Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt

Dưới ánh sáng của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ được xem là một trong những hình

thức tư duy ý niệm, phản ánh lối tư duy và ý niệm hóa của con người về thế giới xung quanh

thông qua các biểu thức ngôn ngữ, một cơ chế nhận thức mà thông qua nó, logic của những

khái niệm có tính trừu tượng được thay thế bằng logic của những khái niệm có tính cụ thể

hơn. Trong phạm vi bài báo khoa học này, chúng tôi hướng sự quan tâm vào ẩn dụ ý niệm

màu sắc, trong đó màu xanh là một ý niệm nguồn ánh xạ sang miền đích khác nhau được

người Việt tri nhận.

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 1

Trang 1

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 2

Trang 2

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 3

Trang 3

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 4

Trang 4

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 5

Trang 5

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 6

Trang 6

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 8600
Bạn đang xem tài liệu "Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt

Ẩn dụ ý niệm “xanh” Trong Tiếng Việt
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 26 (2021), 17-23 17 
ẨN DỤ Ý NIỆM “XANH” TRONG TIẾNG VIỆT 
Nguyễn Thị Liên* 
Trường Đại học Phú Yên 
Ngày nhận bài: 29/12/2020; Ngày nhận đăng: 20/01/2021 
Tóm tắt 
Dưới ánh sáng của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ được xem là một trong những hình 
thức tư duy ý niệm, phản ánh lối tư duy và ý niệm hóa của con người về thế giới xung quanh 
thông qua các biểu thức ngôn ngữ, một cơ chế nhận thức mà thông qua nó, logic của những 
khái niệm có tính trừu tượng được thay thế bằng logic của những khái niệm có tính cụ thể 
hơn. Trong phạm vi bài báo khoa học này, chúng tôi hướng sự quan tâm vào ẩn dụ ý niệm 
màu sắc, trong đó màu xanh là một ý niệm nguồn ánh xạ sang miền đích khác nhau được 
người Việt tri nhận. 
Từ khóa: ẩn dụ ý niệm, biểu thức ngôn ngữ, màu xanh, miền nguồn, miền đích 
1. Mở đầu 
Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ ghi 
nhận các hướng tiếp cận ẩn dụ từ nhiều góc 
độ khác nhau. Từ góc độ ngôn ngữ học tri 
nhận, ẩn dụ được nhìn nhận là sự ánh xạ tinh 
thần, phản ánh phương thức tư duy sáng tạo 
của con người. “Ẩn dụ thâm nhập khắp nơi 
trong cuộc sống hàng ngày, không chỉ trong 
ngôn ngữ mà còn cả trong tư duy và hành 
động” (G. Lakoff, M. Johnon, 1980, tr.3). 
Theo đó, thông qua phương thức ẩn dụ, con 
người nhận biết thế giới vật chất và tinh 
thần. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học tri 
nhận đã chỉ ra cơ chế tri nhận của ẩn dụ ý 
niệm gồm miền nguồn và miền đích, là sự 
chiếu xạ giữa một miền nguồn có tính vật 
chất, cụ thể lên một miền đích có tính trừu 
tượng. Về bản chất “ẩn dụ cho phép chúng 
ta hiểu đối tượng tương đối trừu tượng hoặc 
đối tượng phi cấu trúc hóa thông qua đối 
tượng cụ thể hơn hoặc ít ra thông qua đối 
tượng đã được cấu trúc hóa cao hơn” (Trần 
Văn Cơ, 2007, tr.71). 
Ứng dụng lý thuyết ngôn ngữ học tri 
____________________________ 
* Email: ngoclienpy@gmail.com 
nhận vào thực tiễn tiếng Việt, các nhà ngôn 
ngữ học tri nhận đặc biệt quan tâm làm rõ 
cấu trúc của ẩn dụ ý niệm với các miền 
nguồn khác nhau. Trong đó, ẩn dụ ý niệm 
với miền nguồn màu sắc được xem là một 
phương tiện hữu hiệu để con người nhận 
thức về thế giới xung quanh và khám phá 
chính bản thân mình trên nhiều phương diện 
khác nhau. Tri thức về màu sắc, mảng hiện 
thực độc đáo được nhận thức, giải mã cụ thể, 
tinh tế trở thành cơ sở cho sự tri nhận các ý 
niệm phức tạp trong đời sống tinh thần 
người Việt. Có thể tìm thấy những bằng 
chứng xác đáng cho thấy màu sắc được sử 
dụng như một miền nguồn (source domain) 
để khám phá đặc điểm, thuộc tính của một 
miền đích (target domain) mang tính trừu 
tượng, nhằm biểu hiện và hình thành những 
ý niệm mới, mở ra sự hiểu biết những cơ sở 
của tư duy và các quá trình nhận thức của 
người Việt về thế giới. Trên thực tế, những 
biểu thức ngôn ngữ gắn với màu xanh kiểu: 
tình vẫn xanh rời rợi, đời xanh lại hàng cây, 
hi vọng xanh tươi,  ẩn chứa ý niệm XANH 
xuất hiện khá phổ biến trong tiếng Việt. 
Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi tập 
18 Journal of Science – Phu Yen University, No.26 (2021), 17-23 
trung khảo sát ẩn dụ ý niệm XANH, hi vọng 
giúp người đọc có cái nhìn cụ thể về cấu trúc 
của ẩn dụ ý niệm XANH, góp phần hoàn 
thiện bức tranh nghiên cứu chung về ẩn dụ ý 
niệm màu sắc trong tiếng Việt. 
2. Mô hình ẩn dụ tri nhận của ẩn dụ ý 
niệm “xanh” trong tiếng Việt 
2.1. Ý niệm XANH trong tiếng Việt 
 Nằm trong hệ thống từ chỉ màu cơ 
bản trong tiếng Việt, “xanh” xuất hiện phổ 
biến trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày 
cũng như trong tác phẩm văn chương. Từ 
điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 1997, tr.1102] 
định nghĩa “xanh” với các nét nghĩa cụ thể: 
1. Có màu như màu của lá cây, của nước 
biển (Lũy tre xanh, non xanh nước biếc, da 
xanh như tàu lá, thức ăn xanh cho gia súc); 
2. (Quả cây) chưa chín, màu đang còn xanh 
(chuối xanh); 3. (Người, tuổi đời) còn trẻ 
(mái đầu xanh, tuổi xanh). 
 Theo Trần Văn Cơ (2011), ý niệm có 
cấu trúc trường – chức năng được tổ chức 
theo mô hình trung tâm và ngoại vi. Khái 
niệm hạt nhân nằm ở vị trí trung tâm của 
trường. Bao bọc, chi phối khái niệm trung 
tâm, vốn mang tính phổ quát, là hàng loạt 
các yếu tố ngoại biên. Theo đó, khảo sát 
nghĩa của xanh trong từ điển, chúng tôi nhận 
thấy rằng, trong cấu trúc nghĩa của “xanh” 
nét nghĩa thứ nhất, có màu, gắn liền với vật 
đại diện tiêu biểu là nước và lá cây là ý 
nghĩa tiêu biểu tạo thành khái niệm trung 
tâm của xanh. Nét nghĩa cơ bản như trên 
mang tính ổn định trong nhận thức chung 
của người Việt. Ngoài ra, thực tế sử dụng 
tiếng Việt ghi nhận các thuộc tính “màu” 
khác nhau của “lá cây” hoặc “nước biển” với 
vô vàn sắc độ khác nhau được biểu đạt bởi 
một lượng biểu thức ngôn ngữ phong phú: 
xanh biếc, xanh ngắt, xanh om,... Ở nét 
nghĩa thứ hai, và ba khái niệm “xanh” gắn 
liền với đặc trưng của sự vật hiện tượng theo 
các chiều hướng khác nhau: tích cực hoặc 
tiêu cực. Có nghĩa là khi nói đến “xanh”, 
những thành tố này đồng thời được kích hoạt 
và xuất hiện trong tâm trí kéo theo những 
liên tưởng tương ứng. Chẳng hạn, thành tố 
“tích cực”, “tiêu cực” kích hoạt sẽ kéo theo 
những liên tưởng được biểu trưng bởi những 
yếu tố chỉ sắc độ, độ sáng: biếc, lè, non, vv 
... Trong tiếng Việt, vật được xem là đại diện 
cho đặc trưng “chưa chín” không nhất thiết 
cùng phạm trù. Cụ thể, trong một số trường 
hợp, nét nghĩa “màu đang còn xanh” được 
áp dụng cho sự vật, hiện tượng mới, vốn 
không phải là sự vật thường xuyên mang đặc 
trưng điển hình nhất của tính chất màu như: 
em hãy còn xanh, tôi xanh non uống cạn lời 
xanh non ,... Những thuộc tính cơ bản của ý 
niệm màu sắc như sắc độ, độ sáng, tính 
nhiệt, giá trị thẩm mĩ được tri nhận của màu 
trở thành cơ sở cho sự nhận thức sự vật hiện 
tượng khác nhau trong đời sống tinh thần 
của người Việt. Nghĩa là, đã có một sự 
chuyển di ý niệm màu sắc sang ý niệm trừu 
tượng trong tư duy con người. Đây chính là 
cơ chế hình thành các ẩn dụ ý niệm XANH. 
Có ... C (Chế Lan Viên, Đoạn cuối thế kỷ) 
Đằm trong hơi thở đất đai 
Màu xanh sẽ rộng, sẽ dài mai sau. 
 (Hà Thiên Sơn, Mưa đầu mùa) 
Tác động của màu 
xanh đến tâm lý 
con người 
Đặc tính của thời gian được 
con người cảm nhận 
Đêm x Đêm xanh; buổi trưa xanh ngời; 
 Ngày Ngày xanh biếc đất, nắng đầy hồn ta. 
 ( (Chế Lan Viên, Trưa dưới vòm cây) 
Như vậy, ý niệm XANH với các đặc 
tính cơ bản đã trở thành “bệ đỡ” cho sự nhận 
thức của người Việt về đời sống xã hội, 
khám phá chính bản thân mình trên các 
phương diện khác nhau. Điều này cũng có 
nghĩa là, miền nguồn XANH đã chiếu xạ 
sang các miền đích khác nhau trong tri nhận 
của người Việt. 
2.3. Mô hình ẩn dụ ý niệm XANH trong 
tiếng Việt. 
2.3.1 Ẩn dụ ý niệm HI VỌNG/ KHÁT 
VỌNG LÀ MÀU XANH 
Xuất phát từ các đặc tính của màu 
được con người cảm nhận, màu xanh gắn 
20 Journal of Science – Phu Yen University, No.26 (2021), 17-23 
liền với đời sống văn hóa tinh thần của con 
người. Được xem là màu của thiên nhiên, 
của sự sinh trưởng, màu xanh được con 
người tri nhận gắn liền với những thuộc tính 
đem lại cho con người những khoái cảm tinh 
thần và theo truyền thống, nó là màu của hi 
vọng. Nghiên cứu nguồn ngữ liệu chúng tôi 
nhận thấy rằng, người Việt có xu hướng sử 
dụng các từ chỉ màu xanh với các sắc độ 
khác nhau như biếc, thẳm, thắm, để diễn 
tả niềm tin, hi vọng: hi vọng xanh tươi, ước 
mơ xanh, khát khao xanh,... Các thuộc tính 
cố hữu đặc trưng của màu xanh – xanh 
dương: sắc độ tươi mát, tính nhiệt thấp được 
chiếu xạ lên miền đích trong tư duy con 
người – cảm xúc, định hình cảm giác an yên, 
nhẹ nhàng mà chắc chắn. Hi vọng xanh, 
mang sự bền bỉ lan tỏa dịu nhẹ mà tha thiết. 
Trong tiếng Việt, sắc xanh của bầu trời được 
dùng biểu trưng cho niềm tin, hi vọng, cuộc 
sống tươi đẹp với nhiều cấp độ khác nhau 
gắn với thuộc tính chuyên biệt về sắc độ của 
màu như: biếc, ngời, thẫm góp phần nâng 
ý nghĩa biểu trưng của màu xanh lên mức 
cao nhất, thể hiện trọn vẹn nhất các thuộc 
tính của cảm xúc ở miền đích. Trong vô số 
các màu sắc được ghi nhận trong tư duy con 
người, lựa chọn màu xanh để diễn tả khát 
vọng là lựa chọn mang tính phổ quát. Bởi lẽ, 
màu xanh là màu gần gũi trong cuộc sống, 
gắn liền đời sống nông nghiệp người Việt. 
Do vậy, sử dụng màu xanh để gợi liên tưởng 
về sự bền bỉ, sức sống tiềm ẩn của đam mê 
là biểu hiện tư duy ý niệm màu sắc trong 
thực tiễn tiếng Việt: 
(1) Ngày mai từ vết chân người 
Màu xanh lên với chân trời mở ra 
(Đinh Nam Khương, Từ những vết chân người). 
(2) Mong đợi đã vàng 
Khát vọng còn xanh. 
 (Vũ Phán, Hồ Xuân Hương) 
2.3.2. Ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ MÀU XANH 
Sự tri nhận màu sắc của con người nói 
chung và trong tiếng Việt nói riêng, như các 
nhà ngôn ngữ học tri nhận đã chỉ ra, có 
nguồn gốc từ chính sự trải nghiệm của con 
người và “việc tri nhận màu sắc của con 
người là sản phẩm của sự kết hợp giữa thần 
kinh thị giác với khả năng tri nhận của não 
bộ, nó không phải là một tổ hợp cơ năng tri 
nhận hoàn toàn khách quan, độc lập nằm 
ngoài chủ thể tri nhận, mà được tạo ra từ thế 
giới hiện thực” (Triệu Diễm Phương, 2011, 
tr.80). Điều này cho thấy tính không thể tách 
rời giữa tâm lý và sinh lý khi “một loại kích 
thích có thể kích hoạt nhiều tri giác của các 
giác quan khác nhau, tạo nên sự cộng minh 
não bộ” (Triệu Diễm Phương, 2011, tr.81). 
Cơ chế chuyển đổi cảm giác này tạo thành 
cơ sở tâm sinh lý để con người nhận biết sự 
vật. Chính vì thế, màu sắc dường như có 
thêm độ sâu, độ lạnh, độ nóng. Trong ẩn dụ 
ý niệm BUỒN LÀ MÀU XANH, khi miền 
nguồn – màu xanh ánh xạ lên miền đích 
CẢM XÚC thì đặc trưng được lựa chọn là 
sắc độ có tính chuyên biệt, gắn liền với xu 
hướng tiêu cực của cảm xúc: 
 (3) Bàn tay xanh xao đón ưu phiền 
 (Trịnh Công Sơn, Nắng thủy tinh) 
(4) Non xanh ngây cả buổi chiều. 
 (Huy Cận, Thu rừng) 
Ẩn dụ màu xanh (xanh lam) vốn chỉ có 
trong văn hóa phương Tây. Trong tiếng Anh 
hiện đại “nhạc màu xanh lam” là thể loại 
nhạc có tiết tấu và ca từ có âm hưởng buồn 
(diễn tả sự tan vỡ). Trong tiếng Việt, đặc biệt 
là trong thơ, ẩn dụ nỗi buồn gắn với màu 
xanh đi liền với các đặc trưng như mềm, rủ, 
buốt, rêu,... thuộc tính sắc độ của màu được 
con người cảm nhận dựa trên những “phản 
ứng” tương ứng của những giác quan khác: 
xúc giác, thính giác, vị giác, khứu giác. 
Những từ ngữ thuộc vùng tri nhận này có giá 
trị biểu trưng cho vùng tri nhận vốn phức tạp 
và trừu tượng như cảm xúc của con người. 
Chuyển đổi cảm giác tạo nền tảng cho sự 
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 26 (2021), 17-23 21 
phương thức tri nhận ẩn dụ ý niệm BUỒN 
LÀ MÀU XANH trong tiếng Việt. 
2.3.3. Ẩn dụ ý niệm HOẠT ĐỘNG TÍCH 
CỰC CỦA CON NGƯỜI LÀ MÀU XANH 
Trong tiếng Việt, ta vẫn thường 
gặp những cấu trúc diễn tả hoạt động, 
trạng thái của con người trong xã hội như: 
sống xanh, hãy tô xanh cuộc sống; sống 
thì phải xanh, Hoạt động mang tính hoạt 
động xã hội của con người được hình 
dung, nhận diện gắn liền với màu sắc đặc 
trưng. Nói cách khác, chính màu sắc đi 
kèm hoạt động với thuộc tính cơ bản tạo 
cơ sở cho sự nhìn nhận, đánh giá hoạt 
động của con người. Những ẩn dụ ý niệm 
về con người xã hội như trên là có tính phổ 
biến. Ánh xạ dựa trên liên tưởng giữa sắc 
độ, độ sáng – tính chất của hoạt động; hoạt 
động của con người với màu sắc – hoạt 
động biến đổi đời sống xã hội trở thành cơ 
sở kiến tạo cấu trúc ẩn dụ ý niệm màu sắc. 
Do vậy, các biểu thức ngôn ngữ biểu đạt 
ẩn dụ ý niệm màu sắc về hoạt động xã hội 
của con người xuất hiện khá phổ biến. Tri 
thức của người Việt về các màu sáng 
(trắng, xanh, hồng) là cơ sở cho sự biểu 
đạt, tri nhận tính chất, vai trò của hoạt 
động xã hội của con người: 
 (5) Chung tay cùng cộng đồng tô xanh 
cuộc sống. 
(https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/chung-
tay-cung-cong-dong-to-xanh-cuoc-song-
20170204231038644.htm) 
 (6) Cuộc đời hãy như là lá. Sống thì phải 
xanh. 
(https://ngoisao.net/tin-tuc/choi-blog/cuoc-
doi-hay-nhu-la-la-song-thi-phai-xanh-
3330326.html) 
2.3.4. Ẩn dụ ý niệm CUỘC ĐỜI ĐẸP/Ý 
NGHĨA LÀ MÀU XANH 
Trong vô số các màu, màu xanh 
được xem là “màu sâu nhất trong các 
màu”, “màu xanh khiến cho hình dạng của 
đồ vật thanh thoát, cởi mở, nhạt nhòa, 
“màu xanh tự phân giải trong chính nó các 
mâu thuẫn, các xen kẽ - như xen kẽ ngày 
và đêm – những mâu thuẫn và xen kẽ điều 
chỉnh đời sống con người.” (Jean 
Chevalier, Alain Gheerbrant, 2016, 
tr.1015 – 1016). Trong nhận thức chung 
của người Việt, màu xanh vốn được xem 
là màu gắn liền với sức sống, sự sinh sôi 
nảy nở của cây trái, của thiên nhiên, màu 
xanh mang đến cho người nhìn cảm giác 
dễ chịu, êm ả. Vì thế, xanh thường được 
gắn với những gì đẹp đẽ, giàu sức sống. 
Khảo sát nguồn ngữ liệu, chúng tôi nhận 
thấy rằng người Việt có xu hướng sử dụng 
màu xanh gắn liền với ý niệm CUỘC ĐỜI 
để thể hiện cách cảm nhận, đánh giá về giá 
trị, tính chất tích cực cuộc sống. Các thuộc 
tính đặc trưng: sắc độ tươi mát, tính nhiệt 
thấp của xanh chiếu xạ lên miền đích 
CUỘC ĐỜI trong tư duy con người tương 
ứng với các tính chất (đẹp, mới, tràn đầy 
sức sống), chiều kích (rộng, dài, thẫm 
sâu) tương ứng với thuộc tính tràn đầy 
năng lượng của cuộc sống: 
 (7) Cỏ trong vườn mát dưới chân anh 
 Đời vẫn tươi màu lá rau xanh. 
 (Tố Hữu, Hãy nhớ lấy lời tôi) 
 (8) Báo Đại Đoàn Kết cũng đã góp sức 
mình vào cuộc đấu tranh vì màu xanh cuộc 
sống. 
(
cuoc-song-tintuc356136) 
2.3.5. Ẩn dụ ý niệm SỰ PHÁT TRIỂN 
KINH TẾ LÀ MÀU XANH 
Với tư duy ý niệm TỐT LÀ LÊN, XẤU 
LÀ XUỐNG, người Việt có sự nhận thức 
tình trạng, đánh giá chiều hướng phát triển 
hay suy giảm nền kinh tế xã hội gắn với sự 
liên tưởng “sáng lên” hoặc “tối đi” của màu 
sắc. Tình trạng, chiều phát triển của nền kinh 
tế được liên tưởng ứng với sự thay đổi màu 
sắc, sắc độ của màu sắc đặc thù. Trong văn 
22 Journal of Science – Phu Yen University, No.26 (2021), 17-23 
hóa Việt, các màu được phân theo nhóm dựa 
trên các đặc trưng về sắc độ, độ sáng, tính 
nhiệt. Theo đó, màu được phân loại thành hai 
nhóm màu sáng -màu tối, nóng – lạnh. Tri 
nhận về màu sắc mang đặc trưng văn hóa dân 
tộc này trở thành cơ sở cho sự lý giải, phân 
tích, hiểu đối tượng phức tạp trong đời sống. 
Trong đời sống văn hóa - ngôn ngữ của 
người Việt, hết sức tự nhiên, màu xanh được 
xem là màu của cây cỏ, gắn với sức sống, sự 
hồi sinh, phát triển. Đặc trưng tri nhận về sắc 
độ, độ sáng của xanh được kích hoạt, phóng 
chiếu lên miền đích KINH TẾ bằng các ánh 
xạ tương ứng: màu với sắc độ tươi mát tương 
ứng với “sức sống”, sự hồi phục, phát triển 
của nền kinh tế, mở rộng nghĩa của ẩn dụ ý 
niệm màu sắc. 
Trong ẩn dụ ý niệm SỰ PHÁT TRIỂN 
CỦA NỀN KINH TẾ LÀ MÀU XANH, 
chiều hướng vận động, phát triển, tích cực 
của nền kinh tế được hình dung tương ứng 
với thuộc tính độ sáng của màu, hoặc màu 
với sắc độ tươi mát, có giá trị biểu trưng cho 
sức sống của màu xanh trong văn hóa Việt: 
 (9) Bức tranh kinh tế Việt Nam 2017 
không thiếu màu xanh, bất chấp phục hồi 
chậm chạp của kinh tế thế giới và khu vực. 
 ( 
lac-quan-than-trong-hanh-dong-tu-tin- 
20180101134916435.chn) 
 (10) Khi những tháng ngày khó khăn 
vẫn còn đang “càn quét” các ngân hàng, thì 
ở đâu đó dưới đám lá khô mục ruỗng của 
mùa đông, những mầm xanh hy vọng đã 
đâm chồi! 
(https://www.thesaigontimes.vn/119913/Nh
ung-mam-xanh-hy-vong.html 
2.3.6. Ẩn dụ ý niệm ĐẶC TRƯNG TÍCH 
CỰC CỦA THỜI GIAN LÀ MÀU XANH 
Trong những ẩn dụ ý niệm màu sắc 
về thời gian, con người đã sử dụng tri thức, 
những trải nghiệm hàng ngày có được về 
màu sắc để ý niệm hóa thời gian. Đây là 
phương thức đặc thù để con người tri nhận 
về thời gian, gắn với đặc trưng văn hóa của 
mỗi dân tộc. Những nền văn hóa khác nhau 
có những cách nhìn nhận khác nhau về thời 
gian. Thực tế, người Việt chúng ta đã vận 
dụng kinh nghiệm có được trong tri nhận 
màu sắc, đặc biệt là màu xanh, để ý niệm hóa 
thời gian. Trong tiếng Việt, với mô hình cấu 
trúc ẩn dụ ĐẶC TRƯNG CỦA THỜI GIAN 
LÀ MÀU SẮC, người Việt đã sử dụng 
những tri thức về màu để nhận thức các đặc 
tính khác nhau của thời gian. MÀU SẮC với 
những thuộc tính cụ thể như độ sáng, sắc độ, 
tính nhiệt, tác động về cảm xúc, thẩm mỹ 
được gán cho ý niệm thời gian. Quá trình 
ánh xạ dựa trên liên tưởng tương ứng giữa 
hai miền ý niệm nguồn - đích làm nảy sinh ở 
miền đích THỜI GIAN những thành tố 
nghĩa mới có tác dụng định lượng, định tính, 
tính chất, cảm xúc Và dựa trên thao tác tư 
duy, chúng ta suy luận và hiểu về thời gian. 
Chẳng hạn, chúng ta xác định tính chất đa 
chiều, nhanh – chậm, dài – ngắn của thời 
gian trong mối liên tưởng tương ứng với sự 
phong phú của màu sắc, sắc độ màu trong 
bảng màu được tri nhận trong văn hóa Việt 
(chiều xanh, chiều tím, đêm xanh, đêm 
hồng). Chúng ta dùng cảm quan về màu 
để tri giác thuộc tính của thời gian (hương 
thời gian thanh thanh, màu thời gian tím 
ngát,). Theo đó, cảm quan về màu xanh 
trở thành cơ sở cho sự nhận thức đặc trưng 
tích cực của thời gian. Mỗi một thuộc tính 
của thời gian được tri nhận dựa trên liên 
tưởng tương ứng với thuộc tính nổi trội ở 
miền nguồn XANH: 
 (11) Đêm về với biển đêm xanh 
 (12) Các chị sao ơi, bạn tuổi nhỏ của ta, 
 Có nghe trời chật 
Những đêm xanh dào dạt như đêm nay. 
 (Chế Lan Viên, Người Bác sỹ) 
 Không đen, đêm biển long lanh nghìn trùng. 
(Chế Lan Viên, Đêm về với biển) 
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 26 (2021), 17-23 23 
3. Kết luận 
Khảo sát ẩn dụ ý niệm XANH, chúng tôi 
đã cung cấp thêm những minh chứng làm rõ 
ẩn dụ ý niệm màu sắc trong tiếng Việt. 
Trong các ẩn dụ ý niệm XANH, các thuộc 
tính cơ bản của miền nguồn màu XANH 
được ánh xạ lên miền đích khác nhau: con 
người, khái niệm trừu tượng thuộc lĩnh vực 
kinh tế và hiện tượng tự nhiên. Những phân 
tích về mô hình ẩn dụ ý niệm XANH thông 
qua các ẩn dụ tiêu biểu: HI VỌNG/ KHÁT 
VỌNG LÀ MÀU XANH, BUỒN LÀ MÀU 
XANH, CUỘC ĐỜI ĐẸP/CÓ Ý NGHĨA 
LÀ MÀU XANH, SỰ PHÁT TRIỂN KINH 
TẾ LÀ MÀU XANH, ĐẶC TRƯNG TÍCH 
CỰC CỦA THỜI GIAN LÀ MÀU XANH 
cho thấy nhận thức về thế giới xung quanh 
của con người có liên quan đến sự tri nhận, 
trải nghiệm của con người đối với ý niệm 
màu sắc. Hi vọng rằng, kết quả đạt được sẽ 
góp phần làm sáng tỏ thêm về cơ sở tư duy 
và các quá trình nhận thức những biểu tượng 
tinh thần về thế giới của người Việt
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
G. Lakoff, M. Johnon (1980), Metaphors We live by, The University of Chicago Press, 
Chicago and London. 
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch) (2016), Từ điển biểu tượng 
văn hóa thế giới – huyền thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu 
sắc, con số, Nxb Đà Nẵng. 
Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 
Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận – Ghi chép và suy nghĩ, Nxb Khoa học Xã hội, 
Hà Nội. 
Trần Văn Cơ (2011), Ngôn ngữ học tri nhận - Từ điển – Tường giải và đối chiếu, Nxb Phương 
Đông, TP. Hồ Chí Minh. 
Triệu Diễm Phương (2011), Dẫn luận Ngôn ngữ học tri nhận, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
Conceptual metaphor of the blue in the Vietnamese language 
Nguyen Thi Lien 
Phu Yen University 
Email: ngoclienpy@gmail.com 
Received: December 29, 2020; Accepted: January 20, 2021 
Abstract 
 From the perspectives of cognitive linguistics, metaphor is considered one of the forms 
of conceptual thinking, reflecting the ways of thinking and conceptualizing people around the 
world through linguistic expressions, a cognitive mechanism through which the logic of abstract 
concepts is replaced by the logic of more specific concepts. Within the context of this scientific 
paper, we turn our attention to the conceptual metaphor of “color” in which blue is used as a 
source of concepts associated with the various target domains in the Vietnamese linguistics. 
Key words: conceptual metaphor, language expressions, blue, source domain, target 
domain 

File đính kèm:

  • pdfan_du_y_niem_xanh_trong_tieng_viet.pdf