Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn

Văn hóa luôn tiềm ẩn trong diễn ngôn. Vì vậy khi giao tiếp người nói/viết cũng như

người tiếp thụ diễn ngôn không thể không có vốn kiến thức nền về văn hóa của cộng đồng bản

ngữ. Bài viết thảo luận vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong tạo lập và tiếp nhận diễn

ngôn thông qua mối quan hệ với (1) năng lực diễn ngôn (2) mạch lạc diễn ngôn, và (3) giao tiếp

liên văn hóa. Qua đó, bài viết quan niệm rằng, về nguyên tắc, người giao tiếp càng có nhiều kiến

thức và kinh nghiệm sống cũng như trình độ văn hóa, giáo dục cao thì càng có năng lực diễn ngôn

cao. Bên cạnh đó, kiến thức văn hóa nền cũng giúp kiến tạo mạch lạc diễn ngôn. Cuối cùng, kiến

thức văn hóa nền cũng quyết định phần lớn thành công trong bối cảnh giao tiếp liên văn hóa.

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 1

Trang 1

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 2

Trang 2

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 3

Trang 3

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 4

Trang 4

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 5

Trang 5

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 6

Trang 6

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 7

Trang 7

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 8480
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn

Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình thành và tiếp nhận diễn ngôn
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 
 25 
Vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong việc hình 
thành và tiếp nhận diễn ngôn 
Ngô Hữu Hoàng* 
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa các nước nói tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận bài : 25 tháng 12 năm 2011 
 Nhận đăng : 20 tháng 3 năm 2012 
Tóm tắt. Văn hóa luôn tiềm ẩn trong diễn ngôn. Vì vậy khi giao tiếp người nói/viết cũng như 
người tiếp thụ diễn ngôn không thể không có vốn kiến thức nền về văn hóa của cộng đồng bản 
ngữ. Bài viết thảo luận vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền trong tạo lập và tiếp nhận diễn 
ngôn thông qua mối quan hệ với (1) năng lực diễn ngôn (2) mạch lạc diễn ngôn, và (3) giao tiếp 
liên văn hóa. Qua đó, bài viết quan niệm rằng, về nguyên tắc, người giao tiếp càng có nhiều kiến 
thức và kinh nghiệm sống cũng như trình độ văn hóa, giáo dục cao thì càng có năng lực diễn ngôn 
cao. Bên cạnh đó, kiến thức văn hóa nền cũng giúp kiến tạo mạch lạc diễn ngôn. Cuối cùng, kiến 
thức văn hóa nền cũng quyết định phần lớn thành công trong bối cảnh giao tiếp liên văn hóa. 
Từ khóa: văn hóa, kiến thức văn hóa, diễn ngôn, năng lực diễn ngôn, mạch lạc, giao tiếp liên văn 
hóa. 
Ngôn ngữ chứa đựng nhiều ý nghĩa hơn bạn tưởng, và văn 
hóa là nơi mà bạn tìm thấy được những ý nghĩa ấy” 
(Language carries more meaning than you ever dreamed, and 
culture is where you find them.) Michael Agar [1] 
1. Dẫn nhập* 
Trong giao tiếp hằng ngày, diễn ngôn mang 
trong nó những nét đặc thù văn hóa, xã hội của 
cộng đồng sản sinh ra nó, dù đó là một văn bản 
dài như bài diễn văn của các chính khách hay 
chỉ là một câu chào hỏi xã giao, trao đổi thông 
tin giữa hai thành viên xã hội mỗi ngày. Thế 
nhưng, Bloomfield trong công trình nổi tiếng 
_______ 
*
 Tác giả liên hệ. ĐT: 84-1647 087 320 
 Email: hhoang161@yahoo.com 
của mình, The Language [2], tuy theo hướng 
mô tả hình thức ngôn ngữ, đã mở đầu bằng một 
nhận định rất hợp lí rằng: “Có lẽ vì sự quá quen 
thuộc của ngôn ngữ đến độ chúng ta coi nó như 
việc chúng ta đi, chúng ta thở hằng ngày nên 
chúng ta rất ít khi quan sát nó”. Một người bản 
ngữ thường vẫn có suy nghĩ về việc sử dụng 
ngôn ngữ kiểu như “Tôi nói những gì tôi hiểu” 
và “Tôi hiểu những gì tôi nghe”. Thật vậy, khi 
quan sát mẩu đối thoại sau đây giữa hai người 
dân Hà Nội: 
N.H. Hoàng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 
26 
(1) A: Hôm nay rét quá. 
 B: Mai ông Táo về trời rồi còn gì! 
 A: Thế à! Mua cá chép chưa? 
 ... 
thì một người nói tiếng Việt, đặc biệt sống ở 
vùng Bắc Bộ, thấy rất đỗi bình thường, tưởng 
chừng như chẳng có gì đáng quan tâm. Tuy 
nhiên, diễn ngôn giống như một tảng băng trôi, 
qua đó những điều đơn giản chỉ là phần nổi có 
thể thấy được của tảng băng. Quan sát phần 
chìm, chúng ta có thể nhận ra hàng loạt các vấn 
đề ngoài ngôn ngữ mang đậm nét văn hóa, tuy 
không được nói ra nhưng lại là nền tảng hoạt 
động của diễn ngôn. Những yếu tố này luôn có 
mối quan hệ đan xen nhau, đòi hỏi sự quan sát 
nhạy bén, phân tích phức hợp. Cụ thể với mẩu 
đối thoại trên, A và B không cần phải nói ra 
ông Táo là ai, khi nào là thời điểm “về trời” của 
ông Táo, tại sao là cá chép mà không phải là bất 
kỳ một loại cá nào khác,... Bởi lẽ, đó là kiến 
thức văn hóa như kiến thức nền mà hai người 
cùng có, cùng chia sẻ để “điều hành” diễn ngôn. 
Chính đó là “Tôi nói những gì tôi hiểu” và “Tôi 
hiểu những gì tôi nghe”. Chỉ cần một trong hai 
thành viên giao tiếp không có nền tảng văn hóa 
với vấn đề mà họ đang nói thì họ không thể 
nào hiểu nhau, hoặc chí ít, không thể có những 
thông điệp giao tiếp bản ngữ hoàn chỉnh và trôi 
chảy giữa họ, những người nói tiếng Việt, như 
trong mẩu đối thoại trên. Từ suy nghĩ này, 
chúng tôi xin có một vài thảo luận tản mạn về 
vai trò của văn hóa và kiến thức văn hóa nền 
(sau đây sẽ được gọi chung là kiến thức văn hóa 
nền-viết tắt là KTVH nền) trong tạo lập và tiếp 
nhận diễn ngôn thông qua mối quan hệ giữa (1) 
KTVH nền với năng lực diễn ngôn (2) KTVH 
với việc kiến tạo mạch lạc diễn ngôn, và (3) 
KTVH nền trong giao tiếp liên văn hóa 
(intercultural communication). 
2. KTVH nền với năng lực diễn ngôn 
2.1. KTVH nền có thể coi như kiến thức mà 
qua đó diễn ngôn được hình thành và phát 
triển. 
Theo Nguyễn Hòa [3] , kiến thức nền “được 
hiểu như là kiến thức văn hóa và kiến thức về 
tất cả các loại thế giới bao gồm cả thế giới thực 
hữu và thế giới tưởng tượng, về kinh nghiệm, 
về các qui tắc hành xử trong xã hội và giao 
tiếp” hoặc theo Cutting [4], đơn giản đó là 
những gì mà “người nói biết về nhau và biết về 
thế giới” (What speaker know about each ther 
and the world) hoặc đó là “những gì mà hầu hết 
mọi người có trong tư duy về những lĩnh vực 
của cuộc sống” (It refers to what most people 
carry with them in their minds, about areas of 
life). 
Không khó khăn để nhận thấy rằng người 
giao tiếp đã sử dụng KTVH nền để hiểu diễn 
ngôn. Yule [5] đưa ra thuật ngữ “lược đồ” 
(schema) để chỉ một cấu trúc kiến thức mang 
tính qui ước (conventional knowledge structure) 
mà tác giả cho rằng nó tồn tại trong tư duy 
người nói và được sử dụng trong việc hiểu 
những gì đã hoặc/và đang trải ngiệm. Quay lại 
với ví dụ (1) ở phần giới thiệu, người ta có thể 
thấy (A) và (B) vốn đã có sẵn một lược đồ tổng 
quát về sự việc “trời rét” (vào mùa đông), “ông 
Táo”, “cá chép”, và mối quan hệ của các khái 
niệm này tạo mạch lạc cho diễn ngôn (Xem 3. 
KTVH nền với mạch lạc diễn ngôn). Từ đó, theo 
lí thuyết “lược đồ” của Yule, kịch bản (script) 
đã xảy ra với mẩu đối thoại gồm có một loạt 
các hoạt động hoặc thông tin qui ước, không 
cần được nói trong diễn ngôn: 
Mối quan hệ thời điểm và sự kiện ông Táo 
về trời; 
Ông Táo là gì (ai ) ; 
Cá chép trong mối quan hệ với ông Táo ; 
N.H. Hoàng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 27 
Van Dijk [6] đưa ra một lí th ...  đó. Sau đây là 
mẩu thoại giữa hai người: 
4) Vợ: What’s the matter, Jack? Why are 
you getting up too early? 
 Chồng: It’s a Black Friday today, honey! 
 Vợ: Oh, I see, good luck, honey! 
Câu trả lời của người chồng đã hóa giải 
những thắc mắc của người vợ về hành động dậy 
sớm của chồng mình (thông qua câu trả lời cuối 
cùng). Người vợ đã hoàn toàn hiểu được lí do 
chồng mình dậy sớm mà không cần được giải 
thích thêm nhờ vào lược đồ văn hóa hay nói 
theo van Dijk là mô hình ngữ cảnh của người 
vợ chứa đựng vốn kiến văn giữa các chủ thể 
giao tiếp có chung KTVH nền. Cụ thể là tập 
ngữ “Black Friday” được người vợ giải mã. Nó 
hàm chứa trong diễn ngôn như kiến thức văn 
hóa mặc định, được tiền giả định trong diễn 
ngôn rằng: ngày thứ Sáu sau ngày lễ Tạ Ơn 
(Thanksgivings luôn luôn rơi vào ngày thứ Năm 
thứ 4 của tháng 11) ở Mỹ là ngày mở đầu cho 
một mùa mua sắm chuẩn bị lễ Giáng Sinh. 
Trong ngày thứ Sáu này, các siêu thị bán lẻ mở 
cửa rất sớm (thường là 4 giờ sáng hoặc có thể 
sớm hơn) để bán hàng giảm giá nhưng số lượng 
có hạn. Người Mỹ muốn mua được ít nhất một 
N.H. Hoàng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 29 
món hàng giảm giá trong ngày để lấy hên nên 
họ tranh nhau xếp hàng rất sớm, coi như một 
sinh hoạt văn hóa vui vẻ và truyền thống của 
họ. (Nguồn: 
Như vậy, nghĩa “phần chìm” của nó làm nên 
mạch lạc vì nó hoàn toàn có mối quan hệ với 
việc “dậy sớm” của người chồng. Từ nghĩa của 
“phần chìm” ấy, các “phần chìm” khác của diễn 
ngôn, bằng những “kịch bản” có sẵn (scripts) 
trong mô hình ngữ cảnh của người vợ, lần lượt 
được làm rõ qua sự “diễn dịch” câu trả lời của 
người chồng, chẳng hạn, ông sẽ đến một siêu 
thị nào đó, xếp hàng, và tranh thủ mua một 
hoặc một vài món đồ giảm giá,Nói một cách 
ngắn gọn, người vợ có thể hiểu hàm ngôn của 
người chồng thông qua KTVH nền của bà xuất 
phát từ sự giải mã ý nghĩa tiền giả định của 
“Black Friday” trong diễn ngôn. Vì vậy khi bà 
chúc chồng may mắn bằng cách nói “good 
luck”, người chồng cũng hoàn toàn có thể “giải 
mã” hàm ngôn của vợ là bà mong chồng mua 
được một món hàng ưng ý. Mẩu đối thoại nhờ 
đấy mà hoàn toàn mạch lạc. Nếu thay “Black 
Friday” bằng “July 4” hoặc “New Year Day” 
hoặc “Nine One One” thì mạch lạc này sẽ 
không còn tồn tại nữa vì KTVH nền, nói cách 
khác là kiến thức “ngoài ngôn ngữ” của người 
vợ về những từ ngữ ấy không giống như “Black 
Friday”. 
Qua đó, có thể nói KTVH nền là thông tin 
không được đề cập đến trong diễn ngôn vì nó 
vốn được chứa đựng trong “mô hình ngữ cảnh” 
của người nói và người nghe và họ mặc nhiên 
mỗi bên đều phải biết. Van Dijk [6] phát biểu 
rằng ‘điều này cho phép người nói/đọc chọn lọc 
thông tin có quan hệ đã có trong mô hình tư duy 
trừu tượng của họ về các sự kiện muốn nói hoặc 
viết”. Theo chúng tôi, đó là một “cơ chế ngầm” 
kích hoạt và duy trì hoạt động diễn ngôn, nghĩa 
là, nó “điều hành” cơ cấu diễn ngôn sao cho 
chuỗi này gắn kết với chuỗi kia để mạch lạc về 
nghĩa mà không cần thiết có một qui ước hình 
thức nào. Nếu không có cơ chế này, một cách 
nói có tính “siêu ngôn ngữ” phải được sử dụng 
thường xuyên (như kiểu giải thích ngày “Black 
Friday” bên trên) để có mạch lạc. Tình hình như 
vậy là khó có thể xảy ra trong giao tiếp bản ngữ 
bình thường vì không ai có thể có đủ thời gian 
và sự kiên nhẫn để luôn “giải đáp” kiến thức 
cho người nghe vì thông thường họ đã mặc 
nhiên cho rằng đối tác có năng lực tối thiểu để 
giao tiếp. Nhờ “cảm nhận” và “chấp nhận” yếu 
tố “ngoài ngôn ngữ” (rất trừu tượng) thông qua 
việc chia sẻ KTVH nền (cũng rất trừu tượng), 
các thành viên giao tiếp có thể gắn kết và hiểu 
diễn ngôn của nhau. Nói cách khác, cho dù các 
chuỗi diễn ngôn có thế nào trong mối quan hệ 
về hình thức thì chúng vẫn mạch lạc trong sự 
tương tác giữa thành phần giao tiếp nhờ có 
KTVH “làm sẵn” trong lược đồ văn hóa của họ. 
 4. KTVH nền với giao tiếp liên văn hóa 
(intercultural communication) 
 4.1. Bàn về giao tiếp liên văn hóa 
Nguyễn Hòa [3] đã đặt vấn đề (1) Về thực 
chất mối quan hệ giữa văn hóa và giao tiếp là 
gì?; (2) Yếu tố gì trong văn hóa thực sự tác 
động đến giao tiếp liên văn hóa? Không phải 
ngẫu nhiên mà hai câu hỏi trên cũng chính là 
mối quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu 
ngôn ngữ học xã hội, phân tích diễn ngôn, ngữ 
dụng học cũng như những chuyên ngành tương 
cận hiện nay. Trong giới hạn của phần này, 
chúng tôi chỉ xin bàn đến một trong những tác 
động quan trọng là KTVH nền lên quá trình 
giao tiếp liên văn hóa. Cụ thể hơn, KTVH nền 
tác động thế nào lên việc thành lập và hiểu diễn 
ngôn của các thành viên đến từ các nền văn hóa 
khác nhau. 
N.H. Hoàng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 
30 
Như đã biết, khi nhiều người khác văn hóa, 
vì những lí do, mục đích nào đó, đến với nhau, 
cố gắng hiểu nhau thông qua một ngôn ngữ mà 
ít nhất một trong các bên giao tiếp coi là ngôn 
ngữ trung gian thì quá trình giao tiếp có khả 
năng không diễn ra trơn tru, suôn sẻ như giao 
tiếp nội văn hóa. Có những khó khăn hoặc thậm 
chí thất bại trong loại giao tiếp này với lí do 
không chỉ vì thiếu hụt từ vựng, cú pháp mà còn 
là sự nghèo nàn về KTVH nền của nhau. Chúng 
tôi xin kể hai câu chuyện hoàn toàn có thật và 
cũng hoàn toàn hợp lí khi chúng đã xảy ra. 
Câu chuyện thứ nhất về một sinh viên người 
Mỹ sang Việt Nam học tiếng Việt và văn hóa 
Việt Nam tại Hà Nội. Tên anh ta là Brian. Sau 
một năm miệt mài học tập, vốn tiếng Việt của 
Brian khá tốt để giao tiếp. Một hôm, anh ta đã 
có một cuộc nói chuyện tay ba với hai cô sinh 
viên Hà Nội bằng tiếng Việt. Chuyện qua 
chuyện về, có lúc Brian nghe được hai cô gái 
nói như sau: 
(5) Cô gái A: Bố tớ năm sau về hưu rồi. 
 Cô gái B: Thế à? Vậy là bố cậu nhiều 
hơn bố tớ ba tuổi đấy. 
Brian định hỏi hai cô gái ngay lúc ấy nhưng 
chủ đề của cuộc đối thoại thay đổi quá nhanh 
khiến anh ta không kịp bày tỏ những thắc mắc 
của mình với hai cô gái, nhất là về số tuổi của 
hai người bố. Brian mang luôn thắc mắc này về 
Mỹ và cho đến khi gặp tôi, anh ta mới hiểu bố 
cô gái (A) là 59 tuổi và bố cô gái (B) là 56 tuổi 
dựa trên một tiền giả định và cũng là KTVH 
nền của hai cô gái mà Brian không biết : Ở Việt 
Nam, theo luật định, viên chức là nam giới về 
hưu lúc 60 tuổi. Một KTVH nền khác, cũng 
không kém trừu tượng và thú vị mà nếu Brian 
là người Việt thì chắc tôi chẳng mất nhiều thời 
gian để giải thích với anh ta, đó là tại sao người 
Việt Nam rất hay nói về tuổi tác. 
Câu chuyện thứ hai liên quan đến chính bản 
thân người viết bài này trong những ngày tháng 
đầu tiên sống và làm việc trên đất Mỹ. Tôi nói 
với một người Mỹ mới quen trên xe buýt rằng 
tôi sẽ ở Mỹ không lâu nên không muốn mua 
giường tủ, bàn ghế mới mà chỉ cần tìm mua các 
thứ cũ, dùng rồi để có giá rẻ hơn. Anh ta lập tức 
khuyên tôi tìm đến một “yard sale”. Sau khi 
nghe anh ta khuyên như vậy, tôi cả mừng và bỏ 
ra suốt ngày hôm ấy để đi tìm một cửa hiệu có 
tên “yard sale” hay chí ít cũng có một đặc tính 
nào đó có quan hệ với từ này. Kết quả tôi đã trở 
về tay không. Tôi thất bại vì đã thiếu hai kiến 
thức. Một là, “yard sale” chẳng phải một cửa 
hiệu buôn bán chuyên nghiệp gì cả. Đó chỉ là 
một danh từ chỉ một hoạt động mua bán dân dã, 
xảy ra trên sân nhà (yard) của những gia đình 
Mỹ, nơi đó họ bày bán rất rẻ (sale) bất kì đồ đạc 
gì họ không cần sử dụng nữa. Hai là, cũng 
không kém phần thú vị, hoạt động này chỉ xảy 
ra vào những ngày cuối tuần (vì cuối tuần thì 
người ta mới rảnh rỗi để làm công việc mua bán 
lặt vặt này). Không may cho tôi, hôm ấy lại là 
thứ Năm! Anh chàng người Mỹ trên xe buýt đã 
khuyên tôi đến đúng chỗ nhưng đã quên một 
điều là tôi không phải là người Mỹ như anh ta 
và tệ hại hơn, chỉ mới đặt chân lên đất Mỹ vài 
ngày. Anh ta đã quên sử dụng “siêu ngôn ngữ” 
(mà trong tình huống này là rất cần thiết) để 
giải thích “yard sale” là gì cho tôi hiểu. Rõ 
ràng, cái mà người ta cho rằng thuộc ngữ âm, từ 
vựng và cú pháp không hề có tác động gì trong 
hai câu chuyện trên. Bằng chứng là nếu nói 
Brian không hiểu diễn ngôn thì sao anh ta cứ 
canh cánh mãi số tuổi của hai người bố. Còn 
tôi, nếu không hiểu thì cũng không mất công 
một ngày để đi tìm cái gọi là “yard sale” trong 
ngày thứ Năm. Nhưng nói “hiểu” thì cũng 
không đúng khi mà cả Brian và tôi đều thất bại 
vì không tìm ra được “đáp số” của diễn ngôn. 
N.H. Hoàng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 31 
 4.2. Với tình hình đó, có thể hiểu rằng 
trong bất kì cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc nào giữa 
các thành viên khác văn hóa với nhau, KTVH 
nền vẫn luôn là yếu tố vô cùng quan trọng để 
giao tiếp thành công và chắc chắn họ phải nhận 
ra rằng “họ có thể nắm bắt được các từ ngữ 
nhưng không dễ dàng nắm bắt được các thông 
điệp truyền tải” [7]. 
KTVH nền đóng một vai trò quan trọng 
trong năng lực giao tiếp liên văn hóa vì nó cũng 
là một trong các chuẩn mực làm nên năng lực 
diễn ngôn trong giao tiếp với các thành viên 
khác văn hóa. Luke Prodromou [8] nhận định 
“kiến thức về văn hóa đích luôn là một bộ phận 
quan trọng của quá trình học ngoại ngữ, đặc 
biệt là các bậc cao”. Saville-Troike [9] đề nghị 
một người học ngoại ngữ nên được đào tạo ba 
năng lực là 1) Kiến thức ngôn ngữ (linguistic 
knowledge) 2) Kỹ năng tương tác (interactive 
skills) và (3) Kiến thức văn hóa (cultural 
knowledge). Thoạt nhìn, người ta cứ tưởng chỉ 
có năng lực (2) và (3) là thuộc về KTVH nền 
nhưng qua thực tế, dễ thấy ngay cả trong năng 
lực (1) (kiến thức về ngôn ngữ) cũng vẫn tiềm 
ẩn KTVH nền một cách sâu sắc. Điều này càng 
thể hiện rõ thông qua kiến thức về từ vựng (như 
các ví dụ trên trong bài viết). Về nguyên tắc, từ 
ngữ khi đã được dùng trong diễn ngôn, tức là 
xuất hiện trong một văn bản với một ngữ cảnh 
cụ thể nào đó đều mang trong nó những ý nghĩa 
văn hóa xã hội của cộng đồng bản ngữ sản sinh 
ra nó. 
Ngoài ra, có sự khác biệt lớn giữa năng lực 
diễn ngôn trong giao tiếp nội văn hóa và liên 
văn hóa, đó là, với người bản ngữ, đa phần 
KTVH nền thuộc về “ngữ năng mang tính bản 
năng” trong khi đối với người nước ngoài thì 
KTVH nền cần được cung cấp và luyện tập. Ví 
dụ, mặc dầu tiếng Việt là ngôn ngữ của một nền 
văn hóa tôn ti, với một hệ thống đại từ xưng hô 
phong phú và phức tạp, nhưng đối với một 
người Việt đã trưởng thành thì khả năng làm 
chủ nó là chuyện bất tất phải bàn cãi. Tuy 
nhiên, đối với người nước ngoài (như anh 
chàng sinh viên Mỹ nói trên) thì tình hình sẽ 
gay go hơn nhiều. Việc luyện tập từng từ một 
cho từng đối tượng phải xưng hô trong từng 
ngữ cảnh và câu hỏi “tại sao” phải xưng hô như 
vậy luôn làm họ trăn trở. Cuối cùng, thời gian 
tiếp xúc với văn hóa và ngôn ngữ mà một người 
sử dụng trong bối cảnh giao tiếp liên văn hóa 
cũng sẽ tỉ lệ thuận với KTVH nền mà anh ta sẽ 
đạt được về ngôn ngữ ấy. 
5. Kết luận 
Văn hóa có mặt khắp nơi trong diễn ngôn. 
Nó là nền tảng của giao tiếp mà người tham gia 
cần được trang bị với tư cách KTVH nền. 
KTVH nền giúp chủ thể giao tiếp hình thành và 
tiếp nhận diễn ngôn. Vì vậy, có thể nói năng lực 
diễn ngôn của người giao tiếp lệ thuộc phần lớn 
vào KTVH nền mà họ có được. Và, nếu hiểu 
mạch lạc diễn ngôn là sự gắn kết các chuỗi diễn 
ngôn của người giao tiếp về mặt nội dung thì 
KTVH nền là một trong các yếu tố làm nên 
mạch lạc hiệu quả nhất. Nói về giao tiếp liên 
văn hóa, người tham gia cũng có thể thành công 
nếu có đủ KTVH nền nhưng cũng có thể thất 
bại nếu thiếu một nền tảng tối thiểu về KTVH 
nền của ngôn ngữ mà họ đang sử dụng. 
Tài liệu tham khảo 
[1] M. Agar, Language Shock. New York: William 
Morrow and Company, Inc, 1994. 
[2] L. Bloomfield, Language. Chicago and London: 
The University of Chicago Press, 1984. 
[3] Nguyễn Hòa, Phân tích diễn ngôn: Một số vấn 
đề lí luận và phương pháp. Nxb. Đại học Quốc 
gia Hà Nội, 2008. 
N.H. Hoàng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 25-32 
32 
[4] J. Cutting, Pragmatics and Discourse. New 
York and Lodon: Routledge, 2002. 
[5] G. Yule, The study of Language. Cambridge: 
CUP, 2004. 
[6] Van Dijk, The Discourse-Knowledge Interface. 
In Gilbert Weiss & Ruth Wodak (Eds.), Critical 
Discourse Analysis. Theory and 
Interdisciplinarity. (pp. 85-109). Houndsmills, 
UK: Palgrave-MacMillan, 2003. 
[7] Nguyễn Quang, Giao tiếp và Giao tiếp giao văn 
hóa. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002. 
[8] L. Prodromou, What Culture? Which Culture? 
Crosscultural Factors in Language Learning, 
ELT Journal, Vol. 46/1/ OUP, 1992. 
[9] M. Saville-Troike, The Ethnography of 
Communication: An Introduction. Basi 
Blackwell, 1986. 
The Role of Culture and Background Knowledge of Culture in 
Discourse formation and interpretation 
 Ngo Huu Hoang 
Faculty of linguistics and cultures of English-speaking countries, University of Languages and 
International Studies,Vietnam National University, Hanoi, Pham Van Dong Street, Cau Giay, Hanoi, 
Vietnam 
Culture-specific features are potentially exists in discourse. Therefore, when communicating, the 
speaker/writer and the hearer/reader are strongly supposed to have as much cultural knowledge of the 
language community as they can. In this sense, the article tried to discuss the role of culture and 
cultural knowledge in formation and interpretation in relation to (1) discourse competence (2) 
coherence và (3) intercultural communication. By (1), the article indicates that in oreder to form and 
interpret discourse, the more life experience or/and education the communicative participant has, the 
more fluent s/he is. By (2), cultural knowledge is unspoken but is what makes discourse coherence. By 
(3), in intercultural communication, cultural knowledge of the language used is necessary for 
participants to gain communicative a success. 
Key words: culture, culture knowledge, discourse, discourse competence, coherence, intercultural 
comunication. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_van_hoa_va_kien_thuc_van_hoa_nen_trong_viec_hinh.pdf