Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên Ngữ văn, khoa sư phạm, trường đại học An Giang
Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục bắt buộc và giữ vai trò rất quan trọng trong
chương trình giáo dục phổ thông mới. Để đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết đó, Bộ môn Ngữ
văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang đã có những hình thức và phương pháp tổ chức các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo một cách đa dạng và linh hoạt cho sinh viên bao gồm: hình thức
thể nghiệm - tương tác, hình thức khám phá, hình thức nghiên cứu. Trên cơ sở đó, sau khi trở thành
giáo viên, trong quá trình dạy học, họ sẽ từng bước hình thành các năng lực tổ chức hoạt động trải
nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên Ngữ văn, khoa sư phạm, trường đại học An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên Ngữ văn, khoa sư phạm, trường đại học An Giang
85 TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO CHO SINH VIÊN NGỮ VĂN, KHOA SƯ PHẠM, TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG Nguyễn Thị Thu Giang Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên hệ: nttgiang@agu.edu.vn Lịch sử bài báo Ngày nhận: 15/9/2020; Ngày nhận chỉnh sửa: 27/10/2020; Ngày duyệt đăng: 12/01/2020 Tóm tắt Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục bắt buộc và giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Để đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết đó, Bộ môn Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang đã có những hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo một cách đa dạng và linh hoạt cho sinh viên bao gồm: hình thức thể nghiệm - tương tác, hình thức khám phá, hình thức nghiên cứu. Trên cơ sở đó, sau khi trở thành giáo viên, trong quá trình dạy học, họ sẽ từng bước hình thành các năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông. Từ khóa: Chương trình giáo dục phổ thông mới, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phương pháp dạy học, sinh viên Ngữ văn. ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ORGANIZING CREATIVE EXPERIENCIAL ACTIVITIES FOR LANGUAGE-LITERATURE STUDENTS OF PEDAGOGY IN AN GIANG UNIVERSITY Nguyen Thi Thu Giang An Giang University, Viet Nam National University, Ho Chi Minh City Corresponding author: nttgiang@agu.edu.vn Article history Received: 15/9/2020; Received in revised form: 27/10/2020; Accepted: 12/01/2021 Abstract Experimental activities are compulsory and signifi cant in the new general education program. On meeting these urgent requirements, the Language-Literature Department, Faculty of Education, An Giang University has created a wide variety of fl exible approahes to these activities for its students, namely experimental-interaction, self-discovery, and research. Thereby, when becoming a teacher in their teaching process, they will step by step build their own the capacities to organize creative experiencial activities for high school students. Keywords: Creative experiencial activities, Literature-Language students, teaching methods, the new general education program. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 85-94 86 Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn 1. Đặt vấn đề Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chương trình giáo dục phổ thông - chương trình tổng thể xác định mục tiêu: “Giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018). Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) là một trong những nội dung đổi mới căn bản và là hoạt động giáo dục bắt buộc được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12, bao gồm: hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học và hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp ở cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông (gọi chung là hoạt động trải nghiệm). Đó là những hoạt động giáo dục do nhà giáo dục định hướng, thiết kế và hướng dẫn thực hiện, tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm các cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học và các lĩnh vực giáo dục để thực hiện những nhiệm vụ được giao hoặc giải quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội phù hợp lứa tuổi. Thông qua những hoạt động đó, học sinh sẽ chuyển hóa những kinh nghiệm đã trải qua thành tri thức mới, hiểu biết mới, kĩ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai. Vậy hoạt động trải nghiệm là gì? Theo Ngô Thị Tuyên: “Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường cần được hiểu là hoạt động có động cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh, được thực hiện trong thực tế dưới sự định hướng, hướng dẫn của nhà sư phạm. Đối tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn, qua trải nghiệm thực tiễn, người học có được kiến thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định. Sự sáng tạo sẽ có được khi phải giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải quyết vấn đề, ứng dụng trong tình huống mới, đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề” (Nguyễn Thị Dung, 2018, tr. 337). Như vậy, hoạt động trải nghiệm chính là sự thay đổi tên, nhiệm vụ, chức năng và phương thức mới của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong chương trình hiện hành, thể hiện sự đổi mới căn bản trong mục đích giáo dục của trường phổ thông là phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh, tạo sự hài hòa, cân đối giữa dạy chữ và dạy người. Hoạt động trải nghiệm là hoạt động của học sinh, do học sinh, vì học sinh dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục. Trước những yêu cầu bức thiết đó, để sinh viên (SV) sư phạm sau khi ra trường có thể bắt nhịp theo kịp chương trình giảng dạy hiện hành ở phổ thông và không lúng túng với việc hình thành các năng lực tổ chức HĐTNST cho học sinh thì các trường đại học sư phạm không chỉ cần phải xây dựng được các chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu đổi mới để có thể cùng đồng hành với những thay đổi ở trường phổ thông mà còn cần phải tăng cường việc cho SV học tập từ thực tế bằng cách tạo ra các môi trường khác nhau để SV trải nghiệm và thể hiện hết khả năng sáng tạo của mình. HĐTNST có thể tổ chức theo các quy mô khác nhau như: theo nhóm, lớp, theo khóa học, theo trường hoặc liên trường, Trong đó, ... Đoàn Thạch Biền, Dạ Ngân, Nguyên Ngọc,... 2.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học Hoạt động này tạo cơ hội cho SV tham gia các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học nhờ những cảm hứng từ những trải nghiệm thực tế như: các hoạt động khảo sát, điều tra, dự án nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật,Về bản chất, nghiên cứu khoa học cũng là HĐTNST, hoạt động trải nghiệm trên lĩnh vực khoa học, phục vụ giải quyết những vấn đề trong thực tiễn. Thực hiện nghiên cứu khoa học là một trong những phương pháp hiệu quả để SV mở rộng vốn kiến thức cũng như vốn kĩ năng mềm của bản thân; là cơ hội để SV áp dụng những kiến thức lí thuyết đã học vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn. Nghiên cứu khoa học của SV cũng đang được Bộ môn cũng như Khoa Sư phạm và Trường Đại học An Giang quan tâm và phát huy. Những năm qua, các giảng viên trong Bộ môn cũng đã tích cực hướng dẫn và hỗ trợ cho SV bước đầu thực hiện và hoàn thành một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa, cấp Trường. Hiện nay, Bộ môn có 8 đề tài nghiên cứu khoa học của SV đã được nghiệm thu và 01 khóa luận tốt nghiệp chuyển đổi thành đề tài cấp trường. SV Ngữ văn cũng có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành và nhiều bài tham luận đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học. 3. Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn SV về những hình thức và phương pháp tổ chức các HĐTNST cho SV Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang Những hình thức và phương pháp tổ chức các HĐTNST trên đã được áp dụng cho các lớp SV chuyên ngành Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang từ nhiều năm nay, kể từ khi Trường Đại học An Giang còn là Trường Cao đẳng Sư phạm An Giang. Từ năm 2000 đến đến 2018, Bộ môn Ngữ văn chỉ đào tạo SV chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn (Kí hiệu tên lớp: DHNV). Đến năm 2018, Khoa Sư phạm đã mở rộng tuyển sinh và đào tạo thêm 91 chuyên ngành Cử nhân văn học (Kí hiệu tên lớp: DHVH). Phạm vi khảo sát về hiệu quả của những hình thức và phương pháp tổ chức các HĐTNST cho SV Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang trong phạm vi bài viết này được giới hạn kể từ Khóa 17 đến nay, tương ứng với khoảng thời gian khảo sát là 04 năm (bắt đầu từ năm 2016 đến 2020) với tổng số lượng SV như sau: Bảng 1. Thống kê số lượng SV chuyên ngành Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang từ năm 2016 đến 2020 STT Lớp Khóa đào tạo Số lượng SV 1 DH17NV 2016 - 2020 27 2 DH18NV 2017- 2021 37 3 DH19NV 2018 - 2022 21 4 DH19VH 2018 - 2022 27 5 DH20NV 2019 - 2023 15 6 DH20VH 2019 - 2023 21 Tổng 148 Có 148 phiếu khảo sát được phát ra và có 148 phiếu được thu về. Thống kê các ý kiến trong phiếu hỏi về hiệu quả của những hình thức và phương pháp tổ chức các HĐTNST cho SV Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang như sau: * Về sự tham gia các HĐTNST của SV chuyên ngành Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang Bảng 2. Thống kê tỉ lệ SV chuyên ngành Ngữ văn tham gia vào các HĐTNST STT Những hình thức tổ chức HĐTNST cho SV Tỉ lệ % SV tham gia 1 Hoạt động talkshow, nhập vai tác giả, nhà phê bình 40 2 Hoạt động sân khấu hóa các tác phẩm văn học 70 3 Hội thảo khoa học chuyên ngành Ngữ văn 30 4 Hội thi Nghiệp vụ sư phạm (Nét đẹp Ngữ văn) 65 5 CLB Văn thơ 37 6 CLB Hán Nôm 35 7 Hoạt động dã ngoại, tham quan thực tế 100 8 Hoạt động nghiên cứu khoa học (Tham gia viết bài tham luận đăng Kỷ yếu Hội thảo khoa học, viết bài báo khoa học, tham gia đề tài ng- hiên cứu khoa học cấp Khoa, tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường). 15 * Khảo sát về quy trình của HĐTNST cho SV Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang Bảng 3. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá của SV về các HĐTNST STT Nội dung Mức độ phù hợp Hoàn toàn đồng ý Đồng ý một phần Không đồng ý 1 Các HĐTNST này cung cấp cho SV những kiến thức bổ ích về văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, Hán Nôm, ngôn ngữ, phương pháp sư phạm, hỗ trợ cho việc học tập ở bậc đại học chuyên ngành Ngữ văn và công tác sau này. 94,5% 5,5 % 0,0% Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 85-94 92 Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn 2 Thông qua các HĐTNST này, SV được hình thành và phát triển các kỹ năng, phẩm chất cá nhân và nghề nghiệp cần thiết. 91,9% 5,4% 2,7% 3 Thông qua các HĐTNST này, SV có kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng giao tiếp hiệu quả hơn. 97,3% 2,7% 0,0% 4 Thông qua các HĐTNST này, SV được rèn luyện về năng lực thực hành nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ. 86,5% 13,5% 0,0% 5 Kế hoạch HĐTNST được xây dựng một cách chi tiết, cụ thể, khoa học để thực hiện tốt được các mục tiêu đã đề ra, phát huy được ý tưởng sáng tạo của các cá nhân vào hoạt động chung. 80,2% 15,3% 4,5% 6 Kế hoạch HĐTNST xác định được không gian, thời gian thực hiện, nội dung TNST, sự phối kết hợp giữa các thành phần tham gia. 100% 0,0% 0,0% 7 Các HĐTNST được triển khai theo đúng kế hoạch đã đề ra. 85,7% 10,4% 3,9% 8 Hình thức tổ chức HĐTNST đa dạng, phong phú, hấp dẫn, gây hứng thú cho SV. 90,6% 9,0% 0,4% 9 Các HĐTNST được thông báo rộng rãi đến toàn thể SV và thu hút đông đảo SV tham gia 100% 0,0% 0,0% 10 Có phương án nghiệm thu kết quả tham gia các HĐTNST trong Kế hoạch và công bố cho SV biết để SV chủ động và có mục tiêu rõ ràng khi tham gia các hoạt động HĐTNST (Phiếu khảo sát/ Bảng hỏi về những kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, năng lực mà SV cần đạt được sau khi tham gia các HĐTNST, Bài thu hoạch, Bài kiểm tra cá nhân,..) 40,5% 30,2% 29,3% 11 Tôi sẽ tham gia (hoặc tiếp tục tham gia) các HĐTNST cho SV chuyên ngành Ngữ văn do Bộ môn Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang tổ chức. 90,7% 9,3% 0,0% Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ SV tham gia vào các HĐTNST không đồng đều: có những hoạt động tỉ lệ SV tham gia khá cao: Hoạt động dã ngoại, tham quan thực tế (100%); Hoạt động sân khấu hóa các tác phẩm văn học (70%); Hội thi Nghiệp vụ sư phạm (Nét đẹp Ngữ văn) (65%), nhưng cũng có nhiều hoạt động tỉ lệ SV tham gia còn rất thấp: CLB Văn thơ, CLB Hán Nôm, Hội thảo khoa học chuyên ngành Ngữ văn, hoạt động talkshow, nhập vai tác giả, nhà phê bình, hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên đa số SV đều rất có hứng thú với việc tham gia các HĐTNST (90,7%). Về các ý kiến đánh giá chung, đa số SV cho rằng các HĐTNST là rất bổ ích, thiết thực đối với bản thân các em, thể hiện ở việc trang bị và rèn luyện cho SV những kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cá nhân và nghề nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm và giao tiếp, năng lực thực hành và phát triển nghề nghiệp (94,5%). Như vậy, về cơ bản thì đã được các mục tiêu của các HĐTNST. Về kế hoạch HĐTNST: đa số các ý kiến cho rằng kế hoạch HĐTNST được xây dựng một cách chi tiết, cụ thể, khoa học (80,2%). Về triển khai kế hoạch HĐTNST: Các HĐTNST được triển khai theo đúng kế hoạch đã đề ra (85,7%), hình thức tổ chức HĐTNST đa dạng, phong phú, hấp dẫn, gây hứng thú cho SV (90,6%), các HĐTNST được thông báo rộng rãi đến toàn thể SV và thu hút đông đảo SV tham gia (100%). 93 Tuy nhiên, về việc nghiệm thu kết quả tham gia các HĐTNST, chỉ có 40,5% SV đồng ý hoàn toàn với ý kiến cho rằng Bộ môn đã có những phương án nghiệm thu kết quả tham gia các HĐTNST trong kế hoạch và công bố cho SV biết để SV chủ động và có mục tiêu rõ ràng khi tham gia các hoạt động HĐTNST. * Về những đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả của những hình thức và phương pháp tổ chức các HĐTNST cho SV Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang: tổng cộng có 7 ý kiến đề xuất, kiến nghị của SV xoay quanh các nhóm vấn đề chính sau đây: + Về sự tham gia các HĐTNST: đề nghị việc tham gia các HĐTNST là bắt buộc đối với tất cả SV và có tính điểm vào các học phần vì có nhiều SV không tham gia. + Về việc tham gia Hội thảo khoa học chuyên ngành Ngữ văn: SV không có khả năng tham gia vì không có kinh nghiệm viết bài tham luận vì không có kinh nghiệm, e dè, không mạnh dạn viết. + Về hoạt động của các CLB: thường xuyên bị gián đoạn do thiếu nhân sự làm chủ nhiệm CLB và các thành viên cốt cán tốt nghiệp ra trường, chưa có thành viên thay thế (CLB Hán Nôm), SV không có năng khiếu sáng tác văn thơ nên không tham gia được. + Về nghiệm thu kết quả tham gia các HĐTNST: SV còn ít được góp ý kiến để điều chỉnh một số mặt trong việc tổ chức các HĐTNST của Bộ môn. 4. Những thuận lợi, khó khăn, đề xuất và kiến nghị trong việc tổ chức các HĐTNST cho SV Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang - Thuận lợi: Ban Giám hiệu Trường Đại học An Giang, lãnh đạo Khoa Sư phạm, lãnh đạo Bộ môn Ngữ văn và các giảng viên trong Bộ môn Ngữ văn luôn đồng tình ủng hộ và rất nhiệt huyết với việc tổ chức các HĐTNST cho SV, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cá nhân, tổ chức trong việc tổ chức và triển khai các HĐTNST, có kế hoạch HĐTNST chi tiết, cụ thể, phong phú, hấp dẫn, bổ ích và thiết thực, đông đảo SV tỏ ra có hứng thú và nhiệt tình tham gia vào các HĐTNST. - Khó khăn: tỉ lệ SV tham gia vào các HĐTNST không đồng đều, khâu nghiệm thu kết quả HĐTNST và rút kinh nghiệm còn chưa được quan tâm đúng mực (phương án nghiệm thu kết quả còn chưa được xác định ngay từ bước lập kế hoạch và công bố trước để SV chủ động, có mục tiêu rõ ràng khi tham gia một số HĐTNST, SV chưa được cùng tham gia vào việc nghiệm thu, đánh giá và rút kinh nghiệm để các HĐTNST thực sự có ý nghĩa thiết thực đối với từng cá nhân SV). - Kiến nghị, đề xuất: + Trước khi tiến hành HĐTNST, Bộ môn lập kế hoạch chi tiết, trong đó có nêu rõ phương án nghiệm thu kết quả tham gia các HĐTNST trong kế hoạch và công bố cho SV biết để SV chủ động và có mục tiêu rõ ràng khi tham gia các hoạt động HĐTNST. + Việc tham gia các HĐTNST phải là một hoạt động bắt buộc hoặc được điểm cộng hay được tính điểm vào các học phần để thu hút đông đảo SV tham gia. + Để triển khai các HĐTNST, cần thiết phải xây dựng các kĩ năng mềm cho SV. SV phải huy động các kiến thức, kĩ năng, các phẩm chất năng lực tổng hợp để giải quyết các nhiệm vụ trong quá trình tham gia các HĐTNST, vì vậy, trong quá trình giảng dạy các học phần của mình, mỗi giảng viên phải chú ý tổ chức các HĐTNST ngay tại lớp cho SV như một quá trình tập dượt trước và cũng để trang trị kiến thức, kĩ năng, phẩm chất, năng lực cần thiết để SV có đủ tự tin tham gia vào các HĐTNST do Bộ môn tổ chức ở khuôn khổ ngoài lớp học. + Kết thúc mỗi HĐTNST: giảng viên yêu cầu SV viết và nộp bài thu hoạch, nộp các tư liệu văn học (được xây dựng theo nhóm). Kết quả đánh giá nội dung bài thu hoạch và các tư liệu văn học được tính thành một bài kiểm tra điều kiện Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 85-94 94 Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn trong một học phần. Bên cạnh đó, cũng cần cho SV được tham gia đóng góp ý kiến để điều chỉnh một số mặt trong việc tổ chức các HĐTNST. 5. Kết luận HĐTNST là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Hoạt động này giúp cho người học có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Đây là những hoạt động giáo dục được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm cuộc sống giúp phát triển tính sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Điều này đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức HĐTNST phải đa dạng, linh hoạt, người học tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Bài viết đã tổng kết và trình bày một số hình thức tổ chức HĐTNST cơ bản mà giảng viên Bộ môn Ngữ văn, Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang tổ chức cho SV trong suốt khóa học để hình thành các năng lực tổ chức HĐTNST cho học sinh phổ thông sau khi SV ra trường và công tác. Như vậy, ở các trường đại học và cao đẳng sư phạm, tuy đã có nhiều sự thay đổi trong phương pháp dạy học, có nhiều HĐTNST cho SV nhưng việc tổ chức các hoạt động này cần phải có sự tham gia, phối hợp, liên kết của nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường: cán bộ quản lí, cố vấn học tập, giảng viên bộ môn, Đoàn thanh niên và cả các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội. Bên cạnh đó, trường đại học cũng cần phải phát triển nội dung chương trình và tài liệu về hoạt động trải nghiệm. Về phía SV, có một thực trạng là nhận thức của một số em còn rất lạc hậu khi chỉ coi trọng việc soạn giáo án và tập giảng mà xem nhẹ việc tổ chức các HĐTNST cho học sinh ngoài giờ lên lớp. SV còn khá mơ hồ với thực tiễn giáo dục ở phổ thông, không có khả năng hướng dẫn học sinh và tạo được những hoạt động thu hút sự tham gia của nhiều học sinh ở các hoạt động ngoài giờ lên lớp bởi chính bản thân SV khi học ở các trường đại học sư phạm không tham gia nhiều vào các HĐTNST này. Vì vậy, HĐTNST phải là hoạt động bắt buộc tất cả SV phải tham gia. Bên cạnh đó, các giảng viên ở trường sư phạm phải đánh giá chặt chẽ kết quả HĐTNST của SV và đưa vào Hồ sơ quá trình trải nghiệm sáng tạo. Hồ sơ này cần phải được xem là một trong những minh chứng thuyết phục để đánh giá chuẩn đầu ra của SV về phẩm chất, năng lực và các kỹ năng thực hành nghề nghiệp./. Tài liệu tham khảo Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Thông tư ban hành Chương trình giáo dục phổ thông - chương trình tổng thể. Số 32/2018/TT- BGDĐT, ngày 26 tháng 12 năm 2018. Nguyễn Thị Dung. (2018). Hoạt động trải nghiệm trong dạy học kể chuyện của học sinh lớp 4,5. Kỷ yếu Hội thảo Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Ngữ văn trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia. Trịnh Thị Hương. (2018). Phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh tiểu học trong môn tập đọc thông qua trải nghiệm. Kỷ yếu Hội thảo Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Ngữ văn trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia.
File đính kèm:
- to_chuc_hoat_dong_trai_nghiem_sang_tao_cho_sinh_vien_ngu_van.pdf