến thể thu hẹp cấu trúc thành ngữ 
TT Thành ngữ gốc Thành ngữ biến thể Yếu tố bị lược bỏ 
1 ba que xỏ lá ba que Vế sau của thành ngữ 
2 
cà cuống chết đến đít vẫn còn 
cay 
cà cuống chết vẫn còn cay Thành phần bổ ngữ 
3 cá đã cắn câu cá cắn câu Phụ từ chỉ thời gian 
4 cá nằm trên thớt đặt đầu lên thớt Danh từ chính 
5 cãi chày cãi cối cãi chày Vế sau của thành ngữ 
Có thể thấy, có khá nhiều trường hợp 
thành ngữ gốc được rút gọn lại trong ngữ 
cảnh sử dụng. Chẳng hạn: treo đầu dê bán 
thịt chó  treo dê bán chó, (ví dụ: “Hai 
vầng nhật nguyệt chói lòa đâu dung lũ treo 
dê bán chó” - Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế 
nghĩa sĩ Cần Giuộc); hoặc: 
lợn lành chữa thành lợn què  lợn 
lành thành lợn què; 
lúng búng như ngậm hột thị  như 
ngậm hột thị; 
ba bảy hai mươi mốt ngày  ba bảy 
hăm mốt ngày; 
Những yếu tố bị lược đi thường là 
hư từ, không thay đổi ý nghĩa của thành 
ngữ gốc. Đôi khi là cách nói rút gọn 
mang tính vùng miền - phương ngữ. Hai 
mươi mốt ngày (cách nói trong ngôn ngữ 
phổ thông); hăm mốt ngày (các nói rút 
gọn hăm có nghĩa là hai mươi, cũng như 
băm là ba mươi - băm mốt). Cách thu 
hẹp thành ngữ như vậy tạo cho thành 
ngữ có cấu trúc ngắn gọn, súc tích, dễ 
nói, dễ nhớ và mang sắc thái dân gian 
nhiều hơn. 
Các thành tố thường được rút gọn của 
thành ngữ có thể là vị ngữ, bổ ngữ, trạng 
ngữ, v.v. Dưới đây là bảng tổng hợp các 
yếu tố thường được tỉnh lược trong thành 
ngữ biến thể: 
Bảng 9. Tổng hợp các yếu tố thường được tỉnh lược trong thành ngữ biến thể 
TT Yếu tố tỉnh lược 
Ví dụ 
Thành ngữ gốc Thành ngữ biến thể 
1 Động từ/ ngữ chạy như ma đuổi như ma đuổi 
2 Tính từ/ ngữ đẹp như tiên như tiên 
3 Giới từ/ ngữ đen như thui đen thui 
4 Danh từ/ ngữ đầu đội trời chân đạp đất đội trời đạp đất 
TRẦN THỊ LAM THỦY - NGÔ HẢI QUÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
39 
Có thể thấy, thành ngữ biến thể đã 
được thu hẹp quy mô và cấu trúc hơn so 
với thành ngữ gốc. Điều này cho phép 
người sử dụng có thể vận dụng trong nhiều 
tình huống giao tiếp với nhiều ý nghĩa khác 
nhau. 
4. Ý nghĩa của việc tạo biến thể 
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy biến 
thể của thành ngữ tiếng Việt trong hành 
chức rất phong phú và đa dạng. Đây là một 
hiện tượng phổ biến đã diễn ra trong quá 
trình sử dụng thành ngữ của người Việt. Có 
lẽ, cũng như bất cứ yếu tố nào trong hệ 
thống ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt 
nói riêng, việc các yếu tố ngôn ngữ liên tục 
có sự biến đổi là một quy luật khách quan 
của ngôn ngữ học. 
Xét đến ý nghĩa của việc tạo biến thể 
thành ngữ về mặt cấu trúc phải đặt trong 
các văn cảnh cụ thể. Qua quá trình khảo sát 
thành ngữ trong cuốn Từ điển thành ngữ, 
tục ngữ Việt Nam trong hành chức của tác 
giả Đỗ Thị Kim Liên, chúng tôi nhận thấy 
rất rõ tính linh động của thành ngữ trong 
hành chức. Trong sử dụng ngôn ngữ, để đạt 
hiệu quả giao tiếp cao nhất, người sử dụng 
có thể thay đổi cấu trúc thành ngữ theo ý 
của mình. Đó thực sự là những sáng tạo 
cho thấy các giá trị tiềm ẩn phong phú và 
đa dạng của thành ngữ. Có thể thấy những 
ý nghĩa chủ yếu sau đây của thành ngữ 
biến thể về cấu trúc: 
1) Tạo thêm tính cân đối cho thành 
ngữ; 
2) Tạo thêm nhịp điệu cho thành ngữ; 
3) Tạo ra mối liên kết về ngữ âm hoặc 
ngữ pháp cho thành ngữ trong văn cảnh; 
4) Thêm các yếu tố bổ nghĩa cho thành 
ngữ gốc; 
5) Làm cho thành ngữ trở nên ngắn 
gọn súc tích hơn. 
Trong thực tế các thành ngữ biến thể 
sẽ thường không xuất hiện ở một hình thức 
duy nhất. Nói cách khác, một thành ngữ có 
thể có nhiều dạng thức khác nhau. Điều 
này cho phép thành ngữ tham gia vào nhiều 
ngữ cảnh giao tiếp khác nhau trong đời 
sống giao tiếp của người Việt; giúp thành 
ngữ thực hiện khả năng hành chức một 
cách linh hoạt, đa dạng và phong phú. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Nguyễn Đình Hiền. (2018). Tìm hiểu thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt dưới góc nhìn của quy 
luật vận động và phát triển. Tạp chí Nghiên cứu nước ngoài, tập 34, số 1 (2018), 
tr.91-105. 
Nguyễn Lân. (1989). Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa. 
Đỗ Thị Kim Liên. (2015). Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam trong hành chức. Hà Nội: 
NXB Khoa học Xã hội. 
Ngày nhận bài: 28/12/2020 Biên tập xong: 15/02/2021 Duyệt đăng: 20/02/2021 

File đính kèm:

  • pdfbien_the_thanh_ngu_trong_hanh_chuc_xet_tren_phuong_dien_cau.pdf