Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019
Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh là một trong những vấn đề y tế toàn cầu, dẫn đến kéo dài thời gian
nằm viện, tăng chi phí điều trị và tăng tỉ lệ tử vong. Đề kháng kháng sinh là mối đe dọa của tất cả mọi
người, nhưng bệnh nhân ung thư là một trong những đối tượng có nhiều nguy cơ đặc biệt. Ung thư
thường được điều trị đặc hiệu bằng phẫu thuật, hóa trị, xạ trị. Các phương pháp điều trị trên làm cho bệnh
nhân ung thư dễ bị nhiễm trùng hơn các đối tượng khác. Giám sát đề kháng kháng sinh là cần thiết để
cung cấp thông tin khi đưa ra các quyết định lâm sàng, các hướng dẫn, chính sách, đánh giá hiệu quả
can thiệp của các chương trình sử dụng kháng sinh hiệu quả.
Mục tiêu: Đánh giá sự phân bố của các vi khuẩn gây bệnh thường gặp và tính đề kháng kháng sinh
của chúng tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả. Dữ liệu về các vi khuẩn gây bệnh và kháng sinh đồ được thu thập tại
bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ tháng 1 đến hết tháng 12 năm 2019.
Kết quả: Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019, có 790 tác nhân gây bệnh được phân lập từ 1749 mẫu
bệnh phẩm (chiếm tỉ lệ 45,17%). Tất cả các tác nhân gây bệnh đều được thực hiện kháng sinh đồ. Vi
khuẩn gram âm gấp 1,2 lần vi khuẩn gram dương. Năm tác nhân gây bệnh thường gặp Staphylococcus
aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%),
Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Mỗi loại vi khuẩn có tính đề kháng kháng sinh khác nhau.
Kết luận: Còn rất ít kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn. Vì vậy việc kiểm soát sử dụng kháng sinh,
dựa trên kháng sinh đồ là cần thiết.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 140 TÌNH HÌNH VI KHUẨN ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2019 LÊ TRUNG1, HUỲNH HOA HẠNH2, PHẠM ĐÌNH CƯỜNG2, NGUYỄN THỊ VĨNH LINH2, NGUYỄN THỊ KHÁNH NGỌC3, LÊ XUÂN BÍNH4, ĐỖ THỊ NGỌC DIỄM4 Địa chỉ liên hệ: Lê Trung Email: ksnk.bvub.hcm@gmail.com Ngày nhận bài: 12/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 ThS.BSCKI. Trưởng Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 BS. Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 Điều dưỡng Trưởng Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 Điều dưỡng Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Tình trạng kháng thuốc kháng sinh hiện nay đang ở mức đáng báo động. Số liệu nghiên cứu giám sát ANSORP từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2001 tại 14 trung tâm thuộc 11 quốc gia Đông Nam Á, cho thấy tỷ lệ kháng cao của vi khuẩn Streptococcus pneumoniae. Trong số 685 chủng vi khuẩn S. pneumoniae phân lập từ người bệnh, có 483 (52,4%) chủng không còn nhạy cảm với Penicillin, 23% ở mức trung gian và 29,4% đã kháng với Penicillin (MIC ≥2mg/l). Kết quả phân lập vi khuẩn cho thấy tỷ lệ S. pneumoniae kháng Penicillin cao nhất ở Việt Nam (71,4%) tiếp theo là Hàn Quốc (54,8%), Hồng Kông (43,2%) và Đài Loan (38,6%). Tỷ lệ kháng Erythromycin cũng rất cao, ở Việt Nam là 92,1%, Đài Loan là 86%, Hàn Quốc là 80,6%, Hồng Kông là 76,8% và Trung Quốc là 73,9%. Số liệu từ nghiên cứu giám sát đa trung tâm đã chứng minh rõ ràng về tốc độ và tỷ lệ kháng của S. pneumoniae tại nhiều nước châu Á, nơi được công bố có tỉ lệ nhiễm cao nhất trên thế giới tính đến thời điểm này(7). TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh là một trong những vấn đề y tế toàn cầu, dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị và tăng tỉ lệ tử vong. Đề kháng kháng sinh là mối đe dọa của tất cả mọi người, nhưng bệnh nhân ung thư là một trong những đối tượng có nhiều nguy cơ đặc biệt. Ung thư thường được điều trị đặc hiệu bằng phẫu thuật, hóa trị, xạ trị. Các phương pháp điều trị trên làm cho bệnh nhân ung thư dễ bị nhiễm trùng hơn các đối tượng khác. Giám sát đề kháng kháng sinh là cần thiết để cung cấp thông tin khi đưa ra các quyết định lâm sàng, các hướng dẫn, chính sách, đánh giá hiệu quả can thiệp của các chương trình sử dụng kháng sinh hiệu quả. Mục tiêu: Đánh giá sự phân bố của các vi khuẩn gây bệnh thường gặp và tính đề kháng kháng sinh của chúng tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Phương pháp: Hồi cứu mô tả. Dữ liệu về các vi khuẩn gây bệnh và kháng sinh đồ được thu thập tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ tháng 1 đến hết tháng 12 năm 2019. Kết quả: Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019, có 790 tác nhân gây bệnh được phân lập từ 1749 mẫu bệnh phẩm (chiếm tỉ lệ 45,17%). Tất cả các tác nhân gây bệnh đều được thực hiện kháng sinh đồ. Vi khuẩn gram âm gấp 1,2 lần vi khuẩn gram dương. Năm tác nhân gây bệnh thường gặp Staphylococcus aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%), Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Mỗi loại vi khuẩn có tính đề kháng kháng sinh khác nhau. Kết luận: Còn rất ít kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn. Vì vậy việc kiểm soát sử dụng kháng sinh, dựa trên kháng sinh đồ là cần thiết. Từ khóa: Đề kháng kháng sinh, nhiễm khuẩn, bệnh nhân ung thư. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 141 Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới xếp vào nhóm các nước có tỉ lệ đề kháng kháng sinh cao nhất thế giới. Escherichia coli kháng Aminoglycosides 45%, kháng Aminopenicillin 94%, kháng Cephalosporin thế hệ thứ ba 71%, kháng Fluoroquinolones 66%. Streptococcus pneumonia kháng Macrolides 91%. Staphylococcus aureus kháng Oxacillin (MRSA) là 73%. Pseudomonas aeruginosa kháng Aminoglycosides 37%, kháng Carbapenems 36%(8). Việc lựa chọn đúng loại kháng sinh có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều trị nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, hiện nay sự phân bố các loại vi khuẩn và tính kháng thuốc của chúng thay đổi rất khác nhau phụ thuộc vào chính sách sử dụng kháng sinh của từng bệnh viện, từng khoa lâm sàng và thói quen sử dụng kháng sinh của bác sĩ. Do vậy, các bệnh viện khác nhau hoặc trong cùng bệnh viện, các khoa lâm sàng khác nhau cũng sẽ có mô hình phân bố vi khuẩn khác nhau. Vì vậy, bước đầu để đánh giá được sự phân bố, tính kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh tại BV Ung Bướu, giúp các bác sĩ lâm sàng trong việc chọn lựa kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn, khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn tiến hành nghiên cứu: Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại BV Ung Bướu TP. HCM năm 2019 Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá sự phân bố của các vi khuẩn gây bệnh thường gặp và tính đề kháng kháng sinh của chúng tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Vi khuẩn gây bệnh phân lập được từ các bệnh phẩm mủ/ dịch, đàm, máu, nước tiểu của các bệnh nhân có chỉ định cấy vi sinh, thực hiện kháng sinh đồ tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM trong năm 2019. Tiêu chuẩn chọn mẫu Các vi khuẩn gây bệnh phân lập được theo thời gian và địa điểm nêu trên, có đủ kết quả kháng sinh đồ theo tiêu chuẩn cho từng loại vi khuẩn và có đủ thông điền trong phiếu chỉ định xét nghiệm Tiêu chuẩn loại trừ Vi khuẩn ngoại nhiễm hoặc không thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Phương pháp nghiên cứu Hồi cứu, mô tả cắt ngang. Thu thập dữ liệu Tất cả các trường hợp cấy vi sinh đều được gửi đến đơn vị vi sinh bên ngoài bệnh viện. Khoa Xét Nghiệm của bệnh viện chịu trách nhiệm gửi mẫu bệnh phẩm và nhận kết quả trả về cho các khoa lâm sàng. Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn thu thập dữ liệu từ bản sao kết quả do khoa Xét nghiệm cung cấp. Phân tích số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Epidata, phân tích bằng Stata 13.0. KẾT QUẢ NGHIÊN C ... t quả cấy dương tính trên 50%. Đặc điểm phân bố của các loại vi khuẩn Vi khuẩn gram âm chiếm 54%, gấp 1,2 lần vi khuẩn gram dương (45%), 1% còn lại là nấm Các vi khuẩn thường gặp nhất tại bệnh viện: Staphylococcus aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%), Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Trong bệnh phẩm mủ/ dịch, Staphylococcus aureus và Escherichia coli là 2 vi khuẩn thường gặp nhất (chiếm tỉ lệ hơn 50%). S. aureus kháng methicilin (MRSA) chiếm 64%. E. coli có khả năng sinh mem Betalactamase phổ rộng (ESBL) chiếm 46%. Bệnh phẩm máu thường gặp nhất là E. coli (26,09%) và K. pneumoniae (10,87%). Kết quả cũng ghi nhận được có sự xuất hiện của các vi khuẩn hội sinh và nấm trong bệnh phẩm máu. Trong bệnh phẩm đàm, vi khuẩn gram âm chiếm đa số: Klebsiella sp (38,60%), Pseudomonas aeruginosa (30,41%). Có đến 59% chủng Klebsiella sp phân lập từ đàm sinh men Betalactamase phổ rộng (ESBL). Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 142 Trong nước tiểu, chủ yếu phân lập được các vi khuẩn gram âm sau: Escherichia coli (38,98%), Klebsiella sp (15,25%), Pseudomonas aeruginosa (11,86%). Tỉ lệ vi khuẩn E. coli phân lập từ nước tiểu sinh men ESBL lên đến 82%. Tính đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn thường gặp tại bệnh viện Escherichia coli phân lập từ máu Các kháng sinh thuộc nhóm Quinolon như Ciprofloxacin, Levofloxacin đều bị đề kháng rất cao (>80%), Cefepime là Cephalosporin thế hệ mới cũng bị đề kháng rất cao (75%), tỉ lệ đề kháng gần bằng với Cephalosporin thế hệ thứ 3 (Ceftriaxone và Ceftazidime). Các kháng sinh nhóm Carbapenem (Imipenem, Ertapenem) có tỉ lệ nhạy >80%. Amikacin vẫn còn nhạy 100%. (Hình 1) Hình 1. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của E. coli phân lập từ máu Staphylococcus aureus phân lập từ mủ/ dịch: Bị đề kháng kháng sinh rất cao. Kháng gần như hoàn toàn với các kháng sinh nhóm Penicillin (Amox/Cla, Penicillin, Amoxcillin, Ampicillin), chỉ còn nhạy tốt với kháng sinh phối hợp Ticarcillin/Clavulanate (>90%). Còn nhạy >70% với các kháng sinh nhóm Quinolon (Ciprofloxacin, Ofloxacin, Levofloxacin). Kháng >70% với các kháng sinh nhóm Cephalosporin (Cefalexin, Cefaclor, Cefuroxime acetyl, Cefperazon). Chưa ghi nhận các trường hợp kháng với Vancomyci (Hình 2). Hình 2. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của S. aureus phân lập từ mủ/ dịch Escherichia coli phân lập từ mủ/ dịch: Có tỉ lệ nhạy còn cao (>80%) với các kháng sinh thế hệ mới, phối hợp như: Ticarcillin/Clavulanate, Ertapenem, nhóm Aminoglycosid (Amikacin, Netilmicin, Tobramycin), có Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 143 tỉ lệ nhạy thấp với các kháng sinh nhóm Quinolon và nhóm Cephalosporin. Chưa ghi nhận các trường hợp kháng Colistin. (Hình 3) Hình 3. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của E. coli phân lập từ mủ/ dịch Klebsiella sp phân lập từ đàm: Tỉ lệ đề kháng kháng sinh rất cao. Kháng hầu hết các loại kháng sinh thuốc nhóm Cephalosporin và Quinolon. Ertapenem và Fosfomycin là 2 kháng sinh mạnh nhưng tỉ lệ nhạy cũng đạt dưới 70%. Chỉ có 4 loại kháng sinh có tỉ lệ nhạy trên 80%: Colistin, Amikacin, Netilmicin và Tobramycin. (Hình 4) Hình 4. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của Klebsilla sp phân lập từ đàm Pseudomonas aeruginosa phân lập từ đàm: Có tỉ lệ nhạy cao (>80%) với các kháng sinh nhóm Quinolon (Levofloxacin, Ofloxacin, Ciprofloxacin), nhạy >90% với Amikacin, Imipenem, Neltimicin. Nhạy hoàn toàn với Colistin. (Hình 5) Hình 5. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của P. aeruginosa phân lập từ đàm Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 144 Escherichia coli phân lập từ nước tiểu: Đề kháng cáo với nhóm Quinolon và Cephalosporin. Nhạy cao với nhóm Aminoglycosid (Amikacin, Netilmicin, Tobramycin). Chưa ghi nhận trường hợp nào kháng với Colistin. (Hình 6) Hình 6. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của E. coli phân lập từ nước tiểu BÀN LUẬN Sự phân bố của vi khuẩn gây bệnh Sự phân bố vi khuẩn gram âm, gram dương ở bệnh viện chúng tôi có tỉ lệ tương đương gần bằng nhau. Kết quả này khác so với kết quả năm 2014 của tác giả Chu Thị Hải Yến thực hiện tại bệnh viện Trưng Vương, vi khuẩn gram âm chiếm đa số, gấp 3,3 lần so với vi khuẩn gram dương(4). Có thể do đặc thù bệnh lý ung thư, các khối u xâm lấn ra da, dễ bị nhiễm khuẩn nên trong khảo sát của chúng tôi, số lượng bệnh phẩm mủ/ dịch cấy vi sinh chiếm đa số và vi khuẩn gram dương (S. aureus) chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các vi khuẩn thường gặp tại bệnh viện. Tỉ lệ vi khuẩn S. aureus kháng Methicillin (MRSA) chung trong bệnh viện hiện nay là gần 64%. Tỉ lệ này tương đương với kết quả nghiên cứu KONSAR năm 2005 - 2007 tại các bệnh viện Hàn Quốc là 64%(6). Kết quả nghiên cứu ANSORP tại nhiều bệnh viện châu Á năm 2011, ghi nhận tỉ lệ CA- MRSA (community-associated MRSA) là 25,5% và HA-MRSA (healthcare-associated MRSA) là 67,4%.(9) Tỉ lệ MRSA của chúng tôi là gần 64% nhưng chúng tôi không phân biệt MRSA xuất phát từ cộng đồng hay nhiễm khuẩn bệnh viện. Nhìn chung tình hình MRSA tại bệnh viện hiện tại nằm trong mức bình thường so với một số bệnh viện tại Châu Á. Tỉ lệ vi khuẩn đường ruột sinh men ESBL là 47,6%. Trong đó Escherichia coli có tỉ lệ sinh ESBL cao nhất là 49% và Klebsiella sp là 46,2%. Kết quả này cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu tại 8 bệnh viện ở Hàn Quốc, tỉ lệ sinh ESBL của Klebsiella pneumoniae là 22,4% và Escherichia coli chỉ 10,2%(5). Khảo sát tại Bệnh viện 175 TP. HCM năm 2013 cho thấy tỉ lệ vi khuẩn đường ruột sinh men ESBL là 53,5%, cao hơn ở bệnh viện của chúng tôi. Trong đó tỉ lệ Escherichia coli sinh ESBL thì tương đương (48,9%), và Klebsiella sp thì cao hơn (59,2%)(5). Trong bệnh phẩm đàm và nước tiểu, chủ yếu phân lập được vi khuẩn gram âm (E. coli, Klebsiella sp). Vì vậy đối với các trường hợp nhiễm trùng đường hô hấp dưới hoặc nhiễm trùng tiểu, nếu chọn kháng sinh để điều trị vi khuẩn gram âm thay cho 1 kháng sinh phổ rộng ngay từ đầu có thể là một lựa chọn hợp lý. Riêng trong máu, mủ/ dịch tiết, mặc dù gram âm vẫn chiếm ưu thế hơn nhưng sự xuất hiện của S. aureus lại đứng đầu danh sách các vi khuẩn phân lập được nên việc hướng điều trị ban đầu bằng kháng sinh phổ rộng hiệu quả cho cả gram âm và gram dương lại là một lựa chọn phù hợp hơn. Sự đề kháng kháng sinh của các loại vi khuẩn thường gặp Vi khuẩn gram dương (Staphylococuss aureus) Staphylococcus aureus là vi khuẩn thường gặp nhất tại bệnh viện, phân lập được chủ yếu từ bệnh bệnh phẩm mủ/ dịch: bị đề kháng kháng sinh rất cao. Kháng gần như hoàn toàn với các kháng sinh nhóm Penicillin, chỉ còn nhạy tốt với kháng sinh phối hợp Ticarcillin/Clavulanate (>90%). Còn nhạy >70% với các kháng sinh nhóm Quinolon (Ciprofloxacin, Ofloxacin, Levofloxacin). Kháng >70% với các kháng sinh nhóm Cephalosporin (Cefalexin, Cefaclor, Cefuroxime acetyl, Cefperazon). So với số liệu của chương trình Giám sát tính kháng thuốc (ASTS)(1), tỉ lệ kháng thuốc của S. aureus ở BV chúng tôi cao Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 145 hơn. Tuy nhiên chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào kháng với Vancomycin (ASTS là 2,6%), chỉ nên dùng Vancomycin khi S. aureus đã kháng các loại kháng sinh khác. Vi khuẩn gram âm Escherichia coli phân lập được chủ yếu từ máu, mủ/ dịch tiết và nước tiểu. Có tỉ lệ nhạy còn cao (>80%) với các kháng sinh thế hệ mới, phối hợp như: Ticarcillin/Clavulanate, Ertapenem, nhóm Aminoglycosid (Amikacin, Netilmicin, Tobramycin), có tỉ lệ nhạy thấp với các kháng sinh nhóm Quinolon và nhóm Cephalosporin. Chưa ghi nhận các trường hợp kháng Colistin. Kết quả của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của nhóm tác giả Cao Minh Nga được thực hiện tại BV Đại học Y Dược TP. HCM năm 2012(2). Klebsiella sp phân lập chủ yếu từ đàm. Tỉ lệ đề kháng kháng sinh rất cao. Kháng hầu hết các loại kháng sinh thuốc nhóm Cephalosporin và Quinolon. Ertapenem và Fosfomycin là 2 kháng sinh mạnh nhưng tỉ lệ nhạy cũng đạt dưới 70%. Chỉ có 4 loại kháng sinh có tỉ lệ nhạy trên 80%: Colistin, Amikacin, Netilmicin và Tobramycin. Kết quả của chúng tôi trái ngược với kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Cao Minh Nga được thực hiện tại BV Đại học Y Dược TP. HCM năm 2012,(2) còn khá nhạy cảm với nhiều loại kháng sinh. Có thể do trong nghiên cứu của chúng tôi, có đến 59% vi khuẩn Klebsiella phân lập từ đàm sinh men ESBL nên tỉ lệ đề kháng kháng sinh ở nhóm vi khuẩn này cũng cao hơn. KẾT LUẬN Tỉ lệ cấy dương tính: 45,17%. Vi khuẩn thường gặp: S. aureus, E. coli, Klebsiella sp. S. aureus thường gặp trong mủ/ dịch tiết, còn nhạy với Ticarcillin/Clavulantate, Vancomycin và các kháng sinh nhóm Quinolon. E. coli thường gặp trong máu, mủ/ dịch tiết, còn nhạy tốt với Colistin, Amikacin, Imipenem, Ertapenem. Klebsiella sp thường gặp trong đàm. Có tỉ lệ đề kháng kháng sinh cao. Còn nhạy tốt với Colistin, Amikacin, Netilmicin và Tobramycin. Vi khuẩn đa kháng thuốc: MRSA (64%), vi khuẩn đường ruột sinh men ESBL (47,6%). ĐỀ XUẤT - KIẾN NGHỊ Tăng cường cấy vi sinh, thực hiện kháng sinh đồ trước khi sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân có nhiễm khuẩn. Khi chưa có kết quả cấy vi sinh, sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm (vị trí nhiễm khuẩn, tác nhân thường gặp, dữ liệu độ nhạy kháng sinh tại bệnh viện) Xây dựng danh mục kháng sinh dấu* (Colistin, Vancomycin, Linezolid IV, Fosfomycin IV, Teicoplanin, Carbapenem,) Tuân thủ đúng các kỹ thuật lấy mẫu vi sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Thị Vĩnh (2006). “Báo cáo hoạt động theo dõi sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh thường gặp ở Việt Nam năm 2004 và 2005”. Bộ Y Tế. Vụ điều trị. Hội nghị tổng kết công tác hội đồng thuốc và điều trị; hoạt động theo dõi sự kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh thường gặp năm 2005. Đà Nẵng, 02-2006, Tr: 123 - 131. 2. Cao Minh Nga (2013), “Sự đề kháng kháng sinh của các tác nhân vi khuẩn gây bệnh thường gặp tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM”, Tạp chí Y học Tp. HCM, Tập 16, Phụ bản số 1, năm 2012, trang 215 - 220. 3. Cao Minh Nga (2013), “Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Klepsiella spp. và E. coli sinh men ESBL phân lập tại bệnh viện 175”, Tạp chí Y học Tp. HCM, Tập 17, Phụ bản số 1, năm 2013, trang 279 - 285. 4. Chu Thị Hải Yến (2014), “Khảo sát tỉ lệ đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn phân lập được tại bệnh viện Trưng Vương” Tạp chí Y học Tp.HCM, Tập 18, Phụ bản số 5, năm 2014, trang 75 - 82. 5. Ko KS (2008), “Prevalence and characterization of extended-spectrum β-lactamase-producing Enterobacteriaceae isolated in Korean hospital”. Diognostic microbiology and infectious disease. Volume 61. Issue 4. pp. 453 - 459 6. Lee K, Lee MA, Lee CH et al (2010), “Increase of ceftazidime and flouroquinolone resistant Klebsiella pneumoniae and imipenem resistant Acinetobacter spp in Korea: analysis of KONSAR study data from 2005 and 2007”, Yonsei Med J.2010, Nov; 51(6), pp.901 - 911 7. Jae-Hoon Song, Sook-In Jung, Kwan Soo Ko et al (2004) “High Prevalence of Antimicrobial Resistance among Clinical Streptococcus pneumoniae Isolates in Asia (an ANSORP Study)”, American Society for Microbiology, 48(6), p.2101 - 7 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 146 8. The Center for Disease Dynamics, Economics & Policy (2016) Resistance Map, https://resistancemap.cddep.org/AntibioticResist ance.php 9. Song JH (2011), “Spread of methicillin resistant Staphylococcus aureus between the community and the hospital in Asian countries: an ANSORP study”. Journal of antimicrobial chemotherapy. Volume 66. Isssue 5, pp. 1061 - 1069 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 147 ABSTRACT Antibiotic resistance of common pathogenous bacteria at Ho Chi Minh City Oncology Hospital 2019 Background: Antibiotic resistance is one of the biggest threats of global health, leads to longer hospital stays, higher medical costs and increased mortality. Antibiotic resistance poses a threat to everyone, but cancer patients are at particular risk. Cancer is typically treated with surgery, radiation, chemotherapy. Each of these treament techniques leaves a patient more vulnerable to infection than others. Antimicrobial resistance surveillance is needed to inform clinical therapy decisions, to guide policy recommendations, and to assess the impact of resistance containment interventions. Objectives: to assess distribution of common pathogenous bacteria and its antibiotic resistance in the oncology hospital Methods: Retrospective, descriptive methods were used. Data of pathogenic bacteria and antibiogram results were collected at Ho Chi Minh City Oncology Hospital from January to December 2019 Results: From January to December 2019, 790 pathogenic bacteria were isolated from 1749 clinical samples (rate 45,17%). All of them tested antibioctic sensitivity. Gram-negative bacteria is 1,2 times more than gram-positive bacteria. Five common bacteria were Staphylococcus aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%), Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Each bacteria have different level of antibiotoc resistance. Conclusion: There are rare antibiotics that have effect in treatment. So that controled reasonable use of antibiotics, based on antibiogram, is necessary. Keywords: antibiotic resistance, infection, cancer patient.
File đính kèm:
- tinh_hinh_vi_khuan_de_khang_khang_sinh_tai_benh_vien_ung_buo.pdf