Xây dựng chương trình tính liều gián đoạn xạ trị
Để đạt được hiệu quả tối ưu xạ trị cho bệnh nhân, việc điều trị phải được thực hiện trong thời gian cố
định theo phác đồ đã được bác sĩ xạ trị chỉ định và không nên xảy ra gián đoạn. Gián đoạn trong xạ trị ảnh
hưởng xấu đến kết quả điều trị của bệnh nhân, làm tăng nguy cơ tái phát, giảm khả năng kiểm soát bướu.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc gián đoạn xạ trị, có nguyên nhân có thể dự tính trước và nguyên
nhân không dự tính được. Chính vì thế, việc xây dựng một kế hoạch để có thể ứng phó với những gián
đoạn trong xạ trị bằng cách tính toán bù liều dựa trên liều hiệu dụng sinh học BED (Biologically Effective
Dose) là thật sự cần thiết mà mỗi cơ sở khám chữa bệnh nên có.
Mục tiêu nghiên cứu:
Xây dựng chương trình tính liều gián đoạn xạ trị tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân xạ trị bị gián đoạn trong cuộc điều trị lớn hơn 5 ngày nhỏ hơn 28 ngày.
Kết quả:
Đề tài đã cho ra một kế hoạch phòng ngừa gián đoạn nhằm chủ động ứng phó với các trường hợp
gián đoạn ngắn ngày và có thể dự tính trước và chương trình tính toán bù liều xạ trị cho các trường hợp
gián đoạn kéo dài và không dự tính trước được.
Kết luận:
Gián đoạn trong xạ trị hay kéo dài tổng thời gian xạ trị so với dự định ban đầu sẽ làm tăng nguy cơ tái
sinh của tế bào ung thư, đồng thời làm giảm khả năng kiểm soát khối u tại chỗ. Vì vậy, việc phòng ngừa
cũng như có giải pháp để bù đắp cho những ảnh hưởng xảy ra do sự tái sinh của tế bào ung thư khi xảy
ra gián đoạn liệu trình xạ trị là điều rất cần thiết và luôn đặt ra cho mỗi cơ sở xạ trị ung thư.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng chương trình tính liều gián đoạn xạ trị
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 296 XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÍNH LIỀU GIÁN ĐOẠN XẠ TRỊ NGUYỄN THỊ VÂN1, ĐỖ THANH HƯNG1, NGUYỄN TRUNG HIẾU2, NGUYỄN THỊ THỂ LAM1 Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Vân Email: vannguyen5694@gmail.com Ngày nhận bài: 1/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 KS. Khoa Kỹ thuật Phóng xạ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 KS. Trưởng khoa Kỹ thuật Phóng xạ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM TỔNG QUAN Xạ trị là một phương pháp điều trị ung thư hiện đại, có thể tiêu diệt được các khối u nằm sâu bên trong cơ thể mà giảm thiểu biến chứng tối đa đến cơ quan lành. Để đạt được hiệu quả tối ưu xạ trị cho bệnh nhân, việc điều trị phải được thực hiện trong thời gian cố định theo phác đồ đã được bác sĩ xạ trị chỉ định và không nên xảy ra gián đoạn. Gián đoạn trong xạ trị ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị của bệnh nhân, làm tăng nguy cơ tái phát, giảm khả năng kiểm soát bướu. Chính vì thế, việc xây dựng một kế hoạch để có thể ứng phó với những gián đoạn trong xạ trị bằng cách tính toán bù liều dựa trên liều hiệu dụng sinh học BED (Biologically Effective Dose) là thật sự cần thiết mà mỗi cơ sở khám chữa bệnh nên có. Qua khảo sát thực tế lâm sàng, gián đoạn xạ trị thường xảy ra bởi những nguyên nhân sau: Nguyên nhân có thể dự tính trước: Nghỉ lễ theo quy định (dài nhất là kì nghỉ Tết nguyên Đán: 5 ngày), nghỉ để bảo trì, bảo dưỡng thiết bị. Nguyên nhân không dự tính trước: Máy xạ bị hư hỏng hoặc liên quan đến bệnh nhân vì lý do cá nhân: bị biến chứng bỏng và loét da; suy kiệt cơ thể TÓM TẮT Để đạt được hiệu quả tối ưu xạ trị cho bệnh nhân, việc điều trị phải được thực hiện trong thời gian cố định theo phác đồ đã được bác sĩ xạ trị chỉ định và không nên xảy ra gián đoạn. Gián đoạn trong xạ trị ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị của bệnh nhân, làm tăng nguy cơ tái phát, giảm khả năng kiểm soát bướu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc gián đoạn xạ trị, có nguyên nhân có thể dự tính trước và nguyên nhân không dự tính được. Chính vì thế, việc xây dựng một kế hoạch để có thể ứng phó với những gián đoạn trong xạ trị bằng cách tính toán bù liều dựa trên liều hiệu dụng sinh học BED (Biologically Effective Dose) là thật sự cần thiết mà mỗi cơ sở khám chữa bệnh nên có. Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng chương trình tính liều gián đoạn xạ trị tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu Bệnh nhân xạ trị bị gián đoạn trong cuộc điều trị lớn hơn 5 ngày nhỏ hơn 28 ngày. Kết quả: Đề tài đã cho ra một kế hoạch phòng ngừa gián đoạn nhằm chủ động ứng phó với các trường hợp gián đoạn ngắn ngày và có thể dự tính trước và chương trình tính toán bù liều xạ trị cho các trường hợp gián đoạn kéo dài và không dự tính trước được. Kết luận: Gián đoạn trong xạ trị hay kéo dài tổng thời gian xạ trị so với dự định ban đầu sẽ làm tăng nguy cơ tái sinh của tế bào ung thư, đồng thời làm giảm khả năng kiểm soát khối u tại chỗ. Vì vậy, việc phòng ngừa cũng như có giải pháp để bù đắp cho những ảnh hưởng xảy ra do sự tái sinh của tế bào ung thư khi xảy ra gián đoạn liệu trình xạ trị là điều rất cần thiết và luôn đặt ra cho mỗi cơ sở xạ trị ung thư. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 297 do dinh dưỡng chưa tốt; khả năng tài chính eo hẹp mà không đến xạ được. Nhiều dữ liệu từ các cuộc nghiên cứu cho thấy, việc gián đoạn xạ trị từ 14 - 16 ngày làm ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị của bệnh nhân ung thư. Khi thời gian điều trị tổng thể bị kéo dài hơn một tuần so với kế hoạch ban đầu thì khả năng kiểm soát khối u giảm từ 3 - 25% (trung bình là 14%). Khi việc gián đoạn xảy ra chỉ một ngày đối với các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gai vùng đầu cổ, cổ tử cung và phổi, nếu không được bù lại thì có thể làm giảm xuống 1,4% khả năng kiểm soát khối u[2]. Một nghiên cứu khác cho biết, kéo dài thời gian điều trị tổng thể thêm hai ngày khi điều trị bệnh nhân có khối u thanh quản trong bốn tuần ảnh hưởng đáng kể đến kết quả điều trị[4]. Khoảng thời gian gián đoạn dưới 5 ngày không đáng kể. Thời gian gián đoạn tối đa từ 5 đến 7 ngày là có ý nghĩa đáng chú ý về mặt thống kê. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Bệnh nhân xạ trị bị gián đoạn trong cuộc điều trị lớn hơn 5 ngày nhỏ hơn 28 ngày. Các loại khối u khác nhau sẽ có mức độ phát triển và tốc độ tăng trưởng khác nhau. Dựa theo sự khác biệt giữa các loại khối u và mục đích điều trị, ba nhóm bệnh nhân được đề xuất ưu tiên xử lý khi xảy ra gián đoạn trong xạ trị. Nhóm 1 Đây là những bệnh nhân có khối u phát triển nhanh chóng và được điều trị với mục đích điều trị triệt để. Thời gian điều trị không được kéo dài quá hai ngày so với thời gian điều trị theo lịch ban đầu. Kéo dài thời gian điều trị tổng thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị hoặc kiểm soát khối u cục bộ ở những bệnh nhân có các khối u liệt kê dưới đây.Bệnh nhân có các khối u được liệt kê dưới đây không nên kéo dài thời gian điều trị. Ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu, cổ. Ung thư biểu mô tế bào vảy cổ tử cung, âm hộ. Ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản, mô tuyến thực quản. Ung thư biểu mô tế bào vảy da, phổi, u trung thất và các khối u thần kinh. Nhóm 2 Đây là những bệnh nhân có khối u phát triển chậm hơn, được điều trị với mục đích triệt để. Tuy thời gian gián đoạn tối thiểu an toàn cho bệnh nhân chưa được đưa ra nhưng có khuyến cáo rằng thời gian điều trị không nên kéo dài quá hai ngày so với thời gian điều trị theo lịch ban đầu. Bệnh nhân có các khối u được liệt kê dưới đây không nên kéo dài thời gian điều trị. Bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn được điều trị bằng hóa trị liệu không nên được điều trị kéo dài hơn bảy ngày so với lịch trình ban đầu. Bệnh nhân ung thư tuyến vú được điều trị sau phẫu thuật trong vòng 5 tuần hoặc hơn ... à 69,4%. Các yếu tố liên quan đến đáp ứng bao gồm: kích thước u, liều điều trị, dạng tổn thương. Kết luận: Xạ phẫu Gamma Knife là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với tổn thương di căn não của ung thư phổi không tế bào nhỏ. Từ khóa: Xạ phẫu, di căn não, ung thư phổi không tế bào nhỏ. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 304 đơn ổ và có hiệu ứng khối[3]. Cùng với sự phát triển của xạ toàn não và sử dụng corticoid, thời gian sống thêm cải thiện 4 - 6 tháng[4]. Trong nhiều thập kỷ, xạ toàn não được coi là phương pháp điều trị chuẩn cho tất cả bệnh nhân di căn não. Tuy nhiên, xạ toàn não làm tổn thương nhiều mô não lành và gây ra nhiều di chứng tại não. Xạ phẫu là một phương pháp điều trị hiện đại đối với tổn thương di căn não có nhiều ưu điểm giúp kiểm soát tại chỗ tốt, cải thiện triệu chứng, kéo dài thời gian sống thêm và giảm các độc tính trên tế bào lành. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục tiêu đáp ứng của tổn thương di căn não của ung thư phổi không tế bào nhỏ điều trị bằng phương pháp xạ phẫu Gamma Knife ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn lựa chọn Ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não Số ổ di căn não 1 – 5 ổ, đường kính lớn nhất mỗi ổ ≤ 3cm. Chỉ số toàn trạng Karnofsky ≥ 60. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đã được xạ toàn não trước đó. Bệnh nhân đã được phẫu thuật lấy khối u não di căn. Bệnh nhân mắc các bệnh ung thư nguyên phát thứ hai, Bện nhân mắc bệnh nội khoa cấp và mãn tính trầm trọng có nguy cơ tử vong trong khoảng 3 tháng. Bệnh nhân được điều trị TKIs Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 6 năm 2020. Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng. Cỡ mẫu Cỡ mẫu: Thuận tiện. Trong nghiên cứu. Chúng tôi đã thu thập được 72 bệnh nhân. Các bước tiến hành Bệnh nhân được khám lâm sàng, cận lâm sàng trước điều trị. Bệnh nhân được điều trị xạ phẫu bằng hệ thống máy xạ phẫu Leksell Gamma Knife ICON (Elekta AB, Thụy Điển). Liều điều trị: dựa theo nghiên cứu RTOG 90-05 tùy theo số lượng, vị trí, kích thước u < 2cm: 20 – 24Gy. 2 - 3cm: 18 - 20Gy. Bệnh nhân được đánh giá định kỳ mỗi 3 tháng. Trong nghiên cứu, 72 bệnh nhân đã được đánh giá tại thời điểm 3 tháng và 36 bệnh nhân theo dõi đủ 6 tháng. Các chỉ số đánh giá - Đáp ứng tại u: dựa theo tiêu chuẩn RANO (Response Assessment in Neuro-Oncology). + Đáp ứng hoàn toàn: các tổn thương biến mất, không cần sử dụng corticosteroid, tổn thương không phải đích biến mất + tình trạng lâm sàng ổn định hoặc cải thiện. + Đáp ứng một phần: giảm ≥ 30% tổng kích thước của các tổn thương đích + các tổn thương không phải đích không tiến triển + sử dụng corticosteroid giữ nguyên hoặc giảm + tình trạng lâm sàng ổn định hoặc cải thiện. + Bệnh ổn định: Tổn thương đích giảm dưới 30% hoặc tăng không quá 20% tổn kích thước + tổn thương không đích không tiến triển + sử dụng corticosteroid giữ nguyên hoặc giảm + tình trạng lâm sàng ổn định hoặc cải thiện. + Bệnh tiến triển: Có một trong các yếu tố sau: tăng ≥ 20% tổng kích thước các tổn thương đích, tổn thương không phải đích tiến triển, xuất hiện tổn thương mới, tình trạng lâm sàng xấu hơn. - Mối liên quan của đáp ứng với các yếu tố: tuổi, giới, kích thước u, liều điều trị. Xử lý số liệu Các thông tin được mã hoá và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Mô tả: Trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn, giá trị min, max. So sánh các tỷ lệ: Sử dụng test 2. Các so sánh có ý nghĩa thống kê với p <0,05. KẾT QUẢ Đặc điểm bệnh nhân Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 305 Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân Biến số Kết quả Tổng số bệnh nhân 72 Tuổi Trung bình 59,72 ± 8,7 Dao động 32 - 79 Giới Nam 61 (84,7%) Nữ 11 (15,3%) Triệu chứng thần kinh Có 64 (88,9%) Không 8 (11,1%) Chỉ số Karnofsky ≥80 63 (87,5%) ≤70 9 (12,5%) Mô bệnh học UTBM tuyến 59 (81,9%) Loại khác 13 (18,1%) Số ổ di căn não 1 ổ 27 (37,5%) 2 - 3 ổ 25 (34,7%) 4 - 5 ổ 20 (27,8%) Bảng 2. Đặc điểm khối u Biến số Kết quả Tổng số khối u 174 Kích thước u < 1 cm 98 (56,3%) 1 - 2cm 52 (29,9%) ≥ 2cm 24 (13,8%) Đặc điểm u Thể đặc 113 (64,9%) Thể hỗn hợp 61 (35,1%) Liều xạ phẫu < 22Gy 79 (45,4%) ≥ 22Gy 95 (54,6%) Nhận xét: Tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là 59,72 ± 8,7. Tỷ lệ nam/ nữ là 5,5. 64 (88,9%) bệnh nhân có triệu chứng thần kinh. 63 (87,5%) bệnh nhân có chỉ số toàn trạng Karnofsky ≥80; 81,9% ung thư biểu mô tuyến; 37,5% di căn não 1 ổ. Có tổng cộng 174 khối u trên 72 bệnh nhân, trong đó 56,3% khối u có kích thước < 1cm; 64,9% khối u thể đặc. Liều xạ phẫu ≥ 22Gy chiếm 54,6%. Kết quả đáp ứng Bảng 3. Kết quả đáp ứng Kết quả đáp ứng 3 tháng 6 tháng Đáp ứng tại từng khối u Hoàn toàn 72 / 174 (41,4%) 41 / 87 (47,1%) Một phần 72 / 174 (41,4%) 30 / 87 (34,5%) Giữ nguyên 20 / 174 (11,5%) 11 / 87 (12,6%) Tiến triển 10 / 174 (5,7%) 5 / 87 (5,7%) Đáp ứng toàn bộ não Hoàn toàn 15 / 72 (20,8%) 8 / 36 (22,2%) Một phần 42 / 72 (58,3%) 15 / 36 (41,7%) Giữ nguyên 6 / 72 (8,3%) 2 / 36 (5,5%) Tiến triển 9 / 72 (12,5%) 11 / 36 (30,6%) Xuất hiện nốt tổn thương di căn mới tại não Có 5 / 72 (6,9%) 9 / 36 (25%) Không 67 / 72 (93,1%) 27 / 36 (75%) Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn tại u tại thời điểm 3 tháng, 6 tháng là 41,4%; 47,1%. Tỷ lệ kiểm soát tại u tại 3 tháng và 6 tháng là 94,3%. Tỷ lệ kiểm soát tại não tại thời điểm 3 tháng, 6 tháng là 87,5% và 69,4%. Tỷ lệ xuất hiện nốt mới tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng là 6,9% và 25%. Các yếu tố liên quan đến đáp ứng Bảng 4. Phân tích đơn biến các yếu tố liên quan đến đáp ứng tại u Yếu tố OR 95% CI p Kích thước u (< 1cm sv ≥ 1cm) 9,742 4,563 - 20,797 < 0,001 Dạng tổn thương (đặc sv dịch) 5,332 2,518 - 11,291 < 0,001 Liều điều trị (< 22Gy sv ≥ 22Gy) 0,427 0,229 - 0,799 0,009 Bảng 5. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến đáp ứng tại u Yếu tố B p Kích thước u (<1 cm sv ≥ 1cm 2,024 < 0,001 Dạng tổn thương (đặc sv dịch) 1,477 < 0,001 Liều điều trị (< 22Gy sv ≥ 22Gy) - 0,441 0,249 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 306 Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng tại u liên quan với kích thước u, dạng tổn thương, liều điều trị với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05). BÀN LUẬN Các chiến lược chính điều trị di căn não bao gồm phẫu thuật, xạ toàn não và xạ phẫu, đơn thuần hoặc kết hợp. Cho đến nay, chiến lược điều trị nào là tối ưu còn nhiều tranh cãi. Xạ phẫu được đề xuất vào những năm 1950 bởi nhà phẫu thuật thần kinh người Thụy Điển Lars Leksell. Các nghiên cứu cho thấy xạ phẫu là một phương pháp hiệu quả có kết quả kiểm soát tại chỗ rất tốt (70 - 80% sau 1 năm). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kiểm soát tại u tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng đều là 94,3%, trong đó tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng là 41,4% và 47,1%. Tỷ lệ kiểm soát tại não tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng là 87,5% và 69,4%. Tại thời điểm 3 tháng, 5 bệnh nhân (6,9%) xuất hiện nốt mới. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự kết quả của các tác giả trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Phạm Văn Thái, tỷ lệ đáp ứng tại não là 72,9% (19,8% đáp ứng hoàn toàn, 53,1% đáp ứng một phần)[5]. Trong nghiên cứu của Shymal trên 173 bệnh nhân ung thư phổi di căn não, kết quả chụp phim tại thời điểm 3 tháng sau xạ phẫu cho thấy tỷ lệ kiểm soát u là 76,9% (45,7% khối u giảm kích thước, 31,2% u giữ nguyên), 23,1% u tăng kích thước, 10 bệnh nhân (5,78%) xuất hiện nốt mới[6]. Nghiên cứu của Gerosa và cs hồi cứu trên 504 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não. Kết quả cho thấy tỷ lệ kiểm soát tại chỗ tại 1 năm là 94%[7]. Kết quả đáp ứng này cũng cao hơn so với xạ trị toàn não thường quy với tỷ lệ đáp ứng khoảng 40 - 60%. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên báo cáo bởi Chougule và cộng sự, bệnh nhân được điều trị ngẫu nhiên bằng xạ phẫu Gamma Knife hoặc xạ toàn não và Gamma Knife hoặc xạ toàn não đơn thuần. Tỷ lệ kiểm soát tại chỗ cao hơn trong 2 nhóm xạ phẫu (87% đối với xạ phẫu Gamma Knife đơn thuần và 91% cho xạ phẫu Gamma Knife và xạ toàn não) so với 62% của nhóm chỉ xạ toàn não đơn thuần[8]. Về sự xuất hiện nốt mới, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ xuất hiện nốt mới sau xạ phẫu Gamma Knife dao động từ 25 đến 61%. Nakazaki nghiên cứu trên 238 bệnh nhân di căn não được xạ phẫu Gamma Knife, tỷ lệ xuất hiện nốt mới là 61,2%, khoảng thời gian xuất hiện là 3,8 tháng (dao động 1,3 - 37,2 tháng)[9]. Trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ đáp ứng tại u liên quan với kích thước u, dạng tổn thương và liều xạ phẫu (bảng 4, 5). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả các nghiên cứu khác. Nghiên cứu của Pan trên 191 bệnh nhân ung thư phổi cho thấy tỷ lệ kiểm soát u thay đổi phụ thuộc vào thể tích khối di căn với 84,4% (<0,5cc), 94% (0,5 - 2cc), 89,1% (2 - 4cc), 93,4% (4 - 8cc), 85,7% (8 - 14cc), 87,5% (>14cc). Tỷ lệ đáp ứng tăng lên với khối u < 2cc, giảm đi với khối u dạng nang, liều <14Gy[10]. Nghiên cứu của Sheehan và cộng sự nhận thấy sau xạ phẫu có 60% u giảm kích thước, 24% giữ nguyên và 16% tăng kích thước. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm soát tại u bao gồm thể tích khối u (p = 0,042), liều điều trị (p = 0,015)[11]. KẾT LUẬN Xạ phẫu Gamma Knife là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với tổn thương di căn não của ung thư phổi không tế bào nhỏ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GOLOBOCAN (2018), Incidence, Mortality and Prevalence by cancer site, truy cập ngày, tại trang. 2. J. S. Barnholtz-Sloan, A. E. Sloan, F. G. Davis và các cộng sự. (2004), Incidence proportions of brain metastases in patients diagnosed (1973 to 2001) in the Metropolitan Detroit Cancer Surveillance System, J Clin Oncol, 22(14), tr. 2865-72. 3. G. Al-Shamy và R. Sawaya (2009), Management of brain metastases: the indispensable role of surgery, J Neurooncol, 92(3), tr. 275 - 82. 4. L. R. Coia (1992), The role of radiation therapy in the treatment of brain metastases, Int J Radiat Oncol Biol Phys, 23(1), tr. 229-38. 5. Phạm Văn Thái (2019), Nghiên cứu điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não bằng hóa xạ trị, Ung thư học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 6. S. C. Bir, S. Ambekar, P. Bollam và các cộng sự. (2014), Long-term outcome of gamma knife radiosurgery for metastatic brain tumors originating from lung cancer, Surg Neurol Int, 5 (Suppl 8), tr. S396 - 403. 7. M. Gerosa, A. Nicolato, R. Foroni và các cộng sự. (2005), Analysis of long-term outcomes and prognostic factors in patients with non-small cell lung cancer brain metastases treated by gamma knife radiosurgery, J Neurosurg, 102 Suppl, tr. 75 - 80. 8. Chougule PB, Burton- Williams M và Saris S (2000), Randomized treatment of brain metastasis with gamma knife radiosurgery, whole brain radiotherapy or both, Int J Radiat Oncol Biol Phys, 48(suppl 1), tr. 114. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 307 9. Kiyoshi Nakazaki và Masakazu Nishigaki (2018), Evaluation of new lesions and symptoms after gamma knife radiosurgery for brain metastases: a retrospective cohort study, Acta Neurochirurgica 160, tr. 1461 - 71. 10. H. C. Pan, J. Sheehan, M. Stroila và các cộng sự. (2005), Gamma knife surgery for brain metastases from lung cancer, J Neurosurg, 102 Suppl, tr. 128 - 33. 11. J. P. Sheehan, M. H. Sun, D. Kondziolka và các cộng sự. (2002), Radiosurgery for non-small cell lung carcinoma metastatic to the brain: long-term outcomes and prognostic factors influencing patient survival time and local tumor control, J Neurosurg, 97(6), tr. 1276 - 81. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 308 ABSTRACT Results of Gamma Knife stereotactic radiosurgery for brain metastasis in non-small cell lung cancer Lung cancer is one of the most common malignancies and the leading cause of death from cancer in the world. Lung cancer often metastasize to the brain, in which about 10% of non-small cell lung cancer have brain metastases, in contrast about 40 - 50% of metastatic brain originated from the lungs. Stereotactic radiosurgery is a modern treatment for brain metastatic lesion that provided good local control, improved symptoms, prolonged survival and reduced toxicity on normal tissue. Our study aims to evaluate the response outcome of Gamma Knife radiosurgery for brain metastasis of non-small cell lung cancer. Methods: We analyzed 72 patients with brain metastatic non-small cell lung cancer from July 2019 to June 2020. Selected patients have brain metastases from 1 to 5 tumors, size ≤3cm, KPS score ≥ 60. Patients were treated by stereotactic radiosurgery using Leksell Gamma Knife ICON unit (Elekta AB) with dose of 20 - 24, 18 - 20Gy for lesions measuring < 2, 2.1 - 3cm, respectively. Patients were assessed for clinical symptoms and imaging response according to RANO criteria at 3, 6 months. Results: In our study, the response rate at 3 months was 82,8% (41,4% CR, 41,4% PR), at 6 months was 81,6% (47,1% CR, 34,5% PR). The rate of control in the brain at 3 months was 87,5%, and at 6 months was 69,4%. Factors associated with response include: tumor size, dose, lesion morphology. Conclusion: Gamma Knife radiosurgery is an effective treatment for brain metastasis of non-small cell lung cancer. Key words: radiosurgery, brain metastases, non-small cell lung cancer.
File đính kèm:
- xay_dung_chuong_trinh_tinh_lieu_gian_doan_xa_tri.pdf