Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019

Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh là một trong những vấn đề y tế toàn cầu, dẫn đến kéo dài thời gian

nằm viện, tăng chi phí điều trị và tăng tỉ lệ tử vong. Đề kháng kháng sinh là mối đe dọa của tất cả mọi

người, nhưng bệnh nhân ung thư là một trong những đối tượng có nhiều nguy cơ đặc biệt. Ung thư

thường được điều trị đặc hiệu bằng phẫu thuật, hóa trị, xạ trị. Các phương pháp điều trị trên làm cho bệnh

nhân ung thư dễ bị nhiễm trùng hơn các đối tượng khác. Giám sát đề kháng kháng sinh là cần thiết để

cung cấp thông tin khi đưa ra các quyết định lâm sàng, các hướng dẫn, chính sách, đánh giá hiệu quả

can thiệp của các chương trình sử dụng kháng sinh hiệu quả.

Mục tiêu: Đánh giá sự phân bố của các vi khuẩn gây bệnh thường gặp và tính đề kháng kháng sinh

của chúng tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM.

Phương pháp: Hồi cứu mô tả. Dữ liệu về các vi khuẩn gây bệnh và kháng sinh đồ được thu thập tại

bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ tháng 1 đến hết tháng 12 năm 2019.

Kết quả: Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019, có 790 tác nhân gây bệnh được phân lập từ 1749 mẫu

bệnh phẩm (chiếm tỉ lệ 45,17%). Tất cả các tác nhân gây bệnh đều được thực hiện kháng sinh đồ. Vi

khuẩn gram âm gấp 1,2 lần vi khuẩn gram dương. Năm tác nhân gây bệnh thường gặp Staphylococcus

aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%),

Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Mỗi loại vi khuẩn có tính đề kháng kháng sinh khác nhau.

Kết luận: Còn rất ít kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn. Vì vậy việc kiểm soát sử dụng kháng sinh,

dựa trên kháng sinh đồ là cần thiết.

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 1

Trang 1

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 2

Trang 2

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 3

Trang 3

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 4

Trang 4

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 5

Trang 5

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 6

Trang 6

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 7

Trang 7

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019 trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 8660
Bạn đang xem tài liệu "Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019

Tình hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2019
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 140 
TÌNH HÌNH VI KHUẨN ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH TẠI BỆNH VIỆN 
UNG BƯỚU TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2019 
LÊ TRUNG1, HUỲNH HOA HẠNH2, PHẠM ĐÌNH CƯỜNG2, NGUYỄN THỊ VĨNH LINH2, 
NGUYỄN THỊ KHÁNH NGỌC3, LÊ XUÂN BÍNH4, ĐỖ THỊ NGỌC DIỄM4 
Địa chỉ liên hệ: Lê Trung 
Email: ksnk.bvub.hcm@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12/10/2020 
Ngày phản biện: 03/11/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 
1 ThS.BSCKI. Trưởng Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2 BS. Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
3 Điều dưỡng Trưởng Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
4 Điều dưỡng Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tình trạng kháng thuốc kháng sinh hiện nay 
đang ở mức đáng báo động. Số liệu nghiên cứu 
giám sát ANSORP từ tháng 1/2000 đến tháng 
6/2001 tại 14 trung tâm thuộc 11 quốc gia Đông Nam 
Á, cho thấy tỷ lệ kháng cao của vi khuẩn 
Streptococcus pneumoniae. Trong số 685 chủng vi 
khuẩn S. pneumoniae phân lập từ người bệnh, có 
483 (52,4%) chủng không còn nhạy cảm với 
Penicillin, 23% ở mức trung gian và 29,4% đã kháng 
với Penicillin (MIC ≥2mg/l). Kết quả phân lập vi 
khuẩn cho thấy tỷ lệ S. pneumoniae kháng Penicillin 
cao nhất ở Việt Nam (71,4%) tiếp theo là Hàn Quốc 
(54,8%), Hồng Kông (43,2%) và Đài Loan (38,6%). 
Tỷ lệ kháng Erythromycin cũng rất cao, ở Việt Nam 
là 92,1%, Đài Loan là 86%, Hàn Quốc là 80,6%, 
Hồng Kông là 76,8% và Trung Quốc là 73,9%. Số 
liệu từ nghiên cứu giám sát đa trung tâm đã chứng 
minh rõ ràng về tốc độ và tỷ lệ kháng của S. 
pneumoniae tại nhiều nước châu Á, nơi được công 
bố có tỉ lệ nhiễm cao nhất trên thế giới tính đến thời 
điểm này(7). 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh là một trong những vấn đề y tế toàn cầu, dẫn đến kéo dài thời gian 
nằm viện, tăng chi phí điều trị và tăng tỉ lệ tử vong. Đề kháng kháng sinh là mối đe dọa của tất cả mọi 
người, nhưng bệnh nhân ung thư là một trong những đối tượng có nhiều nguy cơ đặc biệt. Ung thư 
thường được điều trị đặc hiệu bằng phẫu thuật, hóa trị, xạ trị. Các phương pháp điều trị trên làm cho bệnh 
nhân ung thư dễ bị nhiễm trùng hơn các đối tượng khác. Giám sát đề kháng kháng sinh là cần thiết để 
cung cấp thông tin khi đưa ra các quyết định lâm sàng, các hướng dẫn, chính sách, đánh giá hiệu quả 
can thiệp của các chương trình sử dụng kháng sinh hiệu quả. 
Mục tiêu: Đánh giá sự phân bố của các vi khuẩn gây bệnh thường gặp và tính đề kháng kháng sinh 
của chúng tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. 
Phương pháp: Hồi cứu mô tả. Dữ liệu về các vi khuẩn gây bệnh và kháng sinh đồ được thu thập tại 
bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ tháng 1 đến hết tháng 12 năm 2019. 
Kết quả: Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019, có 790 tác nhân gây bệnh được phân lập từ 1749 mẫu 
bệnh phẩm (chiếm tỉ lệ 45,17%). Tất cả các tác nhân gây bệnh đều được thực hiện kháng sinh đồ. Vi 
khuẩn gram âm gấp 1,2 lần vi khuẩn gram dương. Năm tác nhân gây bệnh thường gặp Staphylococcus 
aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%), 
Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Mỗi loại vi khuẩn có tính đề kháng kháng sinh khác nhau. 
Kết luận: Còn rất ít kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn. Vì vậy việc kiểm soát sử dụng kháng sinh, 
dựa trên kháng sinh đồ là cần thiết. 
Từ khóa: Đề kháng kháng sinh, nhiễm khuẩn, bệnh nhân ung thư. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
141 
Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới xếp vào 
nhóm các nước có tỉ lệ đề kháng kháng sinh cao 
nhất thế giới. Escherichia coli kháng 
Aminoglycosides 45%, kháng Aminopenicillin 94%, 
kháng Cephalosporin thế hệ thứ ba 71%, kháng 
Fluoroquinolones 66%. Streptococcus pneumonia 
kháng Macrolides 91%. Staphylococcus aureus 
kháng Oxacillin (MRSA) là 73%. Pseudomonas 
aeruginosa kháng Aminoglycosides 37%, kháng 
Carbapenems 36%(8). 
Việc lựa chọn đúng loại kháng sinh có ảnh 
hưởng rất lớn đến kết quả điều trị nhiễm khuẩn. Tuy 
nhiên, hiện nay sự phân bố các loại vi khuẩn và tính 
kháng thuốc của chúng thay đổi rất khác nhau phụ 
thuộc vào chính sách sử dụng kháng sinh của từng 
bệnh viện, từng khoa lâm sàng và thói quen sử dụng 
kháng sinh của bác sĩ. Do vậy, các bệnh viện khác 
nhau hoặc trong cùng bệnh viện, các khoa lâm sàng 
khác nhau cũng sẽ có mô hình phân bố vi khuẩn 
khác nhau. Vì vậy, bước đầu để đánh giá được sự 
phân bố, tính kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh tại 
BV Ung Bướu, giúp các bác sĩ lâm sàng trong việc 
chọn lựa kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn, khoa 
Kiểm soát nhiễm khuẩn tiến hành nghiên cứu: Tình 
hình vi khuẩn đề kháng kháng sinh tại BV Ung Bướu 
TP. HCM năm 2019 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá sự phân bố của các vi khuẩn gây 
bệnh thường gặp và tính đề kháng kháng sinh của 
chúng tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Vi khuẩn gây bệnh phân lập được từ các bệnh 
phẩm mủ/ dịch, đàm, máu, nước tiểu của các bệnh 
nhân có chỉ định cấy vi sinh, thực hiện kháng sinh đồ 
tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM trong năm 2019. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Các vi khuẩn gây bệnh phân lập được theo thời 
gian và địa điểm nêu trên, có đủ kết quả kháng sinh 
đồ theo tiêu chuẩn cho từng loại vi khuẩn và có đủ 
thông điền trong phiếu chỉ định xét nghiệm 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Vi khuẩn ngoại nhiễm hoặc không thỏa tiêu 
chuẩn chọn mẫu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Hồi cứu, mô tả cắt ngang. 
Thu thập dữ liệu 
Tất cả các trường hợp cấy vi sinh đều được gửi 
đến đơn vị vi sinh bên ngoài bệnh viện. Khoa Xét 
Nghiệm của bệnh viện chịu trách nhiệm gửi mẫu 
bệnh phẩm và nhận kết quả trả về cho các khoa lâm 
sàng. Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn thu thập dữ liệu 
từ bản sao kết quả do khoa Xét nghiệm cung cấp. 
Phân tích số liệu 
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata, phân tích 
bằng Stata 13.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN C ... t quả cấy dương tính trên 
50%. 
Đặc điểm phân bố của các loại vi khuẩn 
Vi khuẩn gram âm chiếm 54%, gấp 1,2 lần vi 
khuẩn gram dương (45%), 1% còn lại là nấm 
Các vi khuẩn thường gặp nhất tại bệnh viện: 
Staphylococcus aureus (26,6%), Escherichia coli 
(19,4%), Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas 
aeruginosa (13,3%), Staphylococcus coagulase âm 
(8,7%). 
Trong bệnh phẩm mủ/ dịch, Staphylococcus 
aureus và Escherichia coli là 2 vi khuẩn thường gặp 
nhất (chiếm tỉ lệ hơn 50%). S. aureus kháng 
methicilin (MRSA) chiếm 64%. E. coli có khả năng 
sinh mem Betalactamase phổ rộng (ESBL) chiếm 
46%. 
Bệnh phẩm máu thường gặp nhất là E. coli 
(26,09%) và K. pneumoniae (10,87%). Kết quả cũng 
ghi nhận được có sự xuất hiện của các vi khuẩn hội 
sinh và nấm trong bệnh phẩm máu. 
Trong bệnh phẩm đàm, vi khuẩn gram âm 
chiếm đa số: Klebsiella sp (38,60%), Pseudomonas 
aeruginosa (30,41%). Có đến 59% chủng Klebsiella 
sp phân lập từ đàm sinh men Betalactamase phổ 
rộng (ESBL). 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 142 
Trong nước tiểu, chủ yếu phân lập được các vi 
khuẩn gram âm sau: Escherichia coli (38,98%), 
Klebsiella sp (15,25%), Pseudomonas aeruginosa 
(11,86%). Tỉ lệ vi khuẩn E. coli phân lập từ nước tiểu 
sinh men ESBL lên đến 82%. 
Tính đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn 
thường gặp tại bệnh viện 
Escherichia coli phân lập từ máu 
Các kháng sinh thuộc nhóm Quinolon như 
Ciprofloxacin, Levofloxacin đều bị đề kháng rất cao 
(>80%), Cefepime là Cephalosporin thế hệ mới cũng 
bị đề kháng rất cao (75%), tỉ lệ đề kháng gần bằng 
với Cephalosporin thế hệ thứ 3 (Ceftriaxone và 
Ceftazidime). Các kháng sinh nhóm Carbapenem 
(Imipenem, Ertapenem) có tỉ lệ nhạy >80%. 
Amikacin vẫn còn nhạy 100%. (Hình 1) 
Hình 1. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của E. coli phân lập từ máu 
Staphylococcus aureus phân lập từ mủ/ dịch: 
Bị đề kháng kháng sinh rất cao. Kháng gần như hoàn toàn với các kháng sinh nhóm Penicillin (Amox/Cla, 
Penicillin, Amoxcillin, Ampicillin), chỉ còn nhạy tốt với kháng sinh phối hợp Ticarcillin/Clavulanate (>90%). Còn 
nhạy >70% với các kháng sinh nhóm Quinolon (Ciprofloxacin, Ofloxacin, Levofloxacin). Kháng >70% với các 
kháng sinh nhóm Cephalosporin (Cefalexin, Cefaclor, Cefuroxime acetyl, Cefperazon). Chưa ghi nhận các 
trường hợp kháng với Vancomyci (Hình 2). 
Hình 2. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của S. aureus phân lập từ mủ/ dịch 
Escherichia coli phân lập từ mủ/ dịch: Có tỉ lệ nhạy còn cao (>80%) với các kháng sinh thế hệ mới, 
phối hợp như: Ticarcillin/Clavulanate, Ertapenem, nhóm Aminoglycosid (Amikacin, Netilmicin, Tobramycin), có 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
143 
tỉ lệ nhạy thấp với các kháng sinh nhóm Quinolon và nhóm Cephalosporin. Chưa ghi nhận các trường hợp 
kháng Colistin. (Hình 3) 
Hình 3. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của E. coli phân lập từ mủ/ dịch 
Klebsiella sp phân lập từ đàm: Tỉ lệ đề kháng kháng sinh rất cao. Kháng hầu hết các loại kháng sinh 
thuốc nhóm Cephalosporin và Quinolon. Ertapenem và Fosfomycin là 2 kháng sinh mạnh nhưng tỉ lệ nhạy 
cũng đạt dưới 70%. Chỉ có 4 loại kháng sinh có tỉ lệ nhạy trên 80%: Colistin, Amikacin, Netilmicin và 
Tobramycin. (Hình 4) 
Hình 4. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của Klebsilla sp phân lập từ đàm 
Pseudomonas aeruginosa phân lập từ đàm: Có tỉ lệ nhạy cao (>80%) với các kháng sinh nhóm 
Quinolon (Levofloxacin, Ofloxacin, Ciprofloxacin), nhạy >90% với Amikacin, Imipenem, Neltimicin. Nhạy hoàn 
toàn với Colistin. (Hình 5) 
Hình 5. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của P. aeruginosa phân lập từ đàm 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 144 
Escherichia coli phân lập từ nước tiểu: Đề kháng cáo với nhóm Quinolon và Cephalosporin. Nhạy cao 
với nhóm Aminoglycosid (Amikacin, Netilmicin, Tobramycin). Chưa ghi nhận trường hợp nào kháng với 
Colistin. (Hình 6) 
Hình 6. Tỉ lệ nhạy cảm với các loại kháng sinh của E. coli phân lập từ nước tiểu 
BÀN LUẬN 
Sự phân bố của vi khuẩn gây bệnh 
Sự phân bố vi khuẩn gram âm, gram dương ở 
bệnh viện chúng tôi có tỉ lệ tương đương gần bằng 
nhau. Kết quả này khác so với kết quả năm 2014 
của tác giả Chu Thị Hải Yến thực hiện tại bệnh viện 
Trưng Vương, vi khuẩn gram âm chiếm đa số, gấp 
3,3 lần so với vi khuẩn gram dương(4). Có thể do đặc 
thù bệnh lý ung thư, các khối u xâm lấn ra da, dễ bị 
nhiễm khuẩn nên trong khảo sát của chúng tôi, số 
lượng bệnh phẩm mủ/ dịch cấy vi sinh chiếm đa số 
và vi khuẩn gram dương (S. aureus) chiếm tỉ lệ cao 
nhất trong số các vi khuẩn thường gặp tại bệnh viện. 
Tỉ lệ vi khuẩn S. aureus kháng Methicillin 
(MRSA) chung trong bệnh viện hiện nay là gần 64%. 
Tỉ lệ này tương đương với kết quả nghiên cứu 
KONSAR năm 2005 - 2007 tại các bệnh viện Hàn 
Quốc là 64%(6). Kết quả nghiên cứu ANSORP tại 
nhiều bệnh viện châu Á năm 2011, ghi nhận tỉ lệ CA-
MRSA (community-associated MRSA) là 25,5% và 
HA-MRSA (healthcare-associated MRSA) là 
67,4%.(9) Tỉ lệ MRSA của chúng tôi là gần 64% 
nhưng chúng tôi không phân biệt MRSA xuất phát từ 
cộng đồng hay nhiễm khuẩn bệnh viện. Nhìn chung 
tình hình MRSA tại bệnh viện hiện tại nằm trong 
mức bình thường so với một số bệnh viện tại Châu 
Á. 
Tỉ lệ vi khuẩn đường ruột sinh men ESBL là 
47,6%. Trong đó Escherichia coli có tỉ lệ sinh ESBL 
cao nhất là 49% và Klebsiella sp là 46,2%. Kết quả 
này cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu tại 8 
bệnh viện ở Hàn Quốc, tỉ lệ sinh ESBL của 
Klebsiella pneumoniae là 22,4% và Escherichia coli 
chỉ 10,2%(5). Khảo sát tại Bệnh viện 175 TP. HCM 
năm 2013 cho thấy tỉ lệ vi khuẩn đường ruột sinh 
men ESBL là 53,5%, cao hơn ở bệnh viện của 
chúng tôi. Trong đó tỉ lệ Escherichia coli sinh ESBL 
thì tương đương (48,9%), và Klebsiella sp thì cao 
hơn (59,2%)(5). 
Trong bệnh phẩm đàm và nước tiểu, chủ yếu 
phân lập được vi khuẩn gram âm (E. coli, Klebsiella 
sp). Vì vậy đối với các trường hợp nhiễm trùng 
đường hô hấp dưới hoặc nhiễm trùng tiểu, nếu chọn 
kháng sinh để điều trị vi khuẩn gram âm thay cho 1 
kháng sinh phổ rộng ngay từ đầu có thể là một lựa 
chọn hợp lý. Riêng trong máu, mủ/ dịch tiết, mặc dù 
gram âm vẫn chiếm ưu thế hơn nhưng sự xuất hiện 
của S. aureus lại đứng đầu danh sách các vi khuẩn 
phân lập được nên việc hướng điều trị ban đầu bằng 
kháng sinh phổ rộng hiệu quả cho cả gram âm và 
gram dương lại là một lựa chọn phù hợp hơn. 
Sự đề kháng kháng sinh của các loại vi khuẩn 
thường gặp 
Vi khuẩn gram dương (Staphylococuss aureus) 
Staphylococcus aureus là vi khuẩn thường gặp 
nhất tại bệnh viện, phân lập được chủ yếu từ bệnh 
bệnh phẩm mủ/ dịch: bị đề kháng kháng sinh rất cao. 
Kháng gần như hoàn toàn với các kháng sinh nhóm 
Penicillin, chỉ còn nhạy tốt với kháng sinh phối hợp 
Ticarcillin/Clavulanate (>90%). Còn nhạy >70% với 
các kháng sinh nhóm Quinolon (Ciprofloxacin, 
Ofloxacin, Levofloxacin). Kháng >70% với các kháng 
sinh nhóm Cephalosporin (Cefalexin, Cefaclor, 
Cefuroxime acetyl, Cefperazon). So với số liệu của 
chương trình Giám sát tính kháng thuốc (ASTS)(1), tỉ 
lệ kháng thuốc của S. aureus ở BV chúng tôi cao 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
145 
hơn. Tuy nhiên chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp 
nào kháng với Vancomycin (ASTS là 2,6%), chỉ nên 
dùng Vancomycin khi S. aureus đã kháng các loại 
kháng sinh khác. 
Vi khuẩn gram âm 
Escherichia coli phân lập được chủ yếu từ máu, 
mủ/ dịch tiết và nước tiểu. Có tỉ lệ nhạy còn cao 
(>80%) với các kháng sinh thế hệ mới, phối hợp 
như: Ticarcillin/Clavulanate, Ertapenem, nhóm 
Aminoglycosid (Amikacin, Netilmicin, Tobramycin), 
có tỉ lệ nhạy thấp với các kháng sinh nhóm Quinolon 
và nhóm Cephalosporin. Chưa ghi nhận các trường 
hợp kháng Colistin. Kết quả của chúng tôi tương 
đồng với nghiên cứu của nhóm tác giả Cao Minh 
Nga được thực hiện tại BV Đại học Y Dược TP. 
HCM năm 2012(2). 
Klebsiella sp phân lập chủ yếu từ đàm. Tỉ lệ đề 
kháng kháng sinh rất cao. Kháng hầu hết các loại 
kháng sinh thuốc nhóm Cephalosporin và Quinolon. 
Ertapenem và Fosfomycin là 2 kháng sinh mạnh 
nhưng tỉ lệ nhạy cũng đạt dưới 70%. Chỉ có 4 loại 
kháng sinh có tỉ lệ nhạy trên 80%: Colistin, Amikacin, 
Netilmicin và Tobramycin. Kết quả của chúng tôi trái 
ngược với kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Cao 
Minh Nga được thực hiện tại BV Đại học Y Dược 
TP. HCM năm 2012,(2) còn khá nhạy cảm với nhiều 
loại kháng sinh. Có thể do trong nghiên cứu của 
chúng tôi, có đến 59% vi khuẩn Klebsiella phân lập 
từ đàm sinh men ESBL nên tỉ lệ đề kháng kháng 
sinh ở nhóm vi khuẩn này cũng cao hơn. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ cấy dương tính: 45,17%. 
Vi khuẩn thường gặp: S. aureus, E. coli, 
Klebsiella sp. 
S. aureus thường gặp trong mủ/ dịch tiết, còn 
nhạy với Ticarcillin/Clavulantate, Vancomycin và các 
kháng sinh nhóm Quinolon. 
E. coli thường gặp trong máu, mủ/ dịch tiết, còn 
nhạy tốt với Colistin, Amikacin, Imipenem, 
Ertapenem. 
Klebsiella sp thường gặp trong đàm. Có tỉ lệ đề 
kháng kháng sinh cao. Còn nhạy tốt với Colistin, 
Amikacin, Netilmicin và Tobramycin. 
Vi khuẩn đa kháng thuốc: MRSA (64%), vi 
khuẩn đường ruột sinh men ESBL (47,6%). 
ĐỀ XUẤT - KIẾN NGHỊ 
Tăng cường cấy vi sinh, thực hiện kháng sinh 
đồ trước khi sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân có 
nhiễm khuẩn. 
Khi chưa có kết quả cấy vi sinh, sử dụng kháng 
sinh theo kinh nghiệm (vị trí nhiễm khuẩn, tác nhân 
thường gặp, dữ liệu độ nhạy kháng sinh tại bệnh 
viện) 
Xây dựng danh mục kháng sinh dấu* (Colistin, 
Vancomycin, Linezolid IV, Fosfomycin IV, 
Teicoplanin, Carbapenem,) 
Tuân thủ đúng các kỹ thuật lấy mẫu vi sinh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Thị Vĩnh (2006). 
“Báo cáo hoạt động theo dõi sự đề kháng kháng 
sinh của vi khuẩn gây bệnh thường gặp ở Việt 
Nam năm 2004 và 2005”. Bộ Y Tế. Vụ điều trị. 
Hội nghị tổng kết công tác hội đồng thuốc và 
điều trị; hoạt động theo dõi sự kháng thuốc của 
vi khuẩn gây bệnh thường gặp năm 2005. Đà 
Nẵng, 02-2006, Tr: 123 - 131. 
2. Cao Minh Nga (2013), “Sự đề kháng kháng sinh 
của các tác nhân vi khuẩn gây bệnh thường gặp 
tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM”, Tạp 
chí Y học Tp. HCM, Tập 16, Phụ bản số 1, năm 
2012, trang 215 - 220. 
3. Cao Minh Nga (2013), “Sự đề kháng kháng sinh 
của vi khuẩn Klepsiella spp. và E. coli sinh men 
ESBL phân lập tại bệnh viện 175”, Tạp chí Y học 
Tp. HCM, Tập 17, Phụ bản số 1, năm 2013, 
trang 279 - 285. 
4. Chu Thị Hải Yến (2014), “Khảo sát tỉ lệ đề kháng 
kháng sinh của các vi khuẩn phân lập được tại 
bệnh viện Trưng Vương” Tạp chí Y học 
Tp.HCM, Tập 18, Phụ bản số 5, năm 2014, trang 
75 - 82. 
5. Ko KS (2008), “Prevalence and characterization 
of extended-spectrum β-lactamase-producing 
Enterobacteriaceae isolated in Korean hospital”. 
Diognostic microbiology and infectious disease. 
Volume 61. Issue 4. pp. 453 - 459 
6. Lee K, Lee MA, Lee CH et al (2010), “Increase of 
ceftazidime and flouroquinolone resistant 
Klebsiella pneumoniae and imipenem resistant 
Acinetobacter spp in Korea: analysis of 
KONSAR study data from 2005 and 2007”, 
Yonsei Med J.2010, Nov; 51(6), pp.901 - 911 
7. Jae-Hoon Song, Sook-In Jung, Kwan Soo Ko et 
al (2004) “High Prevalence of Antimicrobial 
Resistance among Clinical Streptococcus 
pneumoniae Isolates in Asia (an ANSORP 
Study)”, American Society for Microbiology, 
48(6), p.2101 - 7 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 146 
8. The Center for Disease Dynamics, Economics & 
Policy (2016) Resistance Map, 
https://resistancemap.cddep.org/AntibioticResist
ance.php 
9. Song JH (2011), “Spread of methicillin resistant 
Staphylococcus aureus between the community 
and the hospital in Asian countries: an ANSORP 
study”. Journal of antimicrobial chemotherapy. 
Volume 66. Isssue 5, pp. 1061 - 1069 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 147 
ABSTRACT 
Antibiotic resistance of common pathogenous bacteria at Ho Chi Minh City Oncology Hospital 2019 
Background: Antibiotic resistance is one of the biggest threats of global health, leads to longer hospital 
stays, higher medical costs and increased mortality. Antibiotic resistance poses a threat to everyone, but 
cancer patients are at particular risk. Cancer is typically treated with surgery, radiation, chemotherapy. Each of 
these treament techniques leaves a patient more vulnerable to infection than others. Antimicrobial resistance 
surveillance is needed to inform clinical therapy decisions, to guide policy recommendations, and to assess the 
impact of resistance containment interventions. 
Objectives: to assess distribution of common pathogenous bacteria and its antibiotic resistance in the 
oncology hospital 
Methods: Retrospective, descriptive methods were used. Data of pathogenic bacteria and antibiogram 
results were collected at Ho Chi Minh City Oncology Hospital from January to December 2019 
Results: From January to December 2019, 790 pathogenic bacteria were isolated from 1749 clinical 
samples (rate 45,17%). All of them tested antibioctic sensitivity. Gram-negative bacteria is 1,2 times more than 
gram-positive bacteria. Five common bacteria were Staphylococcus aureus (26,6%), Escherichia coli (19,4%), 
Klebsiella sp (15,1%), Pseudomonas aeruginosa (13,3%), Staphylococcus coagulase âm (8,7%). Each bacteria 
have different level of antibiotoc resistance. 
Conclusion: There are rare antibiotics that have effect in treatment. So that controled reasonable use of 
antibiotics, based on antibiogram, is necessary. 
Keywords: antibiotic resistance, infection, cancer patient. 

File đính kèm:

  • pdftinh_hinh_vi_khuan_de_khang_khang_sinh_tai_benh_vien_ung_buo.pdf