Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn

Chúng ta được biết thời các chúa Nguyễn, ngoài đô thành Phú Xuân ở bắc Sông Hương, còn có xây dựng ở thượng lưu bờ nam Sông Hương một cái phủ có tên là phủ Dương Xuân, và sử triều Nguyễn chép như sau: “Gò Dương Xuân: Ở phía tây bắc huyện (Hương Thủy) 15 dặm

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 1

Trang 1

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 2

Trang 2

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 3

Trang 3

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 4

Trang 4

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 5

Trang 5

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 6

Trang 6

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 7

Trang 7

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 8

Trang 8

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 9

Trang 9

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 18 trang Danh Thịnh 08/01/2024 4080
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn

Về phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn
50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
* Thành phố Huế.
VỀ PHỦ DƯƠNG XUÂN CỦA CHÚA NGUYỄN
 Nguyễn Anh Huy*
Chúng ta được biết thời các chúa Nguyễn, ngoài đô thành Phú Xuân ở bắc 
Sông Hương, còn có xây dựng ở thượng lưu bờ nam Sông Hương một cái phủ có 
tên là phủ Dương Xuân, và sử triều Nguyễn chép như sau: “Gò Dương Xuân: Ở 
phía tây bắc huyện (Hương Thủy) 15 dặm; thế gò bằng phẳng rộng rãi, chỗ cao 
chỗ thấp, la liệt dài dặc độ vài dặm; phía nam gò có đàn Nam Giao, phía tây có 
nhiều danh lam cổ sát, cũng xưng là nơi giai thắng. Cẩn án: Lúc đầu bản triều khai 
quốc có dựng phủ ở gò Dương Xuân nầy. Đời vua Hiển Tôn năm Canh Thìn thứ 
9 (1700) trùng tu, cơ Tả Thủy đào đất được 1 cái ấn đồng có khắc chữ "Trấn Lỗ 
tướng quân chi ấn"..., nhân đó đặt tên phủ là Ấn phủ. Từ sau khi bị binh hỏa đến 
nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”.(1) 
Năm 1925, Linh mục Léopold Michel Cadière (1869-1955)(2) dựa vào các tài 
liệu cổ như nhật ký năm 1749 của Pierre Poivre , Lê Quý Đôn... để tìm cách chứng 
minh rằng phủ Dương Xuân ở khu vực đình Dương Xuân Hạ ở cánh đồng Bàu Vá, 
đường Bùi Thị Xuân, Phường Đúc, Huế ngày nay. 
Sau này, các nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan, Trần Viết Điền, Trần Đại Vinh(3) 
cũng đã theo hướng này, bỏ nhiều tâm huyết, công sức thực địa để tìm các chứng 
cứ bổ sung cho nhận định của Cadière...
Riêng nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từ năm 1992, đã đưa ra giả thuyết 
mới là phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, Huế; sau đó cho ra mắt 
công trình Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương (Sơn lăng của Hoàng đế Quang 
Trung)(4) với nội dung cho rằng phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm chính 
là nơi chôn cất thi thể vua Quang Trung.
Tất nhiên rằng trong 2 vị trí trên, chắc chắn sẽ có 1 vị trí sai với sự thật lịch 
sử. Do vậy, để tìm ra vị trí của phủ Dương Xuân một cách tương đối chính xác, tôi 
thấy cần phải đi khảo sát thực tế cả 2 nơi, sau đó so sánh đối chiếu với các sử liệu 
hiện có. Từ đó tìm ra vị trí nào có số điểm giống với sự mô tả trong tài liệu cổ nhiều 
hơn thì nghiêng về giả thuyết ấy...
I. Những sử liệu hiện có
1. Mô tả của Thích Đại Sán (TĐS)(5) năm 1695 về phủ của chúa Nguyễn 
“...Sắp đến vương phủ, mênh mông không có thành quách, chung quanh 
trồng tre gai làm rào; trong tre cất một hàng trại lợp bằng cỏ tranh; mỗi trại đều 
51Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
có đặt súng đồng... Sau trại súng lại có hàng rào tre gai, phía trong có vòng tường 
thấp, rộng chừng một hai dặm, vương phủ ở trong ấy. 
Đi chẳng xa, phu đò báo cáo nước cạn, Quốc sư đứng dậy bạch rằng: 'Từ 
đây xin lên bộ'.
Lúc ấy quan dân trai gái tụ họp chen lấn đứng xem, võng không đi tới được. 
Đi quanh hai ba lớp núi, nghe trong rừng tre có tiếng trống chuông; Quốc sư rước 
vào ngồi trong một ngôi đền...
Đương bàn với Quốc sư tính nghỉ ngơi vài ngày rồi sẽ ra mắt Quốc vương... 
Sứ giả đi lại liên tiếp, Quốc sư ép ta qua yết kiến một lần cho thỏa lòng Quốc 
vương. Võng lọng từ cửa giữa đi thẳng vào đền, vua đứng đón ở thềm phía 
đông... dắt vào trong cung... Qua nửa đêm, còn lưu luyến chưa cho từ biệt... Về 
đến chùa Thiền Lâm, canh ba đã điểm trống... Sáng sớm ngày mồng một tháng 
hai, nhà vua khiến Nội giám đem thuyền đến mời ta vào ra mắt. Gần đúng ngọ, 
đến phủ, nhà vua chờ đón ở cửa phía tây, lần này người mặc đạo bào, không 
xiêm mão như lần trước...”.
2. Mô tả của giáo sĩ P. Koffler(6) đến Đàng Trong từ năm 1740, ở triều đình 
Huế cho đến 1755 
“Outre cette demeure royale (c’est-à-dire le grand palais), il y a encore trois 
autres palais Le second, qui sert au roi de résidence d’hiver, est contruit sur la 
rive opposée du fleuve” (Tạm dịch: Ngoài chính dinh chúa ngự ấy ra (tức cung 
điện lớn nhất), còn có 3 cung điện khác nữa Cung điện thứ hai dùng làm cung 
điện mùa đông của nhà vua thì được xây dựng ở bờ đối diện của con sông).
 3. Mô tả của Pierre Poivre(7) năm 1749-1750 
- “Le 22. (septembre 1749) - A trois heures nous arrivons à Hué, vis-à-vis 
du Toïta ou palais d'été construit dans l'eau, et du grand palais nommé Phu hing” 
(Tạm dịch: Ngày 22/9/1749... vào lúc 3 giờ, chúng tôi đến Huế, trước mặt Toïta(8) 
hay là cung điện mùa hè, xây trên mặt nước, và cung điện lớn tên là Phủ Chính).
- “Le 29. (septembre 1749) - Hué, capitale de la Cochinchine, est divisée 
en douze quartiers tous situés sur les bords d'une grande rivière et d'une infinité 
de canaux qui en sortent. Les quatre principaux ont pris le nom des quatre palais 
du Roy, dont le plus grand est celui qu'ils nomment Phu kinh ou palais secret, le 
second Phu tlen, ou palais supérieur, le troisième Phu cam, palais deffendu, le 
quatrième Phu aô, palais du marais” (Tạm dịch: Ngày 29/9/1749. Huế, thủ phủ xứ 
Đàng Trong, gồm có 12 khu vực(9) đều nằm bên bờ một con sông lớn và những con 
kênh nhỏ tách ra dài vô tận. Bốn phủ chính mang tên 4 cung điện của nhà vua, cái 
lớn nhất tên là Phủ Chính hay là mật điện,(10) cung điện thứ hai là Phủ Trên, cung 
điện thứ ba là Phủ Cam, cung điện thứ tư là Phủ Ao).
52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
 -“ Le 25. (novembre 1749) Le Roy a quitté le grand palais nommé Phou 
king et a transporté la cour au palais d'hiver nommé Phou tlen... Ce palais d'hiver 
est construit sur le modèle du grand; il est environné de canons comme les autres 
et bâti sur le bord du fleuve” (Tạm dịch: Ngày 25/11/1749... Nhà vua rời cung điện 
lớn tên là Phủ Chính và đến cung điện mùa đông còn có tên là Phủ Trên...(11) Cung 
điện mùa đông này mô thức cũng giống Chính Dinh, cũng có súng thần công bao 
quanh như những cung điện khác, và được xây ở bờ sông).
 - “Le 29. (novembre 1749) - Je suis allé au palais supérieur pour tâcher 
d'avoir audience du Roy Pour me recevoir le Roy étoit descendu dans une 
petite salle bâtie pour les audiences à la porte du palais Le Roy ayant reçu 
ma requête avec un air de bonne volonté, me prit par la main et me conduisit sur 
une terrasse élevée à l'extrém ... y/ tặc Nhạc”, “ngụy/ tặc Huệ”, 
và xem Đại Nam liệt truyện... cũng có cách sử dụng từ ngữ tương tự. Ngược lại, 
gọi là “(亂) loạn Tây Sơn”, “loạn Nhạc”, “loạn Huệ”... không có lần nào!
Vậy thì “loạn” được tính từ thời điểm nào? Sử cho biết: “(1801)... Tháng 9... 
Ngày Đinh Hợi, nước Sông Hương trong. Nguyên là từ cuộc LOẠN NĂM GIÁP 
NGỌ(47) thì nước sông lại thành đục, tới nay kinh đô cũ đã lấy lại được, nước sông 
lại trong hơn mọi khi. Người ta đều biết là triệu chứng thái bình”.(48)
Như thế, chúng ta đã thấy rõ mốc thời gian gọi là thời “loạn” (trái với thời 
“thái bình”) được kể bắt đầu từ năm Giáp Ngọ 1774, làm chúa Nguyễn phải bỏ Phú 
Xuân vào Nam lánh nạn.
63Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
2. Nguyên nhân phủ Dương Xuân mất tích
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân giải thích rằng “chúa Trịnh đánh chiếm 
Phú Xuân 1774, phủ Dương Xuân lọt vào tay quân Trịnh. Hơn 10 năm sau (1786) 
Phú Xuân và phủ Dương Xuân lại chuyển qua tay phong trào Tây Sơn",(49) phủ 
Dương Xuân mất tích vì đã bị Nguyễn Văn Huệ chiếm làm nơi ở và đổi tên thành 
cung điện Đan Dương. Tuy nhiên cho đến nay, chúng tôi không tìm thấy một sử 
liệu nào nói về Nguyễn Văn Huệ đã chiếm phủ Dương Xuân làm nơi ở.(50) 
Đoạn tóm tắt của LQĐ mà tôi đã dẫn ở trên, cho thấy rất rõ là “Từ tháng 
giêng năm Ất Mùi (1775), quan quân đóng đồn, tướng sĩ và binh lính theo làm việc 
có hơn 3 vạn người, mặc ý đi lấy củi, lâu ngày phá rỡ...”, tức phủ Dương Xuân có 
thể đã bị quân Trịnh phá để lấy gỗ làm củi đúc tiền mà ngày nay vẫn còn địa danh 
“Trường Tiền”.
2.1. Có ý kiến cho rằng “Ngói đá gạch chum thì kể có hàng vạn, không thể 
tính xiết”, ngói đá gạch còn đó thì làm sao phủ Dương Xuân mất tích được?
Năm 1776, Lê Quý Đôn chứng kiến quân Trịnh phá các phủ đệ, cung điện ở 
Phú Xuân, đã cho biết: “dân gian nhân đó mà lấy trộm cũng không ngăn cấm”... 
Cho dù lúc đó, có “Ngói đá gạch chum thì kể có hàng vạn, không thể tính xiết”, 
nhưng mãi đến năm 1865, Quốc Sử Quán triều Nguyễn mới bắt đầu đi nghiên cứu 
lại, tức sau đến 90 năm bị “lấy trộm”, các “ngói đá gạch chum” ấy làm sao còn nữa?
Do vậy, đến thời Quốc Sử Quán triều Nguyễn không tìm ra dấu vết, nên ghi 
phủ Dương Xuân bị “mất tích” là đúng! 
2.2. Lại có ý kiến cho rằng LQĐ ghi là “dỡ nhà QUAN”, chứ không phải là 
dinh thự chúa Nguyễn!
Chúng ta nên hiểu như thế này:
- Thứ nhất, chúa Nguyễn cũng chỉ là "quan" của vua Lê: “Họ Nguyễn trước 
kia đời đời làm công thần, tuy các đời vẫn khiến thần dân gọi là chúa, nhưng... thần 
hạ mới suy tôn Thái phó quốc công... Đến bấy giờ Phúc Khoát tiếm xưng vương... 
cũng không lập phi cùng thế tửnhưng sau khi chết chỉ tặng thiêm sự và tham 
chính, cũng theo lệ cũ”.(51) Và vì cũng là quan của vua Lê, nên Lê Quý Đôn với tư 
cách là quan chính thống của vua Lê, gọi chúa Nguyễn cũng chỉ bằng tên húy, hoặc 
bằng tước công của vua Lê ban là “Đỉnh Quốc công Nguyễn Phúc Trú, Hiểu Quốc 
công Nguyễn Phúc Khoát...”,(52) chứ không hề gọi bằng tước vương tiếm xưng. Do 
vậy, chữ “quan” ở đây của Lê Quý Đôn, cũng chính là chỉ chúa Nguyễn.
- Thứ hai, quân Trịnh chỉ phá dinh thự chúa Nguyễn, chứ không phá nhà quan 
và dân của chúa Nguyễn: “Việp Quận công (Hoàng Ngũ Phúc) kiêm lĩnh chức trấn 
thủ Thuận Hóa... cấm đoán cướp bóc... tạm lấy người Thuận Hóa làm huyện lệnh. 
Người họ Nguyễn cùng các hàng tướng hàng thần thì đều ủy lạo, khiến ở yên”.(53)
64 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
Như vậy, quân Trịnh chỉ phá những nhà bỏ trống để lấy củi, chứ không phá 
nhà có người ở. Vậy nhà bỏ trống là nhà của ai?
 Khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân đầu năm 1775, chúa Nguyễn đã bỏ vào 
Nam, nên các dinh thự đều để trống. Mà dinh của chúa Nguyễn thì gồm 2 cụm: 
cụm phía bắc là đô thành Phú Xuân, đã bị quân Trịnh sử dụng làm trấn dinh, vậy 
thì còn cụm phía nam là phủ Dương Xuân, tất bỏ trống thì quân Trịnh lại phá để 
lấy gỗ, không hề sai!
- Thứ ba, thêm nữa, độc giả hãy so sánh các loại gỗ mà chúa Nguyễn sai chở 
trong Nam ra để làm phủ Dương Xuân là “gỗ kiền kiền, gỗ sao, gỗ trắc, gỗ giáng 
hương”; trong khi các loại gỗ mà quân Trịnh lấy làm củi cũng chính là “gỗ kiền 
kiền, gỗ sao, gỗ trắc, gỗ giáng hương”, có phải là gỗ của phủ Dương Xuân không? 
Thử hỏi: có hạng quan nào có đủ tiền, đủ quyền... để chở các loại gỗ quý từ 
Gia Định ra Huế để làm nhà ở không?
2.3. Và chúng ta cũng nên thử đặt thêm câu hỏi: Chỉ mới 1 năm từ khi quân 
Trịnh chiếm Phú Xuân năm 1775, qua năm 1776, mà LQĐ chứng kiến điện Trường 
Lạc “đã hỏng”, vì sao? 
Chắc chắn phải có bàn tay con người phá thì cung điện này mới bị như vậy, 
chứ nếu nó bị bỏ hoang và tàn lụi thì không thể trong thời gian chỉ 1 năm mà hư 
hỏng như vậy được! Vậy ai dám phá phủ của chúa Nguyễn? 
Những chứng cứ trên, cho thấy phủ Dương Xuân đã bị quân Trịnh phá lấy gỗ 
làm củi từ năm 1776.
V. Niên biểu về phủ Dương Xuân
- Năm 1691: Minh Vương mới lên ngôi, dựng phủ Dương Xuân ở gò Dương 
Xuân với mục đích mùa đông tránh lụt lội, nên sau này phủ này được gọi là phủ 
(cung điện) mùa đông.
- Năm 1695, Thích Đại Sán đến Thuận Hóa, được tiếp kiến đầu tiên tại phủ 
này và viết lại nhật ký cho biết thời ấy khuôn viên phủ rộng hơn 1,5km.
- Năm 1696, dựng trường pháo ở phủ này để huấn luyện bắn thần công.
- Năm 1700, Minh Vương cho sửa chữa lại phủ Dương Xuân, tình cờ đào 
được ấn “Trấn Lỗ tướng quân” bằng đồng nên cho gọi tên là “Phủ Ấn”.
- Năm 1740: Võ Vương trùng tu phủ Dương Xuân to đẹp hơn, làm cửa Nghi 
Môn, sai lấy gỗ ở miền Nam chở ra. Cũng năm này, giáo sĩ P. Koffler đến Huế để 
chữa bệnh cho chúa Nguyễn, và có ghi chép về phủ này.
- Năm 1749: thương gia người Pháp là Pierre Poivre đến gặp chúa Nguyễn để 
xin thông thương, chúa tiếp ở phủ Dương Xuân. Pierre Poivre có ghi nhật ký kể rõ 
và mô tả về phủ Dương Xuân. 
65Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
- Năm 1750: Đức cha Lefebvre ở Phường Đúc, trong hồi ký của mình ghi 
chép rằng Noel năm 1749 đã gặp Pierre Poivre ở đây.
- Năm 1754: lấy phủ Tập Tượng phía trên thượng lưu phủ Dương Xuân để 
làm điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ.
- Năm 1765: James Bean đến gặp Võ Vương tại phủ Dương Xuân và có nhật 
ký, nhiều dòng ghi chép về phủ này.
- Năm 1774 (Giáp Ngọ): quân Trịnh bắt đầu vượt Sông Gianh để tiến vào 
chiếm Phú Xuân. Sử triều Nguyễn gọi thời điểm này là bắt đầu của thời kỳ “loạn” 
(loạn năm Giáp Ngọ).
- Năm 1775: quân Trịnh chiếm Phú Xuân, chúa Nguyễn lánh vào Nam, phủ 
Dương Xuân và điện Trường Lạc bị bỏ trống, quân Trịnh phá lấy gỗ làm củi. Sự 
việc này được Lê Quý Đôn chứng kiến và ghi lại.
- Năm 1809: Phan Huy Chú dựa vào các sử liệu cũ để tổng hợp ghi chép về 
phủ Dương Xuân.
- Năm 1821: QSQTN bắt đầu sưu tập tài liệu để viết Đại Nam thực lục, trong 
đó có nhiều dòng ghi chép về phủ Dương Xuân.
- Năm 1865: QSQTN bắt đầu nghiên cứu địa chí để viết Đại Nam nhất thống 
chí, tìm lại địa điểm phủ Dương Xuân nhưng không biết ở đâu, nên ghi là “tự kinh 
binh loạn, kim thất kỳ xứ (kể từ khi binh loạn, mất tích không rõ chỗ nào)” !
- Năm 1925: Cadière tìm ra dấu vết phủ Dương Xuân ở khu vực đình Dương 
Xuân Hạ, tại cánh đồng Bàu Vá (nay thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế) 
và công bố trên BAVH.
 Thư Hương các, Phật đản 2016
 NAH
CHÚ THÍCH
(1) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch), Đại Nam nhất thống chí (quyển thứ 
hai: Thừa Thiên Phủ), Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 56. 
(2) Cadière, “Le quartier des arènes”, BAVH, No 3/1925.
(3) Trần Đại Vinh, “Phủ Dương Xuân thời chúa Nguyễn qua đối chiếu tư liệu và thực địa”, tạp 
chí Nghiên cứu và Phát triển, Số 1 (127), 2016.
(4) Nguyễn Đắc Xuân, Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương (Sơn lăng của Hoàng đế Quang 
Trung), Nxb Thuận Hóa, Huế, 2007, Tái bản năm 2015.
(5) Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 
1963, tóm tắt các trang 33-40.
(6) P. Koffler, "Description historique de la Cochinchine"; Bài đã dẫn của Cadière, pp. 136-137.
(7) Henri Cordier, “Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine”, Revue de l’Extrême-Orient, 1887, 
t 3, pp. 81-121, 364-510.
(8) Chúng tôi chưa xác định được địa danh này.
66 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
(9) Theo chúng tôi, ý tác giả muốn chỉ các phủ.
(10) Có lẽ Pierre Poivre đã nhầm từ âm /chính/ (Phủ Chính, Chính Dinh) thành âm / kín/ tức kín đáo, 
bí mật, nên dịch sang tiếng Pháp là “palais secret” (mật điện) là một sự giải thích không đúng.
(11) Chữ “trên” ở đây chúng tôi hiểu là thượng nguồn Sông Hương, và qua đây, cho thấy phủ 
này có 2 tên tiếng Pháp khác là “palais supérieur” và “palais d'hiver”.
(12) Tức là Phủ Chính, Chính Dinh, đô thành Phú Xuân.
(13) Henri Cordier, Bài đã dẫn, phần “Des Palais du Roy”.
(14) Đây chính là Phủ Ao, còn có tên tiếng Pháp khác là "palais du marais". Sở dĩ có thể suy luận 
ra cung điện mùa hè chính là Phủ Ao, vì theo mô tả ngày 22/9/1749 của Pierre Poivre đi bằng 
thuyền ngoài biển vào Huế thì thấy cung điện mùa hè trước, sau đó mới thấy đô thành Phú 
Xuân sau, đối chiếu với vị trí địa lý hiện nay cho thấy cung điện mùa hè chính là Phủ Ao. 
(15) Dẫn lại theo Cadière, Bài đã dẫn, tr. 135.
(16) Nguyễn Sinh Duy, “Nhật ký du hành gặp vua xứ Đàng Trong của James Bean”, Nghiên cứu 
Huế, Tập 2, Trung tâm Nghiên cứu Huế, 2001, tr. 156-157.
(17) Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Nxb Hồng Bàng, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông 
Tây, 2012, tr. 194.
(18) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 112.
(19) Lê Quý Đôn, Sđd, tóm tắt từ các trang 319-321.
(20) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 302.
(21) Phan Huy Chú (Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải), Lịch triều hiến chương loại chí, 
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, Tập 1, tr. 159.
(22) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch), Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội, 2002, Tập 1, tr. 106.
(23) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 108.
(24) Đại Nam thực lục, Sđd, tr.110.
(25) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 112-113.
(26) Đại Nam thực lục, Sđd, tóm tắt từ các trang 150-151.
(27) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 154.
(28) Đại Nam thực lục, Sđd, tóm tắt từ các trang 158.
(29) Mỗi dặm là 1,6km.
(30) Xem giải thích ở phần II, mục 7.1.
(31) Pierre Poivre cũng cho biết là các phủ nằm ở ven bờ Sông Hương, và nhiều con kênh bắt 
nguồn từ sông Hương, mà Phủ Cam thì nằm ở bờ con kênh “An Cựu”, nên tiền thân sông 
An Cựu đã có từ trước, mãi đến thời Gia Long mới khơi rộng mà uốn nắn lại. 
(32) Trước năm 1744, thì gọi là “phủ”; sau năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương, đổi 
“gọi nơi phủ ở là điện”.
(33) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 81.
(34) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 103.
(35) Xem phần IV, mục 2, ở cuối bài này.
(36) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 881. Nguyên văn: "(1814) Tháng 3, ... Vét sông An Cựu... Vua đến 
Thanh Tuyền... trải xem hình thế, vời các phụ lão đến dụ bảo về công việc vét sông. Phụ lão 
thưa rằng : 'Đời xưa có ngòi lạch để phòng nắng lụt mà chứa lại hay tháo đi. Nay khai sông 
này, thực lợi cho nông dân lắm'. Bèn sai dinh thần Quảng Đức xem đo đường sông mà khai 
vét..."; như vậy trước đó đã có con lạch sẵn, nay chỉ khơi vét và làm rộng ra theo ý muốn.
67Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016
(37) Chúng ta lưu ý rằng, Pierre Poivre nói ở Huế có hơn 400 ngôi chùa (Ce qu'il y a de plus 
remarquable ensuite ce sont les pagodes qui sont en très grand nombre. On en compte 
plus de quatre cents à Hué), nhưng những mô tả về cung điện mùa đông không thấy nhắc 
gần đó có chùa nào cả!
(38) Bộ sưu tập gạch thời chúa Nguyễn để nghiên cứu, đã được nhà nghiên cứu Trần Viết Điền 
tặng cho Nhà Bảo tàng Huế (nay là Bảo tàng Văn hóa Huế).
(39) Ở đây, tôi mô tả theo hướng nhìn từ trong đình nhìn ra. 
(40) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì vị trí đó có sát bờ sông không?
(41) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì chỉ đáp ứng duy nhất 1 tiêu chí này, 
còn các tiêu chí khác thì không đáp ứng được!
(42) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì vị trí đó có gần Phường Đúc hơn ở 
Bàu Vá không ?
(43) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì vị trí đó có đối diện với một hòn đảo không?
(44) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì bên phải ở đó có con “kênh” không ?
(45) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì ở đó có một mặt bằng rộng lớn để cả 
ngàn binh sĩ “Duyệt Võ” được không?
(46) Con số thực tế còn cao hơn, vì tôi có thể đếm sót.
(47) Ở đây, ta cần hiểu rõ: sử ghi là năm Giáp Ngọ (1774), nhưng quân Trịnh chiếm Phú Xuân 
cuối năm âm lịch Giáp Ngọ tức đã chuyển sang đầu năm 1775 (Ất Mùi).
(48) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 467. Một chứng cứ khác tương tự là sách này, trang 207 đã 
viết: “Kỷ Hợi năm thứ 2 (1799) Đầu là trong CUỘC BIẾN NĂM GIÁP NGỌ, xa giá Từ 
cung đến”.
(49) Nguyễn Đắc Xuân, Sđd, tr. 82.
(50) Đây là câu hỏi phản biện 1, tôi đã đưa ra trong Hội thảo khoa học “Cung điện Đan Dương 
thời Tây Sơn tại Huế” do UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 30/10/2015, nhưng cho 
đến nay tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời nào của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân!
(51) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 67-68.
(52) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 221.
(53) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 75.
TÓM TẮT
Dựa vào 8 tài liệu hồi ký, ghi chép của những người đương thời chứng kiến phủ Dương 
Xuân của chúa Nguyễn, tác giả phân tích các tiêu chí nhận dạng về phủ này. Và dựa vào các tiêu 
chí đó, tác giả tìm kiếm thực địa nơi Cadière chỉ dẫn, để một lần nữa chứng minh khu vực đình 
Dương Xuân Hạ ở cánh đồng Bàu Vá chính là phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn.
ABSTRACT
ON DUONG XUAN RESIDENCE OF THE NGUYEN LORDS
Based on eight memoirs and records of the contemporaries who witnessed Duong Xuan 
Residence of the Nguyen Lords, the author analyzes the criterias for recognition of this residence. 
Based on those criterias, the author carried out the surveys in the place where Cadière had 
instructed to reaffirm that the area of Duong Xuan Ha communal house in Bàu Vá fields was 
Duong Xuan Residence of the Nguyen Lords.

File đính kèm:

  • pdfve_phu_duong_xuan_cua_chua_nguyen.pdf