Ứng dụng logic phi hình thức trong lập luận ngôn ngữ tự nhiên và phát hiện ngụy biện
Logic phi hình thức là logic được sử dụng trong các lập luận ngôn ngữ tự nhiên và được xem là phương
thức tốt nhất để phát hiện các lí lẽ ngụy biện trong lí lẽ đời thường. Logic phi hình thức được sử dụng để
đánh giá, phân tích và cải thiện các lí lẽ đời thường trong quá trình trao đổi giữa cá nhân, trong quảng
cáo, tranh luận chính trị, tranh cãi pháp lý cũng như trong các hình thức truyền thông đại chúng. Để lập
luận một cách hợp lý, chúng ta phải: (1) lập luận trên cơ sở các tiền đề hợp lý, (2) có tất cả thông tin liên
quan củng cố, bổ trợ cho tiền đề, và (3) lập luận một cách hợp lý. Trái với lập luận chặt chẽ, đó là ngụy
biện. Ngụy biện là những kiểu lập luận sai nhưng lại có vẻ như là kiểu lập luận đúng. Lập luận một cách
ngụy biện khi không đáp ứng ba tiêu chí trên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng logic phi hình thức trong lập luận ngôn ngữ tự nhiên và phát hiện ngụy biện
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 73 (01/2021) No. 73 (01/2021) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 53 ỨNG DỤNG LOGIC PHI HÌNH THỨC TRONG LẬP LUẬN NGÔN NGỮ TỰ NHIÊN VÀ PHÁT HIỆN NGỤY BIỆN Applying informal logic in natural language argumentation and detecting fallacies ThS. Nguyễn Hoàng Hiệp Đài Truyền hình TP.HCM TÓM TẮT Logic phi hình thức là logic được sử dụng trong các lập luận ngôn ngữ tự nhiên và được xem là phương thức tốt nhất để phát hiện các lí lẽ ngụy biện trong lí lẽ đời thường. Logic phi hình thức được sử dụng để đánh giá, phân tích và cải thiện các lí lẽ đời thường trong quá trình trao đổi giữa cá nhân, trong quảng cáo, tranh luận chính trị, tranh cãi pháp lý cũng như trong các hình thức truyền thông đại chúng. Để lập luận một cách hợp lý, chúng ta phải: (1) lập luận trên cơ sở các tiền đề hợp lý, (2) có tất cả thông tin liên quan củng cố, bổ trợ cho tiền đề, và (3) lập luận một cách hợp lý. Trái với lập luận chặt chẽ, đó là ngụy biện. Ngụy biện là những kiểu lập luận sai nhưng lại có vẻ như là kiểu lập luận đúng. Lập luận một cách ngụy biện khi không đáp ứng ba tiêu chí trên. Từ khóa: lập luận, logic phi hình thức, ngôn ngữ tự nhiên, ngụy biện ABSTRACT Informal Logic is the study of logic as used in natural language arguments and considered the best way to detect fallacious arguments in informal reasoning. Informal logic is used to assess, analyse and improve the informal reasoning in the course of personal exchange, advertising, political debate, legal argument, and in other forms of mass media. To reason cogently, we must: (1) reason from justified premises, (2) include all relevant information at our disposal, and (3) reason validly. Contrary to the cogent reasoning, it is a fallacy. Fallacies are patterns of poor reasoning which appear to be patterns of good reasoning. We reason fallaciously when we do not satisfy 3 criteria above. Keywords: argumentation, informal Logic, natural languages, fallacies 1. Đặt vấn đề Đối tượng của logic nói chung, và logic hình thức nói riêng là cấu trúc hình thức khái quát và quy luật của tư duy. Trong logic người ta xây dựng những phương pháp tiếp cận và nhận thức thế giới. Đó là xây dựng những khái niệm, phán đoán, các phương pháp suy luận, nêu giả thuyết, chứng minh, bác bỏ, v.v. Con người không thể tư duy nếu không dùng đến ngôn ngữ. Khái niệm được thể hiện bằng từ ngữ, phán đoán được thể hiện bằng câu, suy luận được thể hiện bằng chuỗi câu. Cho nên ngôn ngữ được sử dụng như một công cụ để tư duy, diễn đạt những điều chúng ta tư duy thành những diễn ngôn. Trong quá trình giao tiếp, con người cũng thông báo, biểu đạt tư tưởng, chứng minh, Email: hoanghieptv77@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) 54 thuyết phục, lập luận, bác bỏ... nghĩa là chúng ta đều tư duy. Vì vậy, cũng có những quy luật ngôn từ để biểu hiện, phản ánh tư duy và tiếp nhận thông tin. Đi đôi với lập luận đúng là lối nói ngụy biện, lập luận sai. Ngụy biện là những kiểu lập luận sai nhưng lại có vẻ như là kiểu lập luận đúng; nó khiến người nghe hoặc người tiếp nhận thông tin “bị đánh lừa” lập luận đó tưởng là đúng nhưng thực ra là sai do bị đánh tráo khái niệm hoặc một lí lẽ, thông tin nào đã bị giấu đi. 2. Nội dung chính 2.1. Logic phi hình thức xuất phát từ lập luận đời thường Logic là bộ môn giúp nâng cao khả năng tư duy, nhận xét, phân tích, đánh giá vấn đề. Với quan niệm như trên, nhiều người đã nhận định: logic có thể được đưa vào ứng dụng trong lập luận ngôn ngữ tự nhiên. Lập luận trong ngôn ngữ tự nhiên là các diễn ngôn đời thường mà chúng ta thường xuyên thực hiện như giải quyết các tranh cãi, tranh luận, thực hiện các yêu cầu về thông tin, xử lý các vấn đề tranh luận.v.v. Tuy nhiên những ai đã từng nghiên cứu sâu logic sẽ nhận thấy rằng khả năng “nội lực” của logic để giải quyết tất cả các vấn đề thực tế trong cuộc sống xã hội hàng ngày rất hạn chế ở một số phương diện quan trọng. Logic hình thức cho ta các quy luật để hình thành các khái niệm, các phán đoán và đặc biệt các phương pháp suy lý để tiến hành các lập luận trên các phán đoán đó. Một đặc điểm cơ bản của logic hình thức là xem mỗi phán đoán hoặc đúng, hoặc sai. Logic hình thức thường không quan tâm đến nội dung của các phán đoán, mà chỉ quan tâm đến các quan hệ chuyển đổi giá trị chân lý của các phán đoán. Các quy luật cơ bản của logic hình thức là quy luật đồng nhất (A là A), quy luật bài trung (A hoặc không A), quy luật phi mâu thuẫn (không thể đúng cả A và không A). Logic hình thức là logic hai giá trị, nó đòi hỏi mọi phán đoán mà nó xét phải có giá trị đúng hoặc sai (Phan Đình Diệu, 1993, tr.34). Ví dụ: Logic có mệnh đề Nếu A thì B Như trong mệnh đề toán “Nếu số nào chia hết cho 6 thì số đó cũng chia hết cho 2”. Ở trường hợp này, chia hết cho 6 là điều kiện đủ để chia hết cho 2. Từ (A) sẽ suy ra mệnh đề phản – đảo tương đương: Nếu không B thì không A Như trong mệnh đề “Nếu số nào không chia hết cho 2 (như các số 3, 5, 7) thì cũng không chia hết cho 6”. Trong trường hợp này. Chia hết cho 2 là điều kiện cần để chia hết cho 6. Tuy nhiên trong diễn ngôn đời thường, ngưởi ta còn coi A là điều kiện đủ duy nhất của (B). Nghĩa là từ (A) sẽ “suy ra” không đúng một cách logic những mệnh đề (C), (D): (C) Nếu không A thì không B (D) Nếu B thì A Nhưng trong đời sống, ta lại thường gặp nhiều phán đoán mà tính đúng sai khó được xác định rõ ràng. Trong các trường hợp đó, khó có thể thực hiện các lập luận logic hình thức, nhất là khi gặp phải các lập luận, lí lẽ trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt gặp phải các lập luận “cố ý” làm cho người tiếp nhận hiểu lầm, hiểu sai sự thật – ngụy biện (Nguyễn Đức Dân, 2018, tr.67). Trong thực tế đã xuất hiện ... hông thuyết phục vì người nói không chứng minh vì sao người chuyên làm kinh tế/kinh doanh (có chuyên môn về kinh tế) lại không thể nói chuyện về khoa học không gian. Bởi lẽ chưa chắc người làm kinh tế lại không biết gì về khoa học không gian, v.v. Biết đâu người làm kinh tế nhưng họ có nghiên cứu về vũ trụ, không gian hoặc trước đây bản thân họ là nhà khoa học không gian nhưng không làm khoa học mà chuyển sang làm kinh tế. Nguỵ biện công kích tinh vi ở chỗ trong chi tiết có thể là những tình huống đúng, dựa vào đó người ta lập luận theo một hướng trái chiều, gây bất lợi cho cá nhân (bị tấn công) thay vì căn cứ những tình huống đó để đưa ra những lý lẽ tốt. Tấn công vào hoàn cảnh đối phương bằng cách chỉ ra đối phương đơn thuần chỉ sinh ra từ hoàn cảnh, mục đích (gia đình, trình độ học vấn, nghề nghiệp) của họ cho nên không đúng trong trường hợp tổng quát. Đây cũng chính là nguỵ biện công kích cá nhân. Ví dụ: Anh làm được như người ta đi rồi hẵng nói. Có giỏi thì làm như họ đi. Kiểu lập luận này thường gặp các bình luận (comments) trên các mạng xã hội như Facebook, Youtube, Twitter.v.v. 2.3.2. Ngụy biện lợi dụng uy tín Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Đây là kiểu lý lẽ, điều gì của người uy tín nổi tiếng cũng đúng; nếu nói khác, là sai. Ví dụ: “Mẹ không biết vì sao con mặc kiểu áo này đâu. Mark Zuckerberg bao giờ cũng mặc áo thun kiểu này”. Người con đã dùng kiểu ngụy biện lợi dụng uy tín. Đây là lập luận sai bởi Mark Zuckerberg không phải là chuyên gia thời trang (Mark Zuckerberg là một tỉ phú, đồng sáng lập của Facebook). Thực tế, nhiều người nổi tiếng, nhưng có những lĩnh vực họ không rành nên xảy ra kiểu ngụy biện này về lĩnh vực, về sở trường của người được viện dẫn. Trong kiểu ngụy biện này còn có ngụy NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 59 biện nặc danh. Đó là kiểu ngụy biện với những lí lẽ được viện dẫn hay trích dẫn nhưng lại không nói đích danh đó là ai. Thậm chí chính người lập luận cũng không biết chuyên gia ở đây là ai. Nên người lập luận theo tin đồn. Kiểu ngụy biện này khá là phổ biến hiện nay, nhất là trên báo chí, truyền thông; không muốn nói rõ nguồn tin từ đâu, ai nghiên cứu, khi nào. Cách nói vậy không khả tín, không xác thực. Có những lập luận sai từ uy tín không kiểm chứng như: Ví dụ: Một viên chức Nhà Trắng cho biết Nhưng viên chức này là ai, chức vụ ở đâu, chẳng ai kiểm chứng được cả. Ví dụ: Ông ấy là một chuyên gia, vậy ông ta đúng. Vấn đề là chuyên gia về lĩnh vực nào? Một chuyên gia trong lĩnh vực này nhưng có thể mù tịt về lĩnh vực kia. 2.3.3. Ngụy biện bù nhìn Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là kiểu ngụy biện dùng các lập luận thay thế quan điểm hay lập luận A của đối phương bằng cách trình bày sai lệch, xuyên tạc, bóp méo hoặc phóng đại thành B. Ví dụ: A: Những ngày nắng ráo thật tuyệt. B: Anh nói vậy không được. Nếu ngày nào cũng nắng ráo, chúng ta sẽ chẳng có mưa. Thế là hạn hán, đói kém và có người chết đói. B đã bóp méo lời A, vì A chỉ nói có những ngày nắng ráo chứ không phải nói ngày nào cũng nắng ráo (Nguyễn Đức Dân, 2018, tr.294). 2.3.4. Ngụy biện lợi dụng cảm xúc Là kiểu ngụy biện sử dụng cảm xúc của bản thân để khai thác, trong đó chủ yếu là lòng trắc ẩn. Loại kiểu lập luận này thường dùng những từ ngữ cảm tính (buồn, thất vọng) để tác động, lay động suy nghĩ người đọc, làm người khác phân tâm không chú ý tới sự kiện để chứng minh mình đúng hoặc kết luận nào đó được chấp nhận. Kiểu ngụy biện này kêu gọi sự thông cảm của người khác bằng cách nêu nhiều yếu tố bao gồm cả những tình huống và đối nhân xử thế của người nói. Kiểu lập luận này đi vào lòng người hơn là lý trí. Hiển nhiên sự thương cảm đó không phải là những chứng cứ hiển nhiên cho một hành động nào đó. Thông thường những cảm xúc đó là giận dữ, buồn, thất vọng.v.v. Ví dụ: Thân chủ của tôi là một phần quan trọng của cộng đồng này. Nếu anh ta bị bắt thì không chỉ thành phố này thiệt hại mà anh ta và gia đình sẽ tổn thất nặng nề. Từ trong thâm tâm ông chánh án không thể không mở rộng vòng tay cho một phán quyết “vô tội đối với anh ta sao?” Ví dụ trên cho thấy cách áp dụng kiểu ngụy biện lợi dụng cảm xúc ở trên không liên quan đến những chứng cứ có tội hay vô tội của thân chủ. 2.3.5. Ngụy biện lợi dụng đám đông Loại ngụy biện này cho rằng một lý lẽ được đám đông ủng hộ thì nó đúng. Số đông luôn đúng; quan điểm, lý lẽ nào được số đông ủng hộ thì nó phải đúng. Tuy nhiên không phải hầu hết mọi người tin một điều gì đó đúng, không có nghĩa là điều đó là chân lý. Không phải niềm tin nào của đại chúng luôn luôn đúng. Chúng ta cũng biết trước thế kỷ XV, mọi người cho rằng mặt trời quay quanh trái đất. Tuy nhiên điều đó không đúng. Ví dụ: “Ai cũng gù, mình thẳng lưng sẽ thành khuyết tật” là câu nói của bị cáo Diệp Thị SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) 60 Hồng Liên (cựu trưởng phòng khảo thí) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm 15 bị cáo trong vụ án gian lận điểm thi THPT năm 2018 tại Hòa Bình. “Thẳng lưng” được hiểu là những điều đúng, điều tốt, những người tốt mà lại bị coi là dị biệt, là khuyết tật thì quá đau xót. “Ai cũng gù, mình thẳng lưng sẽ thành khuyết tật”, là lối lập luận sai (ngụy biện lợi dụng đám đông, cụ thể là tập thể bị cáo gian lận điểm). Ví dụ: “- Con ăn mặc gì mà kỳ quặc vậy? Hở cổ, hở nách, hở bụng”. - Cụ “Khốt” ơi, bọn bạn con chúng nó đều mặc như vậy”. Người con chê cha mẹ mình cổ hủ và bảo vệ quan điểm của mình theo số đông - điều gì được nhiều người tin là đúng và làm như vậy nên tôi cũng tin là đúng. 2.3.6. Ngụy biện đe dọa Loại ngụy biện này thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Người tranh luận dùng loại ngụy biện này để đe dọa, ám chỉ đến những điều không hay xảy ra với người đối thoại để làm họ chùn bước, và từ đó phải chấp nhận quan điểm của hắn một cách bị ép buộc. Do đó, kiểu ngụy biện này còn gọi là “viện tới cây gậy”, rất hay được dùng trong trao đổi giữa người lớn và trẻ em trong gia đình, hay trong môi trường có mối quan hệ bất bình đẳng như giữa lãnh đạo và nhân viên hoặc trong giới chính khách. Ví dụ: Không chơi game nữa! Muốn sống thì đi làm bài tập ngay. Nếu các anh làm vậy, tôi sẽ đưa việc này lên mạng đấy. Nhân viên: Thưa anh, sao em phải làm thêm việc này trong khi bảng mô tả công việc trong hợp đồng lao động với công ty không hề đề cập đến! Giám đốc: Tôi có thể tìm ngay người khác thay chỗ của anh ở công ty này! 2.4. Các bộ phận cấu thành logic phi hình thức Logic phi hình thức không chỉ dừng lại ở mức độ chỉ nghiên cứu thuyết ngụy biện như lúc ban đầu xuất hiện. Ngày nay, logic phi hình thức đang nỗ lực một cách toàn diện hơn và đi vào nghiên cứu đa dạng, đa ngành hơn để hiểu được bản chất của lí lẽ đời thường cũng như đánh giá được 1í lẽ đời thường. Mặc dù đã có nhiều vấn đề được trình bày trong logic phi hình thức được xem là đầy đủ, vẫn có thể có những vấn đề các nhà ngôn ngữ đang còn nghiên cứu, tranh luận. Nhưng với tình hình thực tế hiện tại của logic phi hình thức, chúng ta có thể đưa ra bản phác thảo bao quát toàn diện về lí lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên gồm các thành phần, đặc điểm sau: a. Lí lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên là sự giải thích, thanh minh về các quy tắc giao tiếp mà các tranh luận luôn luôn phải dựa vào đó. b. Cần có sự phân biệt khác nhau giữa các loại hội thoại, vì đây là những “môi trường” lí lẽ diễn ra trong quá trình giao tiếp. Từ đó, các hội thoại này sẽ có những bước đi kế tiếp để có các lí lẽ thích hợp hoặc không thích hợp nhằm phù hợp với môi trường hội thoại. Ví dụ: lí lẽ trong thảo luận khoa học khác với lí lẽ trong đàm phán. Về các loại hội thoại, chúng tôi xin giới thiệu cách phân loại của Douglas Walton (có tám loại hội thoại) (Douglas Walton, 1997, tr.605): NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 61 Bảng 1. Tám thể loại hội thoại Loại hội thoại Tình huống ban đầu Mục đích cá nhân của người tham gia phát ngôn Mục đích chung của hội thoại Những lợi ích đem lại Thuyết phục (Persuasion) Các ý kiến đưa ra không giống nhau - bất đồng ý kiến Thuyết phục đối tượng Giải quyết các bất đồng ý kiến Hiểu quan điểm, ý kiến của nhau Yêu cầu về thông tin Không biết gì về vấn đề đang tìm hiểu Tìm kiếm thông tin cần biết Chứng minh được hoặc bác bỏ những phỏng đoán ban đầu Thu thập thêm được thông tin, kiến thức Bàn bạc Dự tính về các kết quả tương lai Đưa ra quan điểm, mục đích cá nhân Thực hiện trên cơ sở suy nghĩ cân nhắc thận trọng Để ra các ưu thế cá nhân Đàm phán Lợi ích của các bên mâu thuẫn lẫn nhau Làm tăng thêm các lợi ích cho mỗi bên Các bên thoả thuận với nhau Các bên đều có lợi Tìm kiếm thông tin Một bên đối tượng thiếu thông tin Nắm bắt thông tin Truyền đạt kiến thức, thông tin Có được sự giúp đỡ trong quá trình tìm mục tiêu Tranh cãi Mâu thuẫn cá nhân Tranh cãi quyết liệt và làm bẽ mặt đối phương Bộc lộ nhiều mâu thuẫn gây gắt Trút hết nỗi niềm và cảm xúc Tranh luận Đối nghịch nhau về quan điểm, ý kiến Thuyết phục đối tượng thứ 3 (trong tình huống đối thoại tay ba) Thể hiện hết các lí lẽ sắc bén, mạnh mẽ nhất với hai đối tượng còn lại Các thông tin được trao đổi qua lại giữa các đối tượng với nhau Sư phạm giữa thầy trò trong giờ học Không biết gì về một đối tượng, hiện tượng Giảng dạy và học tập Truyền đạt kiến thức Lưu trữ được những vấn đề đã được truyền đạt Nguồn: Walton. Douglas N., How Can Logic Best Applied to Arguments? Logic Journal of IGOL (Interest Group on Pure and Applied Logic), tập 5, trang 60. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) 62 Các kết quả hợp lý và giải thích cho chúng ta biết khi nào người ta có thể cho biết một câu này là kết quả hợp lý xuất phát từ một câu kia. c. Các tiêu chí tổng quát để xây dựng nên các lí lẽ đúng. Các tiêu chí này có thể kết hợp với một giả định của kết quả hợp lý và chúng sẽ chỉ rõ những điều kiện chung nhằm có được các lí lẽ suy diễn, quy nạp và dẫn nhập. d. Các định nghĩa về lược đồ lí lẽ xác thực để xác định rõ các dạng lập luận đúng. e. Một số thuyết ngụy biện có thể đóng vai trò (hoặc có thể là không) trong việc hiểu và đánh giá các lí lẽ đời thường. f. Các nhân tố có tác động đến lời nói để có sức thuyết phục và các khái niệm trong thuật hùng biện (như yếu tố lí lẽ, yếu tố biểu cảm, gây xúc động, lí lẽ đặc điểm, tính cách người nghe) sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu và đánh giá các lí lẽ đời thường. g. Các giải thích cho các nhiệm vụ biện chứng gắn liền với các lí lẽ trong các tình huống đặc biệt. 3. Kết luận Như vậy, có thể nhận định logic phi hình thức chính là lập luận trong ngôn ngữ tự nhiên nói chung và trong các diễn ngôn đời thường nói riêng. Logic phi hình thức có thể được xem là “công cụ” hữu hiệu trong việc phát hiện thể loại ngụy biện trong đời thường. Đây là nguyên nhân hình thành nên một loại logic mới, đó là logic phi hình thức; một kiểu logic trong trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Việc áp dụng logic phi hình thức trong các diễn ngôn đời thường không những giúp chúng ta cải thiện việc lập luận, nâng cao lí lẽ trong quá trình trao đổi giữa cá nhân mà còn nâng cao tính thuyết phục với lí lẽ hợp lý trong các lĩnh vực quảng cáo, tranh luận chính trị, tranh cãi pháp lý và truyền thông đại chúng. Tóm lại, một lập luận chặt chẽ phải hội tụ ba yếu tố: (1) lập luận trên cơ sở các tiền đề hợp lý, (2) có tất cả thông tin liên quan củng cố, bổ trợ cho tiền đề, và (3) có những lí lẽ lập luận hợp lý. Trái với lập luật chặt chẽ, đó là ngụy biện (lập luận cố ý sai). Ngụy biện là những kiểu lập luận sai nhưng lại có vẻ như là kiểu lập luận đúng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đỗ Hữu Châu. (2003). Đại cương ngôn ngữ học – Ngữ dụng học, tập 2. Hà Nội: NXB Giáo dục. Copi, Irving. (1957). Introduction to Logic, New York: Maxmillan. Christoper W. Tindale. (2007). Fallacies and Argument Appraisal, Cambridge University Press. Nguyễn Đức Dân. (1996). Logic và tiếng Việt. TP.HCM: NXB Giáo dục. Nguyễn Đức Dân. (1997). Logic – Ngữ nghĩa – Cú pháp. Hà Nội: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Nguyễn Đức Dân. (1998). Ngữ dụng học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Nguyễn Đức Dân. (2003). Nhập môn Logic hình thức. NXB Đại học Quốc gia TP.HCM. NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 63 Nguyễn Đức Dân. (2005). Nhập môn Logic hình thức và Logic phi hình thức. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Đức Dân. (2013). Giới thiệu về logic phi hình thức. Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, 2013. Nguyễn Đức Dân. (2018). Muôn màu lập luận. NXB Trẻ. Phan Đình Diệu. (1993). Lôgíc hình thức và nhận thức khoa học. Tạp chí Triết học, số 4, tr.34-37. Hitchcook, David. (1995). Do Fallacies Have a Place in the Teaching of Reasoning Skill or Critical Thinking? In Hansen, Hans V. and Robert C. Pinto, eds, Fallacies: Classical and Contemporary Readings.University Park, PA: Penn State Press. Kahane, Howard and Nancy M. Cavender. (1988). Logic and Contemporary Rhetoric: The Use of Reason in Everyday Life (5th Edition). Beltmont: Wadsworth. Walton. Douglas N. (1997). How Can Logic Best Applied to Arguments? Logic Journal of IGOL (Interest Group on Pure and Applied Logic), Volume 5, Page 603-614. Ngày nhận bài: 17/8/2020 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021
File đính kèm:
- ung_dung_logic_phi_hinh_thuc_trong_lap_luan_ngon_ngu_tu_nhie.pdf