Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson
Một văn bản hoàn toàn không phải là một sáng tạo duy nhất có một không hai của nhà văn/nhà
thơ, mà về cơ bản nó là sự tiếp nhận và biến đổi từ một văn bản khác. Khái niệm liên văn bản, được
xây dựng bởi Julia Kristeva (1941-), đề cập đến tính giao tiếp giữa một văn bản với một hay nhiều
văn bản trước nó, bằng các hình thức như biểu tượng, hình ảnh, chủ đề được sử dụng một cách
vô thức, như quan niệm của Sigmund Freud, hay một cách ý thức. Sự kết nối như thế giữa các văn
bản không làm nghèo đi tính sáng tạo trong sáng tác mà trái lại, làm mới hơn và phong phú hơn
diện mạo của văn bản. Emily Dickinson (1830 – 1886), một nữ văn sĩ người Mỹ, với tâm hồn nhạy
cảm và sự yêu thích lối sống ẩn dật, đã dùng những hình ảnh và câu chuyện trong Kinh Thánh,
một văn bản gắn liền với đời sống văn hóa xã hội của Dickinson, để nói lên những suy tư của bà
về tôn giáo và việc thực hành đạo. Những trải nghiệm về tôn giáo mà bà đưa vào thơ như một
thử nghiệm cá nhân, đã một cách kín đáo bộc lộ cho người đọc thấy rõ những tư tưởng phóng
khoáng cùng những mong manh nhạy cảm trong tâm hồn bà. Với tinh thần như thế, Dickinson
có thể được xem như là một đại diện cho tinh thần Mỹ, với tính cá nhân độc đáo, sáng tạo. Bài viết
này sẽ phân tích và làm rõ những ý trên bằng phương pháp nghiên cứu chính là phê bình liên văn
bản.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson
Tạp chí Phát t riển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998 Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam Liên hệ Phạm Thị Hồng Ân, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam Email: honganp@hcmussh.edu.vn Lịch sử Ngày nhận: 10/12/2020 Ngày chấp nhận: 05/5/2021 Ngày đăng: 12/5/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.608 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson Phạm Thị Hồng Ân* Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Một văn bản hoàn toàn không phải là một sáng tạo duy nhất có một không hai của nhà văn/nhà thơ, mà về cơ bản nó là sự tiếp nhận và biến đổi từmột văn bản khác. Khái niệm liên văn bản, được xây dựng bởi Julia Kristeva (1941-), đề cập đến tính giao tiếp giữa một văn bản với một hay nhiều văn bản trước nó, bằng các hình thức như biểu tượng, hình ảnh, chủ đề được sử dụngmột cách vô thức, như quan niệm của Sigmund Freud, hay một cách ý thức. Sự kết nối như thế giữa các văn bản không làm nghèo đi tính sáng tạo trong sáng tác mà trái lại, làm mới hơn và phong phú hơn diện mạo của văn bản. Emily Dickinson (1830 – 1886), một nữ văn sĩ người Mỹ, với tâm hồn nhạy cảm và sự yêu thích lối sống ẩn dật, đã dùng những hình ảnh và câu chuyện trong Kinh Thánh, một văn bản gắn liền với đời sống văn hóa xã hội của Dickinson, để nói lên những suy tư của bà về tôn giáo và việc thực hành đạo. Những trải nghiệm về tôn giáo mà bà đưa vào thơ như một thử nghiệm cá nhân, đã một cách kín đáo bộc lộ cho người đọc thấy rõ những tư tưởng phóng khoáng cùng những mong manh nhạy cảm trong tâm hồn bà. Với tinh thần như thế, Dickinson có thể được xem như là một đại diện cho tinh thần Mỹ, với tính cá nhân độc đáo, sáng tạo. Bài viết này sẽ phân tích và làm rõ những ý trên bằng phương pháp nghiên cứu chính là phê bình liên văn bản. Từ khoá: liên văn bản, Julia Kristeva, Dickinson, Kinh Thánh MỞĐẦU Các hình ảnh và chủ đề Kinh Thánh được nhận thấy trong khá nhiều tác phẩm của các tác gia Mỹ thời đại lãng mạn, như The Scarlet Letter (1850) của Nathaniel Hawthorne,Moby Dick (1851) của Herman Melville Emily Dickinson (1830 – 1886), một nhà thơMỹ trong cùng thời đại, sinh trưởng trongmột gia đình Tin lành Calnivist mà gốc gác của họ là Thanh giáo, cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Kinh Thánh. Đã có vài nghiên cứu xem xét mức độ liên văn bản của Kinh Thánh trong toàn bộ thơ ca của bà, nhưng chủ yếu ở khía cạnh tìm hiểu sự trưởng thành về niềm tin trong đời sống tâm linh của Dickinson, hoặc chỉ đơn giản đưa ra những điểm liên văn bản trong thơ Dickinson với KinhThánh mà không có sự giải thích hay phê bình nào. Có lẽ các tác giả ấy đã mặc nhiên cho rằng những hình ảnh và chủ đề Kinh Thánh đã quá gần gũi và quen thuộc chăng? Tuy nhiên, cho dù Kinh Thánh có là bộ sách bán chạy và phổ biến nhất trên toàn thế giới như thế nào, thì vẫn cần một sự lý giải và phân tích thấu đáo tính liên văn bản ấy, để có cơ sở khám phá thêm những nét độc đáo trong tư duy của một tác giả, đặc biệt đối với nhà thơ nữ ẩn danh như Emily Dickinson. LIÊN VĂN BẢN – SỰ KẾT NỐI VÀ SÁNG TẠO Liên văn bản và sự kết nối Julia Kristeva (24/6/1941-) được xem là người đầu tiên giới thiệu khái niệm “liên văn bản” – intertextu- ality – nhưmột thuật ngữ nghiên cứu văn học, nhưng bà lại không phải là người đầu tiên nhận ra tính chất độc đáo này của văn bản. Trước bà, nhiều học giả đã đề cập đến điều này, ở nhiều mức độ và với những cách thức khác nhau, bằng những tên gọi khác nhau. Kristeva là người có công trong việc đặt tên cho một khái niệm mà trước giờ nó chỉ được định hình một cách mơ hồ và hầu như chưa được định danh; đồng thời bà đã phát triển khái niệm đó thành một phần trong hệ thống lý luận văn học. Sigmund Freud (1856-1939) làmột nhà phân tâm học có lòng đam mê văn học nghệ thuật, và đã có những phát hiện độc đáo liên quan đến tính liên văn bản trong văn học, dù lúc đó ông chưa gọi tên của nó. Việc nghiên cứu văn học của ông thật ra là để phục vụ cho công việc chính của ông: một bác sĩ phân tâmhọc; thế nhưng những đóng góp của ông cho văn học lại không hề nhỏ. Khi nghiên cứu về hoạt động của vô thức, ông đã dùng phương pháp xếp chồng các văn bản lên nhau, và phát hiện ra các chủ đề đã có từ xưa được các nhà văn sử dụng lặp đi lặp lại một cách vô thức. Theo nhà nghiên cứu Liễu Trương1, Freud đã phát hiện ra rằng hai chủ đề “ba cái tráp” và “ba người con gái” là chủ đề của nhiều tác phẩm xưa như chuyện phân xử Trích dẫn bài báo này: Ân P T H. Tính liên văn bản trong thơ Emily Dickinson. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):991-998. 991 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998 của Pâris trong Thần thoại Hy Lạp, truyện ngụ ngôn Pyché của Apulee (thế kỷ 2), truyện Cô bé Lọ Lem của Charles Perrault (1628-1703) hay các truyện cổ tích của anh emnhàGrimm[tr.97] trong cuốnTiểu luận về môn Phân tâm học ứng dụng và Chất liệu của truyện hoang đường trong những giấc mơ của chính Freud. Như vậy, phương pháp “xếp chồng” của Freud thoạt nhìn có vẻ hơi thô sơ, nhưng ông đã kết nối được các tác phẩm từ cổ xưa đến hiện đại, và đã nhận ra đặc tính giao tiếp với nhau giữa các văn bản này. Trong giai đoạn của các lý thuyết gia Hậu cấu trúc (Poststructuralists), Giải kiến tạo (Deconstructionists) vàHậu hiện đại (Postmodernists) vào khoảng nửa cuối thế kỷ XX, với những tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ và đảo lộn truyền thống của lý luận văn học, họ đã đi đến một kết luận chung là các văn bản không còn một ý nghĩa xác định nào nữa. Cái được biểu đạt (the signified) không còn liên kết chặt chẽ và sở chỉ đến cái biểu đạt (the signifier) đã được quy ước như trong lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại của Ferdinand de Saussure (1857-1913) n ... yêu và sự tôn trọng dành cho những gì mà bà nhận ra mình đã được trao tặng bởi Thượng Đế. God gave a Loaf to every Bird – But just a Crumb – to Me – I dare not eat it My poignant luxury To own it, touch it – Prove the feat – that made the Pellet mine Too happy – for my Sparrow’s chance For Ampler Coveting It might be Famine – all around – I could not miss an Ear – Such plenty smiles upon my Board – My Garner shows so fair – I won der how the Rich – may feel – An Indiaman – An Earl – I deem that I – with but a Crumb Am Sovereign of them all. (Thượng Đế ban cho mỗi chú chim một ổ bánh mì e“Dickinson... wheels from dominance to submission, from childish directness to arch sophistication, from loneliness to love.” 994 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998 Nhưng chỉ một vụn bánh – cho tôi Tôi không dám ăn – dù đang chết đói Nỗi xa xỉ cồn cào Quá xa xỉ để sở hữu, chạm vào, hay chứng tỏ Rằng tôi thật sự xứng đáng Quá hạnh phúc với cơ hội nhỏ nhoi của tôi Cho một sự khát khao Nạn đói có thể quanh đây Tôi không thể lầm được Những nụ cười trên bàn ăn của tôi Kho lương thực dư dật Tôi tự hỏi những người giàu cảm thấy thế nào Chiếc tàu buôn – Ngài Bá tước Tôi đồ rằng tôi – với mẩu vụn bánh mì Giàu có hơn tất cả trong số họ) (#791) Vụn bánh nhỏ “crumb” cũng là một hình ảnh trích xuất từ Kinh thánh Tân ước [ 8, tr.1308-1309]. Khi một người đàn bà ngoại giáo người Hy Lạp thuộc xứ Xy-ri-a đến xin Chúa Giê-su trừ quỷ cho con gái bà, Chúa đã nói: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”, với ngụ ý người Do Thái như những đứa con trong nhà, còn người ngoại được ví như chó con, và phép lạ chỉ được thực hiện cho dân DoThái trước. Ngài nói điều này vì muốn thử thách đức tin và lòng kiên nhẫn của người phụ nữ. Nhưng bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” Nghe những lời đó, Chúa Giê-su đã chữa lành cho con gái bà. Từ hình ảnh của Kinh Thánh, người đọc có thể dễ dàng nhận ra tình yêu và sự khiêm tốn của Dick- inson trong bài thơ, khi bà cũng tự nhận mình xứng đáng với vụn bánh nhỏ, và cảm thấy hạnh phúc với vụn bánh được trao tặng cho bà. Bằng cách liên văn bản thơ củamình với KinhThánh, Dickinson đã tự tạo nênmột tôn giáo của chínhmình, vẽ nên một hình ảnh của Thượng Đế và Thiên đàng cho chính mình. Những ám chỉ trong Kinh thánh được Dickinson sử dụng trong thơ đã một phần phục vụ cho mục đích của bà: ghi lại những cảm xúc mà bà có đối với tôn giáo, Thượng Đế và việc hành đạo. Qua đó, một khuôn mặt mới lạ của Thượng Đế được làm nổi bật lên, khác vớiThượng Đếmà những người cùng đạo tôn thờ, một tôn giáo của tâm hồn được phác họa, và một cách hành đạo không giống bất kỳ người nào trong cộng đồng, bởi vì bắt đầu từ năm 30 tuổi, bà đã ngưng không đến nhà thờ. Dickinson, với những liên văn bản mà bà sử dụng trong thơ, đã đưa người đọc vào cả hai thế giới, thế giới của niềm tin đại trà và thế giới của tôn giáo do chính bà sáng tạo ra. Những phúng dụ (allegory) đượcmở rộng từ Kinh Thánh Không chỉ dùng những ám chỉ trong Kinh thánh để bộc lộ cảm xúc của mình, Dickinson còn mở rộng những câu chuyện của Kinh Thánh thành những suy tư mà bà có trong cuộc đời. Qua đó, người đọc dễ dàng nhận ra sự nhạy cảm trong tâm hồn bà trước những biến đổi nhanh chóng của cuộc sống. Một trong những câu chuyện mà Dickinson sử dụng là câu chuyện David và Goliath, một câu chuyện rất quen thuộc trong Kinh thánh Cựu ước, sách Samuel quyển 1, chương 17 [ 10, tr.322-324]. Goliath, người Philitine, thù địch của người Israel, là một gã to lớn đầy sức mạnh. Nhờ Goliath mà quân Philitine đã nhiều lần khiến quân Israel kinh hồn bạt vía. David, trái lại, làmột chàng trai trẻ nhỏnhắn, ưa nhìn vớimái tóc màu hung, người Israel. Chàng có tài bắn cung thiện nghệ, tinh thần quả cảm, và đầu óc mưu lược sắc sảo nên đã xin vua Israel đối đầu với tên Goliath ngạo mạn và báng bổ đó. Goliath giương giương tự đắc khi nhìn thấy David trên chiến trường; tuy nhiên, nhờ tài thiện xạ củamình và sự phó thác tin tưởng vào ThượngĐế của Israel, David đã hạ gục Goliath chỉ với một viên đạn sỏi cắm sâu ngay giữa trán của nó. Sau đó, chàng dùng gươm chặt đầu tên Goliath kiêu căng, khiến đội quân Philitine hoảng sợ và bỏ chạy. Israel được giải thoát, vui mừng hò reo chiến thắng. Trong một bài thơ ngắn của mình, Dickinson viết: I too k my Power in my Hand – And went against the World ‘Twas not so much as David – had – But I – was twice as bold – I aimed Pebble – but Myself Was all the one that fell – Was it Goliath – was too large – Or was myself – too small? (Tôi thu hết sức mình trong tay Để chống lại thế giới Dù không mạnh mẽ như David Nhưng tôi can đảm gấp hai Tôi nhắm hòn sỏi – nhưng chính tôi Lại là người gục ngã Có phải vì Goliath quá to lớn Hay chỉ vì tôi quá nhỏ nhoi?) (#540) Bài thơ gợi nhắc lại câu chuyện Kinh thánh kể trên, nhưng còn được Dickinson mở rộng ra thành những chất vấn trong cuộc sống. Goliath có thể tượng trưng 995 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998 cho cuộc sống quanhDickinson, một đời sốngmà đối với bà có thể quá mạnh mẽ, hồ hởi, mà trái tim của bà lại mong manh, nhạy cảm, bé nhỏ như David. Có phải vì vậymà bà nhận thấy rằng, khác với câu chuyện trong KinhThánh, chính trái tim nhỏ nhoi của bà lại là kẻ bị gục ngã trước sứcmạnh vũ bão của cuộc sống? Dù Dickinson đã cố gắng tập trung tất cả sức lực của mình: “I took my Power in my Hand and I – was twice as bold”, tâm hồn bà dường như vẫn quá nhạy cảm và yếu đuối. Phải chăng vì thế mà Dickinson đã chọn một cuộc sống ẩn dật bên những gì nhẹ nhàng, quen thuộc, để bảo vệ tâmhồn và trái timmỏngmảnh của mình? Có lẽ điều này đúng, vì trong một lá thư bà gửi cho Elizabeth Holland khi bà phải chuyển nhà, Dickinson thổ lộ rằng bà cảm thấy như bị lạc giữa sự mới mẻ lạ lẫm, đến nỗi phải “chong đèn bước ra để tìm lại chính mình”f [11, tr.81], dù ngôi nhà mới chỉ cách gia trang cũ có vài dãy phố. Trong một bài thơ khác, Dickinson mở rộng từ câu chuyện về cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, việc Chúa phải tự vác cây thập giá của mình đến đồi Calvary để lính La Mã đóng đinh vào cây thập giá đó, như một hình phạt dành cho những kẻ gây rối loạn xã hội. Những người theo Ki-tô giáo, vì thế, thường nói ví von việc vác thập giá mình – những khó khăn, gian khổ - chính là một cách bước theo con đường của Đấng sáng lập. Dickinson, thay vì dùng hình ảnh “thập giá”, đã viện đến một hình ảnh khác tình cảm hơn và có thể giàu sức tưởng tượng hơn: trái tim. Savior! I’ve no one else to tell— And so I trouble thee. I am the one forgot thee so— Dost thou remember me? Nor, for myself, I came so far— That were the little load— I brought thee the imperial Heart I had not strength to hold— The Heart I carried in my own— Till mine too heavy grew— Yet—strangest—heavier since it went— Is it too large for you? (Lạy Đấng cứu độ! Con chẳng có ai để tỏ – Nên con phiền đến ngài Con đã thường lãng quên ngài – Ngài còn nhớ con chăng? Con đến với ngài chẳng phải vì con Đó là một gánh rất nhẹ Con đem đến ngài một trái tim to lớn Mà con chẳng còn sức mạnh để chịu được Trái tim mà con phải tự mình mang vác f“I am out with lanterns, looking for myself.” Cho đến khi nó quá nặng nề Nhưng – lạ nhất là – nặng hơn từ lúc nó ra đi Nó có quá lớn với ngài không?) (#217) Rõ ràng bài thơ làm người đọc nghĩ ngay đến câu chuyện khổ nạn với danh từ riêng “Savior” (người cứu độ) và động từ “carry” (mang, vác), nhưng hình ảnh “trái tim” lại khiến người đọc hơi khựng lại. Thật dễ hiểu, dễ đoán nếu trong bài thơ xuất hiện hình ảnh “thập giá.” Nhưng không, với Dickinson, đó không phải là một thập giá mà là một trái tim, một trái tim đã càng ngày càng nặng nề khiến bà không đủ sức mang nó nữa, giống như Chúa Giê-su cũng đã vài lần gục ngã vì sức nặng của thập giá trên đường đến đồi Calvary. Không biết những tình cảm nào chất chứa trong trái tim khiến bà cảm thấy nặng nề như thập giá, nhưng ta biết rằng, một lần nữa, tâm hồn Dickin- son rấtmongmanh, dù cá tính bà có độc đáo vàmạnh mẽ thế nào đi nữa! KẾT LUẬN Với những ám chỉ và phúng dụ từ KinhThánh, Dick- inson đã bộc lộ cho người đọc thấymột phần tâm hồn của bà: vừa mạnh mẽ, nổi loạn, với một tôn giáo và Thượng Đế của riêng bà, lại vừa mỏng manh, nhạy cảm trước cuộc sống và con người. Vì Kinh Thánh gắn bó chặt chẽ với văn hoá và cuộc sống của Emily Dickinson, tính kết nối văn bản giữa thơ Dickinson và KinhThánh là điều có thể hiểu được. Với tinh thần tự do phóng khoáng như thế, Dickinson có thể được xem như là một đại diện cho tinh thần Mỹ, với tính cá nhân độc đáo, sáng tạo. Quả thật, tuy là một nhà thơ nữ ẩn dật, bà lại luôn được xếp ngang hàng với Walt Whitman, một tượng đài thơ Mỹ. Bên cạnh đó, sự nhạy cảm trong tâm hồn của nữ sĩ lại giúp bà thoát khỏi tính cơ giới của một cuộc sống nhiều với biến đổi vũ bão, và giữ được sự nối kết sâu xa với thế giới tâm linh của chính mình. Người viết hy vọng bài viết ngắn này có thể mở ra một góc nhìn tham khảo về tâm hồn và cuộc đời thơ của Dickinson trong sự kết nối với truyền thống và sáng tạo cá nhân mà những sáng tác của bà đã thể hiệnmột cách chân thật và sinh động. XUNGĐỘT LỢI ÍCH Bản thảo này không có xung đột lợi ích. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Bài viết chỉ do tác giả thực hiện. Bài viết này đóng góp thêm một góc nhìn tham khảo trong những hướng khảo sát thơ Dickinson. Tuy đã có vài nghiên cứu liên văn bản trong thơ Dickinson được thực hiện ở Mỹ, 996 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):991-998 nhưng các nghiên cứu đó hầu như tập trung vào sự trưởng thành của niềm tin trong đời sống tâm linh của Dickinson, hoặc chỉ ra những điểm liên văn bản trong thơDickinson với KinhThánh, chứ không nhấn mạnh hay phân tích những trải nghiệm về tôn giáo trong cuộc sống mà bà đưa vào thử nghiệm với thơ như trong bài nghiên cứu này. Hơn nữa, bài viết này giới thiệu được những bài thơ chưa phổ biến với người đọc Việt Nam, vì chưa được dịch ra. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Trương L. Phân tâmhọc và Phê bình Văn học. HàNội: NXB Phụ Nữ. 2011;. 2. Leich VB, et al. The Norton Anthology of Theory and Criticism. New York: W.W. Norton & Company, Inc. 2010;. 3. Lập NT. Văn chương như là quá trình dụng điển. Hà Nội: NXB ĐHQG Hà Nội. 2017;. 4. Harold B. The Anxiety of Influence. Oxford: Oxford University Press. 1997;. 5. Howard L. Americanization of the European Heritage. Trần Thị Quỳnh Thuận dịch. Trong Những cuộc hội ngộ của Văn chương thế giới. Văn học so sánh: Nghiên cứu và dịch thuật. TP. HCM: NXB Văn hóa Văn nghệ. 2019;p. 191–203. 6. Tocqueville AD. Nền dân trị Mỹ. Phạm Toàn dịch. Hà Nội: NXB Tri Thức. 2016;. 7. Farstad AL. Jesus and Emily: The Biblical Roots of Emily Dickinson’s Poetry. Journal of the Grace Evangelical Soci- ety. 1991;4(2). Available from: https://faithalone.org/journal/ 1991b/Farstad.html. 8. Ladin J. Meeting Her Maker: Emily Dickinson’s God. Trong Harold Bloom, Emily Dickinson. New York: Infobase Publish- ing. 2008;. 9. Ostriker A. Re-Playing the Bible: My Emily Dickinson. TrongM. N. Smith & M. Loeffelhoiz (Eds.). A Companion to Emily Dick- inson. Oxford: Blackwell. 2008;Available from: https://doi.org/ 10.1002/9780470696620.ch24. 10. Nhóm Phiên dịch các giờ Kinh Phụng vụ (biên tập). Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước. TP.HCM: NXB TP.HCM. 2002;. 11. Benfey CEG. A Route of Evanescence: Emily Dickinson and Japan. Trong The Emily Dickinson Journal. 2007;16(2):81–93. Available from: https://doi.org/10.1353/edj.2007.0007. 997 Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(2):991-998 Open Access Full Text Article Research article University of Social Sciences & Humanities, VNU-HCM, Vietnam Correspondence Pham Thi Hong An, University of Social Sciences & Humanities, VNU-HCM, Vietnam Email: honganp@hcmussh.edu.vn History Received: 10/12/2020 Accepted: 05/5/2021 Published: 12/5/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.608 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Intertextuality in Emily Dickinson’s poetry Pham Thi Hong An* Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT A text is absolutely not a writer's genuine creation, but principally it receives the material and is altered from another text. The concept of intertextuality is constructed by Julia Kristeva (1941- ), stressing the interconnection between a text and other prior ones. Intertextuality can be in the form of topics, motifs, images, symbols, and so on, constantly employed by thewriter either uncon- sciously, as believed by Freud, or consciously. In so doing, intertextuality, however, does not mean to diminish creativity in writing; on the contrary, it diversifies the process. Emily Dickinson (1830 – 1886), a talented but reclusive American poet, has utilized quite a number of images, symbols, and tales in the Bible, the text of considerable influence in her culture and society, in her poems. Her intertextuality with the Bible sophisticatedly proves her thoughts of the religion and its practice. Her religious experiences, which are interwoven in her poetry, reveal the spirit of liberty and sensi- tiveness she possesses. Bearing such philosophy in poetry and life, Dickinson can be regarded as a symbol of American soul with unique and creative individualism. This paper will analyze and clarify the aforementioned proposition, principally using the method of intertextual criticism. Key words: intertextuality, Kristeva, Dickinson, Bible Cite this article : An P T H. Intertextuality in Emily Dickinson’s poetry. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):991-998. 998
File đính kèm:
- tinh_lien_van_ban_trong_tho_emily_dickinson.pdf