Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson

Một văn bản hoàn toàn không phải là một sáng tạo duy nhất có một không hai của nhà văn/nhà

thơ, mà về cơ bản nó là sự tiếp nhận và biến đổi từ một văn bản khác. Khái niệm liên văn bản, được

xây dựng bởi Julia Kristeva (1941-), đề cập đến tính giao tiếp giữa một văn bản với một hay nhiều

văn bản trước nó, bằng các hình thức như biểu tượng, hình ảnh, chủ đề được sử dụng một cách

vô thức, như quan niệm của Sigmund Freud, hay một cách ý thức. Sự kết nối như thế giữa các văn

bản không làm nghèo đi tính sáng tạo trong sáng tác mà trái lại, làm mới hơn và phong phú hơn

diện mạo của văn bản. Emily Dickinson (1830 – 1886), một nữ văn sĩ người Mỹ, với tâm hồn nhạy

cảm và sự yêu thích lối sống ẩn dật, đã dùng những hình ảnh và câu chuyện trong Kinh Thánh,

một văn bản gắn liền với đời sống văn hóa xã hội của Dickinson, để nói lên những suy tư của bà

về tôn giáo và việc thực hành đạo. Những trải nghiệm về tôn giáo mà bà đưa vào thơ như một

thử nghiệm cá nhân, đã một cách kín đáo bộc lộ cho người đọc thấy rõ những tư tưởng phóng

khoáng cùng những mong manh nhạy cảm trong tâm hồn bà. Với tinh thần như thế, Dickinson

có thể được xem như là một đại diện cho tinh thần Mỹ, với tính cá nhân độc đáo, sáng tạo. Bài viết

này sẽ phân tích và làm rõ những ý trên bằng phương pháp nghiên cứu chính là phê bình liên văn

bản.

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 1

Trang 1

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 2

Trang 2

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 3

Trang 3

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 4

Trang 4

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 5

Trang 5

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 6

Trang 6

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 7

Trang 7

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 8960
Bạn đang xem tài liệu "Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson

Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson
Tạp chí Phát t riển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam
Liên hệ
Phạm Thị Hồng Ân, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt
Nam
Email: honganp@hcmussh.edu.vn
Lịch sử
 Ngày nhận: 10/12/2020
 Ngày chấp nhận: 05/5/2021
 Ngày đăng: 12/5/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.608
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson
Phạm Thị Hồng Ân*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Một văn bản hoàn toàn không phải là một sáng tạo duy nhất có một không hai của nhà văn/nhà
thơ, mà về cơ bản nó là sự tiếp nhận và biến đổi từmột văn bản khác. Khái niệm liên văn bản, được
xây dựng bởi Julia Kristeva (1941-), đề cập đến tính giao tiếp giữa một văn bản với một hay nhiều
văn bản trước nó, bằng các hình thức như biểu tượng, hình ảnh, chủ đề được sử dụngmột cách
vô thức, như quan niệm của Sigmund Freud, hay một cách ý thức. Sự kết nối như thế giữa các văn
bản không làm nghèo đi tính sáng tạo trong sáng tác mà trái lại, làm mới hơn và phong phú hơn
diện mạo của văn bản. Emily Dickinson (1830 – 1886), một nữ văn sĩ người Mỹ, với tâm hồn nhạy
cảm và sự yêu thích lối sống ẩn dật, đã dùng những hình ảnh và câu chuyện trong Kinh Thánh,
một văn bản gắn liền với đời sống văn hóa xã hội của Dickinson, để nói lên những suy tư của bà
về tôn giáo và việc thực hành đạo. Những trải nghiệm về tôn giáo mà bà đưa vào thơ như một
thử nghiệm cá nhân, đã một cách kín đáo bộc lộ cho người đọc thấy rõ những tư tưởng phóng
khoáng cùng những mong manh nhạy cảm trong tâm hồn bà. Với tinh thần như thế, Dickinson
có thể được xem như là một đại diện cho tinh thần Mỹ, với tính cá nhân độc đáo, sáng tạo. Bài viết
này sẽ phân tích và làm rõ những ý trên bằng phương pháp nghiên cứu chính là phê bình liên văn
bản.
Từ khoá: liên văn bản, Julia Kristeva, Dickinson, Kinh Thánh
MỞĐẦU
Các hình ảnh và chủ đề Kinh Thánh được nhận
thấy trong khá nhiều tác phẩm của các tác gia Mỹ
thời đại lãng mạn, như The Scarlet Letter (1850) của
Nathaniel Hawthorne,Moby Dick (1851) của Herman
Melville Emily Dickinson (1830 – 1886), một nhà
thơMỹ trong cùng thời đại, sinh trưởng trongmột gia
đình Tin lành Calnivist mà gốc gác của họ là Thanh
giáo, cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Kinh Thánh.
Đã có vài nghiên cứu xem xét mức độ liên văn bản
của Kinh Thánh trong toàn bộ thơ ca của bà, nhưng
chủ yếu ở khía cạnh tìm hiểu sự trưởng thành về niềm
tin trong đời sống tâm linh của Dickinson, hoặc chỉ
đơn giản đưa ra những điểm liên văn bản trong thơ
Dickinson với KinhThánh mà không có sự giải thích
hay phê bình nào. Có lẽ các tác giả ấy đã mặc nhiên
cho rằng những hình ảnh và chủ đề Kinh Thánh đã
quá gần gũi và quen thuộc chăng? Tuy nhiên, cho dù
Kinh Thánh có là bộ sách bán chạy và phổ biến nhất
trên toàn thế giới như thế nào, thì vẫn cần một sự lý
giải và phân tích thấu đáo tính liên văn bản ấy, để có
cơ sở khám phá thêm những nét độc đáo trong tư duy
của một tác giả, đặc biệt đối với nhà thơ nữ ẩn danh
như Emily Dickinson.
LIÊN VĂN BẢN – SỰ KẾT NỐI VÀ
SÁNG TẠO
Liên văn bản và sự kết nối
Julia Kristeva (24/6/1941-) được xem là người đầu
tiên giới thiệu khái niệm “liên văn bản” – intertextu-
ality – nhưmột thuật ngữ nghiên cứu văn học, nhưng
bà lại không phải là người đầu tiên nhận ra tính chất
độc đáo này của văn bản. Trước bà, nhiều học giả đã
đề cập đến điều này, ở nhiều mức độ và với những
cách thức khác nhau, bằng những tên gọi khác nhau.
Kristeva là người có công trong việc đặt tên cho một
khái niệm mà trước giờ nó chỉ được định hình một
cách mơ hồ và hầu như chưa được định danh; đồng
thời bà đã phát triển khái niệm đó thành một phần
trong hệ thống lý luận văn học.
Sigmund Freud (1856-1939) làmột nhà phân tâm học
có lòng đam mê văn học nghệ thuật, và đã có những
phát hiện độc đáo liên quan đến tính liên văn bản
trong văn học, dù lúc đó ông chưa gọi tên của nó. Việc
nghiên cứu văn học của ông thật ra là để phục vụ cho
công việc chính của ông: một bác sĩ phân tâmhọc; thế
nhưng những đóng góp của ông cho văn học lại không
hề nhỏ. Khi nghiên cứu về hoạt động của vô thức,
ông đã dùng phương pháp xếp chồng các văn bản lên
nhau, và phát hiện ra các chủ đề đã có từ xưa được các
nhà văn sử dụng lặp đi lặp lại một cách vô thức. Theo
nhà nghiên cứu Liễu Trương1, Freud đã phát hiện ra
rằng hai chủ đề “ba cái tráp” và “ba người con gái” là
chủ đề của nhiều tác phẩm xưa như chuyện phân xử
Trích dẫn bài báo này: Ân P T H. Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. 
Sci. Hum.; 5(2):991-998.
991
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998
của Pâris trong Thần thoại Hy Lạp, truyện ngụ ngôn
Pyché của Apulee (thế kỷ 2), truyện Cô bé Lọ Lem
của Charles Perrault (1628-1703) hay các truyện cổ
tích của anh emnhàGrimm[tr.97] trong cuốnTiểu
luận về môn Phân tâm học ứng dụng và Chất liệu của
truyện hoang đường trong những giấc mơ của chính
Freud. Như vậy, phương pháp “xếp chồng” của Freud
thoạt nhìn có vẻ hơi thô sơ, nhưng ông đã kết nối được
các tác phẩm từ cổ xưa đến hiện đại, và đã nhận ra đặc
tính giao tiếp với nhau giữa các văn bản này.
Trong giai đoạn của các lý thuyết gia Hậu cấu trúc
(Poststructuralists), Giải kiến tạo (Deconstructionists)
vàHậu hiện đại (Postmodernists) vào khoảng nửa cuối
thế kỷ XX, với những tư tưởng có ảnh hưởng mạnh
mẽ và đảo lộn truyền thống của lý luận văn học, họ
đã đi đến một kết luận chung là các văn bản không
còn một ý nghĩa xác định nào nữa. Cái được biểu đạt
(the signified) không còn liên kết chặt chẽ và sở chỉ
đến cái biểu đạt (the signifier) đã được quy ước như
trong lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại của Ferdinand
de Saussure (1857-1913) n ...  yêu và sự tôn trọng dành cho những gì mà
bà nhận ra mình đã được trao tặng bởi Thượng Đế.
God gave a Loaf to every Bird –
But just a Crumb – to Me –
I dare not eat it
My poignant luxury
To own it, touch it –
Prove the feat – that made the Pellet mine
Too happy – for my Sparrow’s chance
For Ampler Coveting
It might be Famine – all around –
I could not miss an Ear –
Such plenty smiles upon my Board –
My Garner shows so fair –
I won der how the Rich – may feel –
An Indiaman – An Earl –
I deem that I – with but a Crumb
Am Sovereign of them all.
(Thượng Đế ban cho mỗi chú chim một ổ bánh mì
e“Dickinson... wheels from dominance to submission, from
childish directness to arch sophistication, from loneliness to love.”
994
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998
Nhưng chỉ một vụn bánh – cho tôi
Tôi không dám ăn – dù đang chết đói
Nỗi xa xỉ cồn cào
Quá xa xỉ để sở hữu, chạm vào, hay chứng tỏ
Rằng tôi thật sự xứng đáng
Quá hạnh phúc với cơ hội nhỏ nhoi của tôi
Cho một sự khát khao
Nạn đói có thể quanh đây
Tôi không thể lầm được
Những nụ cười trên bàn ăn của tôi
Kho lương thực dư dật
Tôi tự hỏi những người giàu cảm thấy thế nào
Chiếc tàu buôn – Ngài Bá tước
Tôi đồ rằng tôi – với mẩu vụn bánh mì
Giàu có hơn tất cả trong số họ)
(#791)
Vụn bánh nhỏ “crumb” cũng là một hình ảnh trích
xuất từ Kinh thánh Tân ước [ 8, tr.1308-1309]. Khi
một người đàn bà ngoại giáo người Hy Lạp thuộc xứ
Xy-ri-a đến xin Chúa Giê-su trừ quỷ cho con gái bà,
Chúa đã nói: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì
không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho
chó con”, với ngụ ý người Do Thái như những đứa
con trong nhà, còn người ngoại được ví như chó con,
và phép lạ chỉ được thực hiện cho dân DoThái trước.
Ngài nói điều này vì muốn thử thách đức tin và lòng
kiên nhẫn của người phụ nữ. Nhưng bà trả lời: “Thưa
Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại
được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” Nghe
những lời đó, Chúa Giê-su đã chữa lành cho con gái
bà. Từ hình ảnh của Kinh Thánh, người đọc có thể
dễ dàng nhận ra tình yêu và sự khiêm tốn của Dick-
inson trong bài thơ, khi bà cũng tự nhận mình xứng
đáng với vụn bánh nhỏ, và cảm thấy hạnh phúc với
vụn bánh được trao tặng cho bà.
Bằng cách liên văn bản thơ củamình với KinhThánh,
Dickinson đã tự tạo nênmột tôn giáo của chínhmình,
vẽ nên một hình ảnh của Thượng Đế và Thiên đàng
cho chính mình. Những ám chỉ trong Kinh thánh
được Dickinson sử dụng trong thơ đã một phần phục
vụ cho mục đích của bà: ghi lại những cảm xúc mà
bà có đối với tôn giáo, Thượng Đế và việc hành đạo.
Qua đó, một khuôn mặt mới lạ của Thượng Đế được
làm nổi bật lên, khác vớiThượng Đếmà những người
cùng đạo tôn thờ, một tôn giáo của tâm hồn được
phác họa, và một cách hành đạo không giống bất kỳ
người nào trong cộng đồng, bởi vì bắt đầu từ năm 30
tuổi, bà đã ngưng không đến nhà thờ. Dickinson, với
những liên văn bản mà bà sử dụng trong thơ, đã đưa
người đọc vào cả hai thế giới, thế giới của niềm tin đại
trà và thế giới của tôn giáo do chính bà sáng tạo ra.
Những phúng dụ (allegory) đượcmở rộng từ
Kinh Thánh
Không chỉ dùng những ám chỉ trong Kinh thánh để
bộc lộ cảm xúc của mình, Dickinson còn mở rộng
những câu chuyện của Kinh Thánh thành những suy
tư mà bà có trong cuộc đời. Qua đó, người đọc dễ
dàng nhận ra sự nhạy cảm trong tâm hồn bà trước
những biến đổi nhanh chóng của cuộc sống.
Một trong những câu chuyện mà Dickinson sử dụng
là câu chuyện David và Goliath, một câu chuyện rất
quen thuộc trong Kinh thánh Cựu ước, sách Samuel
quyển 1, chương 17 [ 10, tr.322-324]. Goliath, người
Philitine, thù địch của người Israel, là một gã to lớn
đầy sức mạnh. Nhờ Goliath mà quân Philitine đã
nhiều lần khiến quân Israel kinh hồn bạt vía. David,
trái lại, làmột chàng trai trẻ nhỏnhắn, ưa nhìn vớimái
tóc màu hung, người Israel. Chàng có tài bắn cung
thiện nghệ, tinh thần quả cảm, và đầu óc mưu lược
sắc sảo nên đã xin vua Israel đối đầu với tên Goliath
ngạo mạn và báng bổ đó. Goliath giương giương tự
đắc khi nhìn thấy David trên chiến trường; tuy nhiên,
nhờ tài thiện xạ củamình và sự phó thác tin tưởng vào
ThượngĐế của Israel, David đã hạ gục Goliath chỉ với
một viên đạn sỏi cắm sâu ngay giữa trán của nó. Sau
đó, chàng dùng gươm chặt đầu tên Goliath kiêu căng,
khiến đội quân Philitine hoảng sợ và bỏ chạy. Israel
được giải thoát, vui mừng hò reo chiến thắng.
Trong một bài thơ ngắn của mình, Dickinson viết:
I too k my Power in my Hand –
And went against the World
‘Twas not so much as David – had –
But I – was twice as bold –
I aimed Pebble – but Myself
Was all the one that fell –
Was it Goliath – was too large –
Or was myself – too small?
(Tôi thu hết sức mình trong tay
Để chống lại thế giới
Dù không mạnh mẽ như David
Nhưng tôi can đảm gấp hai
Tôi nhắm hòn sỏi – nhưng chính tôi
Lại là người gục ngã
Có phải vì Goliath quá to lớn
Hay chỉ vì tôi quá nhỏ nhoi?)
(#540)
Bài thơ gợi nhắc lại câu chuyện Kinh thánh kể trên,
nhưng còn được Dickinson mở rộng ra thành những
chất vấn trong cuộc sống. Goliath có thể tượng trưng
995
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998
cho cuộc sống quanhDickinson, một đời sốngmà đối
với bà có thể quá mạnh mẽ, hồ hởi, mà trái tim của
bà lại mong manh, nhạy cảm, bé nhỏ như David. Có
phải vì vậymà bà nhận thấy rằng, khác với câu chuyện
trong KinhThánh, chính trái tim nhỏ nhoi của bà lại
là kẻ bị gục ngã trước sứcmạnh vũ bão của cuộc sống?
Dù Dickinson đã cố gắng tập trung tất cả sức lực của
mình: “I took my Power in my Hand  and I – was
twice as bold”, tâm hồn bà dường như vẫn quá nhạy
cảm và yếu đuối. Phải chăng vì thế mà Dickinson đã
chọn một cuộc sống ẩn dật bên những gì nhẹ nhàng,
quen thuộc, để bảo vệ tâmhồn và trái timmỏngmảnh
của mình? Có lẽ điều này đúng, vì trong một lá thư
bà gửi cho Elizabeth Holland khi bà phải chuyển nhà,
Dickinson thổ lộ rằng bà cảm thấy như bị lạc giữa sự
mới mẻ lạ lẫm, đến nỗi phải “chong đèn bước ra để
tìm lại chính mình”f [11, tr.81], dù ngôi nhà mới chỉ
cách gia trang cũ có vài dãy phố.
Trong một bài thơ khác, Dickinson mở rộng từ câu
chuyện về cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, việc Chúa
phải tự vác cây thập giá của mình đến đồi Calvary
để lính La Mã đóng đinh vào cây thập giá đó, như
một hình phạt dành cho những kẻ gây rối loạn xã hội.
Những người theo Ki-tô giáo, vì thế, thường nói ví
von việc vác thập giá mình – những khó khăn, gian
khổ - chính là một cách bước theo con đường của
Đấng sáng lập. Dickinson, thay vì dùng hình ảnh
“thập giá”, đã viện đến một hình ảnh khác tình cảm
hơn và có thể giàu sức tưởng tượng hơn: trái tim.
Savior! I’ve no one else to tell—
And so I trouble thee.
I am the one forgot thee so—
Dost thou remember me?
Nor, for myself, I came so far—
That were the little load—
I brought thee the imperial Heart
I had not strength to hold—
The Heart I carried in my own—
Till mine too heavy grew—
Yet—strangest—heavier since it went—
Is it too large for you?
(Lạy Đấng cứu độ! Con chẳng có ai để tỏ –
Nên con phiền đến ngài
Con đã thường lãng quên ngài –
Ngài còn nhớ con chăng?
Con đến với ngài chẳng phải vì con
Đó là một gánh rất nhẹ
Con đem đến ngài một trái tim to lớn
Mà con chẳng còn sức mạnh để chịu được
Trái tim mà con phải tự mình mang vác
f“I am out with lanterns, looking for myself.”
Cho đến khi nó quá nặng nề
Nhưng – lạ nhất là – nặng hơn từ lúc nó ra đi
Nó có quá lớn với ngài không?)
(#217)
Rõ ràng bài thơ làm người đọc nghĩ ngay đến câu
chuyện khổ nạn với danh từ riêng “Savior” (người cứu
độ) và động từ “carry” (mang, vác), nhưng hình ảnh
“trái tim” lại khiến người đọc hơi khựng lại. Thật dễ
hiểu, dễ đoán nếu trong bài thơ xuất hiện hình ảnh
“thập giá.” Nhưng không, với Dickinson, đó không
phải là một thập giá mà là một trái tim, một trái tim
đã càng ngày càng nặng nề khiến bà không đủ sức
mang nó nữa, giống như Chúa Giê-su cũng đã vài lần
gục ngã vì sức nặng của thập giá trên đường đến đồi
Calvary. Không biết những tình cảm nào chất chứa
trong trái tim khiến bà cảm thấy nặng nề như thập
giá, nhưng ta biết rằng, một lần nữa, tâm hồn Dickin-
son rấtmongmanh, dù cá tính bà có độc đáo vàmạnh
mẽ thế nào đi nữa!
KẾT LUẬN
Với những ám chỉ và phúng dụ từ KinhThánh, Dick-
inson đã bộc lộ cho người đọc thấymột phần tâm hồn
của bà: vừa mạnh mẽ, nổi loạn, với một tôn giáo và
Thượng Đế của riêng bà, lại vừa mỏng manh, nhạy
cảm trước cuộc sống và con người. Vì Kinh Thánh
gắn bó chặt chẽ với văn hoá và cuộc sống của Emily
Dickinson, tính kết nối văn bản giữa thơ Dickinson
và KinhThánh là điều có thể hiểu được. Với tinh thần
tự do phóng khoáng như thế, Dickinson có thể được
xem như là một đại diện cho tinh thần Mỹ, với tính
cá nhân độc đáo, sáng tạo. Quả thật, tuy là một nhà
thơ nữ ẩn dật, bà lại luôn được xếp ngang hàng với
Walt Whitman, một tượng đài thơ Mỹ. Bên cạnh đó,
sự nhạy cảm trong tâm hồn của nữ sĩ lại giúp bà thoát
khỏi tính cơ giới của một cuộc sống nhiều với biến
đổi vũ bão, và giữ được sự nối kết sâu xa với thế giới
tâm linh của chính mình. Người viết hy vọng bài viết
ngắn này có thể mở ra một góc nhìn tham khảo về
tâm hồn và cuộc đời thơ của Dickinson trong sự kết
nối với truyền thống và sáng tạo cá nhân mà những
sáng tác của bà đã thể hiệnmột cách chân thật và sinh
động.
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Bài viết chỉ do tác giả thực hiện. Bài viết này đóng góp
thêm một góc nhìn tham khảo trong những hướng
khảo sát thơ Dickinson. Tuy đã có vài nghiên cứu liên
văn bản trong thơ Dickinson được thực hiện ở Mỹ,
996
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998
nhưng các nghiên cứu đó hầu như tập trung vào sự
trưởng thành của niềm tin trong đời sống tâm linh
của Dickinson, hoặc chỉ ra những điểm liên văn bản
trong thơDickinson với KinhThánh, chứ không nhấn
mạnh hay phân tích những trải nghiệm về tôn giáo
trong cuộc sống mà bà đưa vào thử nghiệm với thơ
như trong bài nghiên cứu này. Hơn nữa, bài viết
này giới thiệu được những bài thơ chưa phổ biến với
người đọc Việt Nam, vì chưa được dịch ra.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Trương L. Phân tâmhọc và Phê bình Văn học. HàNội: NXB Phụ
Nữ. 2011;.
2. Leich VB, et al. The Norton Anthology of Theory and Criticism.
New York: W.W. Norton & Company, Inc. 2010;.
3. Lập NT. Văn chương như là quá trình dụng điển. Hà Nội: NXB
ĐHQG Hà Nội. 2017;.
4. Harold B. The Anxiety of Influence. Oxford: Oxford University
Press. 1997;.
5. Howard L. Americanization of the European Heritage. Trần
Thị Quỳnh Thuận dịch. Trong Những cuộc hội ngộ của Văn
chương thế giới. Văn học so sánh: Nghiên cứu và dịch thuật.
TP. HCM: NXB Văn hóa Văn nghệ. 2019;p. 191–203.
6. Tocqueville AD. Nền dân trị Mỹ. Phạm Toàn dịch. Hà Nội: NXB
Tri Thức. 2016;.
7. Farstad AL. Jesus and Emily: The Biblical Roots of Emily
Dickinson’s Poetry. Journal of the Grace Evangelical Soci-
ety. 1991;4(2). Available from: https://faithalone.org/journal/
1991b/Farstad.html.
8. Ladin J. Meeting Her Maker: Emily Dickinson’s God. Trong
Harold Bloom, Emily Dickinson. New York: Infobase Publish-
ing. 2008;.
9. Ostriker A. Re-Playing the Bible: My Emily Dickinson. TrongM.
N. Smith & M. Loeffelhoiz (Eds.). A Companion to Emily Dick-
inson. Oxford: Blackwell. 2008;Available from: https://doi.org/
10.1002/9780470696620.ch24.
10. Nhóm Phiên dịch các giờ Kinh Phụng vụ (biên tập). Kinh
Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước. TP.HCM: NXB TP.HCM.
2002;.
11. Benfey CEG. A Route of Evanescence: Emily Dickinson and
Japan. Trong The Emily Dickinson Journal. 2007;16(2):81–93.
Available from: https://doi.org/10.1353/edj.2007.0007.
997
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(2):991-998
Open Access Full Text Article Research article
University of Social Sciences &
Humanities, VNU-HCM, Vietnam
Correspondence
Pham Thi Hong An, University of Social
Sciences & Humanities, VNU-HCM,
Vietnam
Email: honganp@hcmussh.edu.vn
History
 Received: 10/12/2020 
 Accepted: 05/5/2021 
 Published: 12/5/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.608 
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Intertextuality in Emily Dickinson’s poetry
Pham Thi Hong An*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
A text is absolutely not a writer's genuine creation, but principally it receives the material and is
altered from another text. The concept of intertextuality is constructed by Julia Kristeva (1941-
), stressing the interconnection between a text and other prior ones. Intertextuality can be in the
form of topics, motifs, images, symbols, and so on, constantly employed by thewriter either uncon-
sciously, as believed by Freud, or consciously. In so doing, intertextuality, however, does not mean
to diminish creativity in writing; on the contrary, it diversifies the process. Emily Dickinson (1830 –
1886), a talented but reclusive American poet, has utilized quite a number of images, symbols, and
tales in the Bible, the text of considerable influence in her culture and society, in her poems. Her
intertextuality with the Bible sophisticatedly proves her thoughts of the religion and its practice.
Her religious experiences, which are interwoven in her poetry, reveal the spirit of liberty and sensi-
tiveness she possesses. Bearing such philosophy in poetry and life, Dickinson can be regarded as a
symbol of American soul with unique and creative individualism. This paper will analyze and clarify
the aforementioned proposition, principally using the method of intertextual criticism.
Key words: intertextuality, Kristeva, Dickinson, Bible
Cite this article : An P T H. Intertextuality in Emily Dickinson’s poetry. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 
5(2):991-998.
998

File đính kèm:

  • pdftinh_lien_van_ban_trong_tho_emily_dickinson.pdf