Tư vấn và xét nghiệm di truyền cho người có nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng di truyền
Mặc dù hầu hết ung thư vú và buồng trứng là
đơn lẻ, khoảng 6% ca ung thư vú và 15% ung thư
buồng trứng gây ra do các thay đổi sinh bệnh (gây
hại) ở các gen nhạy cảm ung thư vú 1 (BRCA1)
hoặc (BRCA2). Các yếu tố di truyền khác chiếm tỉ lệ
thấp trong ung thư vú và ung thư buồng trứng.
Các cá thể nhất định với tiền căn gia đình bị
ung thư vú hoặc buồng trứng có thể có lợi ích từ
việc đánh giá di truyền để xác định nguy cơ của bản
thân họ hoặc các thành viên trong gia đình cho các
ung thư như thế hoặc có liên quan. Với các bệnh
nhân trải qua việc xét nghiệm di truyền, đòi hỏi
chuyên môn để đảm bảo xét nghiệm sẽ được diễn
dịch đầy đủ và các kết quả thích hợp để giúp đỡ
trong chẩn đoán hoặc ảnh hưởng điều trị cho bệnh
nhân hoặc các thành viên gia đình có nguy cơ ung
thư di truyền.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư vấn và xét nghiệm di truyền cho người có nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng di truyền
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 103 TƯ VẤN VÀ XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN CHO NGƯỜI CÓ NGUY CƠ UNG THƯ VÚ VÀ UNG THƯ BUỒNG TRỨNG DI TRUYỀN PHAN THỊ HỒNG ĐỨC1 Địa chỉ liên hệ: Phan Thị Hồng Đức Email: phanthihongduc@yahoo.com.vn Ngày nhận bài: 08/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Nội tuyến vú, tiêu hóa, gan, niệu - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM Phó Trưởng Bộ môn Ung Bướu Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch MỞ ĐẦU Mặc dù hầu hết ung thư vú và buồng trứng là đơn lẻ, khoảng 6% ca ung thư vú và 15% ung thư buồng trứng gây ra do các thay đổi sinh bệnh (gây hại) ở các gen nhạy cảm ung thư vú 1 (BRCA1) hoặc (BRCA2). Các yếu tố di truyền khác chiếm tỉ lệ thấp trong ung thư vú và ung thư buồng trứng. Các cá thể nhất định với tiền căn gia đình bị ung thư vú hoặc buồng trứng có thể có lợi ích từ việc đánh giá di truyền để xác định nguy cơ của bản thân họ hoặc các thành viên trong gia đình cho các ung thư như thế hoặc có liên quan. Với các bệnh nhân trải qua việc xét nghiệm di truyền, đòi hỏi chuyên môn để đảm bảo xét nghiệm sẽ được diễn dịch đầy đủ và các kết quả thích hợp để giúp đỡ trong chẩn đoán hoặc ảnh hưởng điều trị cho bệnh nhân hoặc các thành viên gia đình có nguy cơ ung thư di truyền. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN Liên quan tiền căn cá nhân hoặc gia đình. Trong khi những phụ nữ không bị ảnh hưởng thường có các mối quan tâm về nguy cơ ung thư di truyền, bất cứ khi nào có thể, điều lý tưởng để bắt đầu xét nghiệm di truyền một thành viên gia đình có khả năng dương tính với thay đổi sinh bệnh, mà thường là một phụ nữ bị ảnh hưởng bởi ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng giai đoạn sớm (bất kỳ tuổi). Khoảng ½ HBOC (Hereditary Breast and Ovarian Cancer Syndrome), xuất hiện do các thay đổi xuyên thấu cao của BRCA1 or BRCA2 (BRCA), di truyền kiểu gen trội. Các dữ liệu có sẵn gợi ý các cá thể với nhiều loại ung thư có tiềm năng là các ứng cử viên tốt cho xét nghiệm gen liên quan HBOC. Đó là ung thư vú và ung thư tụy di căn, bất kể tiền căn gia đình. Xét nghiệm di truyền ở những ca như vậy cũng có thể ảnh hưởng các chọn lựa điều trị (như người BRCA với ung thư vú tam âm, tiến xa có thể thích hợp cho điều trị ức chế polyadenosine diphosphate-ribose polymerase [PARP]). Các hướng dẫn từ NCCN, the American College of Medical Genetics and Genomics, và the National Society of Genetic Counselors cung cấp tiêu chuẩn chi tiết để xác định các ứng cử viên để tư vấn di truyền và xét nghiệm có thể cho HBOC. Tiêu chuẩn chính cho đánh giá nguy cơ ung thư di truyền và các xét nghiệm có thể gồm tiền căn cá nhân sau đây: Ung thư vú nữ chẩn đoán lúc ≤ 50 tuổi. Ung thư vú tam âm (TNBC) chẩn đoán lúc ≤ 60 tuổi. ≥2 ung thư vú nguyên phát. Ung thư buồng trứng hoặc vòi trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát. Ung thư vú nam. Bất kỳ ung thư liên quan HBOC, bất kể tuổi lúc chẩn đoán, và Ashkenazi (trung tâm hoặc Đông Âu) dòng họ Jewish. Ung thư vú và 1 họ hàng có ung thư vú hoặc buồng trứng chẩn đoán ≤ 50 tuổi, hoặc 2 họ hàng ung thư vú, tiền liệt tuyến, và/ hoặc ung thư tụy, chẩn đoán ở bất kỳ tuổi. Ung thư tiền liệt tuyến di căn, tại vùng hoặc tại chỗ nguy cơ cao đến rất cao Thay đổi sinh bệnh BRCA xác định từ phân tích gen, bất kể loại bướu. Bệnh nhân không có tiền căn gia đình bị ung thư nhưng với bất kỳ tiêu chuẩn sau cũng là các ứng cử viên thích hợp để xét nghiệm: Một thay đổi sinh bệnh học ở BRCA1 hoặc BRCA2 ở họ hàng sinh học. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 104 Ít nhất 2 cá nhân có ung thư vú nguyên phát ở cùng phía của gia đình, ít nhất 1 người chẩn đoán ≤50 tuổi. Họ hàng hàng thứ nhất hoặc thứ 2 với bất kỳ vấn đề sau: ung thư vú ≤45 tuổi, ung thư buồng trứng, ung thư vú nam, ung thu tụy, ung thư tiền liệt tuyến di căn hoặc ≥2 nguyên phát ung thư vú ở một cá thể đơn độc hoặc ở cùng 1 phía của gia đình với ít nhất một người chẩn đoán ≤ 50 tuổi Tiền căn gia đình có ≥3 ung thư liên quan hội chứng ung thư di truyền Những tiêu chuẩn khác cho xét nghiệm di truyền như, Hiệp hội các nhà phẫu thuật vú ở Hoa Kỳ (American Society of Breast Surgeons) khuyến cáo xét nghiệm di truyền nên làm cho người có tiền căn cá nhân bị ung thư vú, thêm vào những tiêu chuẩn đã có NCCN. The United States Preventive Services Task Force (USPSTF) khuyến cáo phụ nữ có tiền căn cá nhân hoặc gia đình bị ung thư vú, buồng trứng, vòi trứng hoặc phúc mạc hoặc có một dòng họ có liên quan các đột biến gene BRCA1/2 nên được đánh giá với phương tiện đánh giá nguy cơ gia đình (như the Ontario Family History Assessment Tool, The International Breast Cancer Intervention Study [IBIS] instrument, hoặc phiên bản chính của BRCAPRO, nhưng không phải Gail). Những người có khả năng gia tăng nguy cơ di truyền dựa trên các công cụ như thế nên được tư vấn di truyền và, nếu thích hợp, xét nghiệm di truyền, trong khi những người không có chỉ định như trên không cần phải tư vấn hoặc xét nghiệm di truyền thường quy. Mặc dù không có nghiên cứu đánh giá tính hiệu quả của tư vấn và xét nghiệm di truyền trong việc giảm tần xuất và tử suất của các ung thư liên quan BRCA, phân tích hệ thống 14 nghiên cứu (với khoảng 44.000 bệnh nhân) thấy rằng độ chính xác từ trung bình đến cao của 8 công cụ đánh giá nguy cơ tiên đoán sự hiện diện các thay đổi BRCA1/2. Các công thức toán học có thể nặng nề trong hoàn cảnh lâm sàng và do các hạn chế của việc đánh giá tiền căn gia đình (như tiền căn gia đình không rõ, cỡ gia đình nhỏ). Hơn nữa, nhiều mẫu đánh giá nguy cơ cho các đột biến gene nguy cơ cao (như BRCA1 và BRCA2) và không đánh giá các phenotypes ít xuyên thấm hơn, như những người có liên quan với các gene nguy ... ức BRCAPRO thường tiên đoán các nguy cơ ung thư vú trung bình đến hơi cao so với quần thể chung, với những người có xét nghiệm BRCA không đủ thông tin. Nói cách khác, các nguy cơ tiên đoán thường cao hơn nhiều so với các mẫu định lượng. Tiếp cận với việc quản lý nguy cơ ung thư vú tùy thuộc vào nguy cơ cao hoặc thấp. Phụ nữ có nguy cơ cao Phụ nữ có nguy cơ cao ung thư vú trong suốt cuộc đời (định nghĩa là nguy cơ ít nhất 20%) nên tiến hành tầm soát nhũ ảnh hàng năm, chụp MRI hàng năm, và khám lâm sàng mỗi 6 - 12 tháng bắt đầu trước 10 năm so với thành viên trong gia đình trẻ nhất bị ảnh hưởng và không trước 25 tuổi đối với MRI. Chẳng hạn như, nếu phụ nữ có một chị em gái Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 110 bị ung thư vú chẩn đoán lúc 30 tuổi, thêm vào đó có tiền căn gia đình ung thư vú khác, khuyến cáo chụp MRI bắt đầu ở tuổi 25. Phụ nữ có nguy cơ suốt đời 15 - 20% có thể cũng cân nhắc MRI. Những phụ nữ có kỳ vọng sống thêm ít nhất 10 năm cũng có thể cân nhắc các lựa chọn giảm nguy cơ. Chẳng hạn như phụ nữ có nguy cơ ung thư vú 5 năm ít nhất 1,7% hoặc nguy cơ ung thư suốt đời là 20% có thể cân nhắc hóa phòng ngừa với các tác nhân như tamoxifen, raloxifene, hoặc một thuốc ức chế aromatase, làm giảm nguy cơ ung thư vú khoảng 50%. Những phụ nữ có nguy cơ rất cao bị ung thư vú và các kết quả xét nghiệm âm tính không đủ thông tin có thể muốn thảo luận về chọn lựa đoạn nhũ giảm nguy cơ. Các phụ nữ không có nguy cơ cao Phụ nữ có nguy cơ ung thư vú suốt đời dưới 15% có thể được tầm soát như quần thể chung, hoặc có phần hơi tích cực hơn tùy thuộc vào nguy cơ chuyên biệt của họ. Do những hạn chế về đánh giá nguy cơ định lượng, tầm soát ban đầu sớm có thể được khuyến cáo dựa trên tiền căn gia đình. Tiền căn cá nhân bị ung thư vú Những phụ nữ có một tiền căn cá nhân bị ung thư vú có nguy cơ ung thư vú đối bên (contralateral breast cancer (CBC)) khoảng 4 - 7% trong 5 - 10 năm đầu tiên sau chẩn đoán. Những người này với một tiền căn gia đình có một nguy cơ cao hơn, ngay cả với kết quả BRCA không đủ thông tin (âm tính). Các nguy cơ này ngay cả quan trọng hơn so với người trẻ tuổi hơn. Trong khi các công thức như BRCAPRO có thể là ước lượng chung về nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ có BRCA âm tính, những công cụ này không có giá trị cho việc đánh giá nguy cơ CBC. BRCAPRO nhằm cho bệnh nhân có ý thức về mức độ nguy cơ CBC. Lưu ý là, BRCAPRO hiệu chuẩn lại yếu tố trong tiền căn của CBC trong việc tiên đoán khả năng người mang đột biến BRCA. Với nhiều người ung thư vú sống sót có tiền căn gia đình bị ung thư vú, nguy cơ suốt đời phát triển một CBC có thể được tầm soát tăng cường với MRI vú thêm vào nhũ ảnh. Mặc dù một hội chuyên gia của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ kết luận rằng không đủ bằng chứng để khuyến cáo hoặc chống lại việc chụp MRI vú ở những người sống sót, MRI có thể thích hợp cho việc tầm soát những người sống sót có các yếu tố nguy cơ khác, như những người có liên quan với điều trị hoặc sinh sản hoặc tiền căn gia đình. Các nghiên cứu là cần thiết để xác định có hay không tầm soát MRI ở những người ung thư vú sống sót có liên quan với việc giảm tử vong. Như một lựa chọn theo dõi, những phụ nữ có nguy cơ gia tăng bị CBC có thể cân nhắc đoạn nhũ 2 bên, với việc đoạn nhũ đối bên thực hiện ở thời điểm chẩn đoán hoặc sau đó. Trong khi một số nghiên cứu gợi ý có lợi ích sống còn từ tiến trình này, có khả năng có sai số chọn lựa, và các nghiên cứu sau đó không chứng minh được lợi ích sống còn cho việc đoạn nhũ đối bên dự phòng. Một lưu ý cũng quan trọng là, nếu những phụ nữ này nhận liệu pháp nội tiết hỗ trợ cho bệnh lý có thụ thể nội tiết dương, họ sẽ có khoảng 50% giảm nguy cơ trong việc phát triển một ung thư vú mới. Quản lý tiền căn ung thư buồng trứng Không có tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng Những phụ nữ không có tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng và các kết quả xét nghiệm di truyền âm tính thường được cân nhắc ở nguy cơ trung bình bị ung thư buồng trứng và không là ứng cử viện cho tầm soát ung thư buồng trứng. Với những người có kết quả BRCA âm tính (đặc biệt từ một kết quả bảng đa gene âm tính bao gồm các gene ung thư buồng trứng) và không có tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng, không cung cấp việc cắt buồng trứng - vòi trứng 2 bên giảm nguy cơ (risk-reducing bilateral salpingo- oophorectomy (rrBSO)) ngay cả nếu có tiền căn gia đình mạnh về ung thư vú có hiện diện). Tuy nhiên, những phụ nữ hậu mãn kinh có cắt tử cung vì lý do lành tính có thể cân nhắc quyền rrBSO. Mặc dù những phụ nữ không chọn lọc với một tiền căn trước đó có ung thư vú được báo cáo về phương diện lịch sử có nguy cơ tăng nhẹ ung thư buồng trứng, có khả năng phần lớn nguy cơ này được phân phối cho các thay đổi sinh bệnh trong các gene nhạy cảm như BRCA. Trong những gia đình có ung thư vú nhưng không có ung thư buồng trứng hoặc hội chứng di truyền HBOC khác, dường như không có vẻ tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Việc đánh giá nguy cơ cho tất cả các phụ nữ nên xem xét đến những yếu tố nguy cơ khác liên quan với ung thư buồng trứng như vô sinh, các yếu tố sinh sản và sử dụng nội tiết. Tiền căn gia đình có ung thư buồng trứng Khi một phụ nữ có tiền căn gia đình có tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng xét nghiệm âm tính cho một bảng gene bao gồm các gene có liên quan ung thư buồng trứng, nguy cơ bị ung thư buồng trứng của cô ta có thể hãy còn tăng so với quần thể chung. Do đó, tiếp cận những phụ nữ với xét nghiệm Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 111 di truyền âm tính và có một tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng được tóm tắt dưới đây: Thảo luận việc sử dụng thuốc ngừa thai uống ở phụ nữ tiền mãn kinh có thể giảm có ý nghĩa nguy cơ ung thư buồng trứng, đặc biệt với việc sử dụng trong thời gian dài và bất kể tiền căn gia đình và/ hoặc khả năng di truyền dễ mắc bệnh được nhận biết. Những phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng, đặc biệt nếu họ hậu mãn kinh và đã cắt tử cung vì các lý do lành tính, cũng có thể được cung cấp một rrBSO. Hiệu quả hạn chế của việc tầm soát sẵn có của ung thư buồng trứng, bao gồm xét nghiệm máu CA 125 và siêu âm qua ngã âm đạo, và do đó tiếp cận này không được khuyến cáo. Tiếp cận này dựa trên các dữ liệu dịch tễ gợi ý nguy cơ gia tăng về ung thư buồng trứng trong số những phụ nữ có tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng. Chẳng hạn như, các nghiên cứu gợi ý rằng những phụ nữ có họ hàng hàng thứ nhất có ung thư buồng trứng có khoảng 5% nguy cơ ung thư buồng trứng, và 3,5% nguy cơ nếu cô ta có một họ hàng hàng thứ hai và 7% nguy cơ ung thư buồng trứng nếu cô ta có 2 họ hàng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, một số trong nguy cơ này có thể do các thay đổi sinh bệnh trong BRCA, và với một độ rộng ít hơn, trong các gene khác có liên quan ung thư buồng trứng (như RAD51C, RAD51D, BRCA1-interacting protein 1 [BRIP1]). Trong một nghiên cứu, họ hàng hàng thứ nhất của những bệnh nhân với ung thư buồng trứng và không có một thay đổi sinh bệnh trong BRCA có một nguy cơ gia tăng ung thư buồng trứng so với quần thể chung (relative risk [RR] 2.24, 95% CI 1.71- 2.94). Khuyến cáo những phụ nữ có xét nghiệm di truyền âm tính và tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng rằng nguy cơ ung thư buồng trứng của họ có thể gia tăng so với quần thể chung, nhưng kết hợp tiền căn gia đình khi đưa ra các khuyến cáo quản lý. TÓM TẮT VÀ KHUYẾN CÁO Mặc dù đa số các ung thư vú và buồng trứng là đơn lẻ, một số nhỏ ung thư vú và buồng trứng gây ra do các đột biến dòng tế bào mầm trong breast cancer susceptibility gene 1 (BRCA1) hoặc breast cancer susceptibility gene (BRCA2) (BRCA). Các thay đổi sinh bệnh di truyền giải thích có số lượng ít hơn của ung thư vú và ung thư buồng trứng. Tiêu chuẩn chính của đánh giá nguy cơ di truyền bao gồm, tiền căn cá nhân ung thư vú nữ được chẩn đoán ≤50 tuổi, ung thư vú tam âm (TNBC) chẩn đoán ≤60 tuổi, hoặc tiền căn cá nhân hoặc gia đình bị ung thư buồng trứng hoặc ung thư vú nam. Bất cứ khi nào có thể, những bệnh nhân là các ứng cử viên cho xét nghiệm di truyền nên được giới thiệu đến một nhà cung cấp di truyền có chứng chỉ hành nghề. Cung cấp cho đa số các bệnh nhân có tiền căn đồng nhất với ung thư vú/ buồng trứng di truyền (hereditary breast/ ovarian cancer (HBOC)) chọn lựa thực hiện xét nghiệm bảng đa gene như xét nghiệm bước một. Những bệnh nhân có nguy cơ cao trước đó đã thực hiện xét nghiệm BRCA và ai muốn thêm xét nghiêm di truyền HBOC nên được tư vấn liên quan cơ hội họ có thể chứa một thay đổi sinh bệnh trong BRCA hiếm gặp không phát hiện được, thay đổi sinh bệnh (nếu xét nghiệm trước 2006) hoặc một thay đổi sinh bệnh trong gene khác, và nên được cung cấp xét nghiệm bảng gene thế hệ mới. Với những phụ nữ có kết quả xét nghiệm âm tính hoặc thiếu thông tin, các công thức định lượng có thể giúp xác định những phụ nữ với nguy cơ cao mắc ung thư buồng trứng trong suốt đời ít nhất 20%. Các phụ nữ này là ứng cử viên thích hợp cho tầm soát ung thư vú bằng MRI thêm vào nhũ ảnh. Những phụ nữ với các kết quả xét nghiệm di truyền âm tính không đủ thông tin mà không có tiền căn gia đình bị ung thư buồng trứng có vẻ không có nguy cơ gia tăng phát triển ung thư buồng trứng. Do đó, cắt buồng trứng - vòi trứng 2 bên không được chỉ định cho việc giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Risch HA, McLaughlin JR, Cole DE, et al. Prevalence and penetrance of germline BRCA1 and BRCA2 mutations in a population series of 649 women with ovarian cancer. Am J Hum Genet 2001; 68:700. 2. Couch FJ, Shimelis H, Hu C, et al. Associations Between Cancer Predisposition Testing Panel Genes and Breast Cancer. JAMA Oncol 2017; 3:1190. 3. Tung N, Lin NU, Kidd J, et al. Frequency of Germline Mutations in 25 Cancer Susceptibility Genes in a Sequential Series of Patients With Breast Cancer. J Clin Oncol 2016; 34:1460. 4. Chong HK, Wang T, Lu HM, et al. The validation and clinical implementation of BRCAplus: a comprehensive high-risk breast cancer diagnostic assay. PLoS One 2014; 9:e97408. 5. LaDuca H, Stuenkel AJ, Dolinsky JS, et al. Utilization of multigene panels in hereditary Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 112 cancer predisposition testing: analysis of more than 2,000 patients. Genet Med 2014; 16:830. 6. Tung N, Battelli C, Allen B, et al. Frequency of mutations in individuals with breast cancer referred for BRCA1 and BRCA2 testing using next-generation sequencing with a 25-gene panel. Cancer 2015; 121:25. 7. Kurian AW, Ward KC, Howlader N, et al. Genetic Testing and Results in a Population-Based Cohort of Breast Cancer Patients and Ovarian Cancer Patients. J Clin Oncol 2019; 37:1305. 8. Robson ME, Bradbury AR, Arun B, et al. American Society of Clinical Oncology Policy Statement Update: Genetic and Genomic Testing for Cancer Susceptibility. J Clin Oncol 2015; 33: 3660. 9. Ford D, Easton DF, Stratton M, et al. Genetic heterogeneity and penetrance analysis of the BRCA1 and BRCA2 genes in breast cancer families. The Breast Cancer Linkage Consortium. Am J Hum Genet 1998; 62: 676. 10. Hu C, Hart SN, Polley EC, et al. Association Between Inherited Germline Mutations in Cancer Predisposition Genes and Risk of Pancreatic Cancer. JAMA 2018; 319: 2401. 11. Syngal S, Furniss CS. Germline Genetic Testing for Pancreatic Ductal Adenocarcinoma at Time of Diagnosis. JAMA 2018; 319: 2383. 12. National Comprehensive Cancer Network. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology. Genetic/Familial High-Risk Assessment: Breast and Ovarian. Version 2.2019. https://www.nccn.org/professionals/physician_gls /pdf/genetics_screening.pdf (Accessed on October 23, 2019). 13. Hampel H, Bennett RL, Buchanan A, et al. A practice guideline from the American College of Medical Genetics and Genomics and the National Society of Genetic Counselors: referral indications for cancer predisposition assessment. Genet Med 2015; 17:70. 14. Alsop K, Fereday S, Meldrum C, et al. BRCA mutation frequency and patterns of treatment response in BRCA mutation-positive women with ovarian cancer: a report from the Australian Ovarian Cancer Study Group. J Clin Oncol 2012; 30:2654. 15. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology (NCCN Guidelines). Genetic/Familial High-risk Assessment: Prostate. Version 1.2018. https://www.nccn.org/professionals/physician_gls /pdf/prostate.pdf (Accessed on August 13, 2018). 16. American Society of Breast Surgeons Consensus Guideline on Genetic Testing for Hereditary Breast Cancer. Consensus-Guideline-on-Genetic-Testing-for- Hereditary-Breast-Cancer.pdf (Accessed on August 27, 2019). 17. US Preventive Services Task Force, Owens DK, Davidson KW, et al. Risk Assessment, Genetic Counseling, and Genetic Testing for BRCA- Related Cancer: US Preventive Services Task Force Recommendation Statement. JAMA 2019; 322:652. 18. Nelson HD, Pappas M, Cantor A, et al. Risk Assessment, Genetic Counseling, and Genetic Testing for BRCA-Related Cancer in Women: Updated Evidence Report and Systematic Review for the US Preventive Services Task Force. JAMA 2019; 322:666. 19. Beitsch PD, Whitworth PW, Hughes K, et al. Underdiagnosis of Hereditary Breast Cancer: Are Genetic Testing Guidelines a Tool or an Obstacle? J Clin Oncol 2019; 37:453. 20. Latham A, Srinivasan P, Kemel Y, et al. Microsatellite Instability Is Associated With the Presence of Lynch Syndrome Pan-Cancer. J Clin Oncol 2019; 37:286.
File đính kèm:
- tu_van_va_xet_nghiem_di_truyen_cho_nguoi_co_nguy_co_ung_thu.pdf