Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Các thành tựu trong chăm sóc sức khỏe nhân dân tại Việt Nam những năm gần đây đã được ghi nhận đáng kể trong nhiều

lĩnh vực như: Cải thiện chất lượng các dịch vụ y tế, cải thiện chỉ

số hài lòng đối với chăm sóc y tế tại các tuyến bệnh viện, tăng tỷ lệ

người dân sở hữu bảo hiểm y tế, tăng tuổi thọ bình quân và tỷ suất tử

vong mẹ, tử vong trẻ dưới 1 tuổi giảm đáng kể. Những nỗ lực của Việt

Nam trong bảo vệ sức khỏe toàn dân của hệ thống y tế còn được thể

hiện qua hiệu quả phòng chống dịch Covid trong giai đoạn vừa qua.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự phát triển của hệ thống y tế chưa

đồng đều, vẫn còn những vùng miền, đặc biệt là khu vực các dân tộc

thiểu số còn gặp khó khăn trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế, có

sự khác biệt giữa các nhóm dân cư, giữa một số nhóm dân tộc.

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 1

Trang 1

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 2

Trang 2

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 3

Trang 3

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 4

Trang 4

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 5

Trang 5

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 6

Trang 6

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 4840
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Tiếp cận dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe đối với đồng bào dân tộc thiểu số
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
133Volume 9, Issue 2
TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TẾ VÀ CHĂM LO SỨC KHỎE ĐỐI VỚI 
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
(Nghiên cứu trường hợp huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang)
Phùng Tuấn Anha
Lê Hồng Việtb
a Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã 
hội Hà Nội
Email: phungtuananh@gmail.com
b Học viện Phụ nữ Việt Nam
Email: vietlh@vwa.edu.vn
Ngày nhận bài: 21/5/2020
Ngày phản biện: 28/5/2020
Ngày tác giả sửa: 04/6/2020
Ngày duyệt đăng: 09/6/2020
Ngày phát hành: 21/6/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/429
Các thành tựu trong chăm sóc sức khỏe nhân dân tại Việt Nam những năm gần đây đã được ghi nhận đáng kể trong nhiều 
lĩnh vực như: Cải thiện chất lượng các dịch vụ y tế, cải thiện chỉ 
số hài lòng đối với chăm sóc y tế tại các tuyến bệnh viện, tăng tỷ lệ 
người dân sở hữu bảo hiểm y tế, tăng tuổi thọ bình quân và tỷ suất tử 
vong mẹ, tử vong trẻ dưới 1 tuổi giảm đáng kể. Những nỗ lực của Việt 
Nam trong bảo vệ sức khỏe toàn dân của hệ thống y tế còn được thể 
hiện qua hiệu quả phòng chống dịch Covid trong giai đoạn vừa qua. 
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự phát triển của hệ thống y tế chưa 
đồng đều, vẫn còn những vùng miền, đặc biệt là khu vực các dân tộc 
thiểu số còn gặp khó khăn trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế, có 
sự khác biệt giữa các nhóm dân cư, giữa một số nhóm dân tộc.
Trường hợp ở huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang là một điển 
hình; một số tập quán, thói quen, văn hóa của người dân tộc thiểu số 
đã tạo thành rào cản khiến họ chưa tiếp cận được đầy đủ các dịch vụ 
y tế cơ bản. Do đó, ngoài những giải pháp từ phía y tế, rất cần những 
giải pháp tiếp cận từ góc độ văn hóa, xã hội nhằm tuyên truyền và tạo 
điều kiện cho người dân tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe một 
cách tự tin và thường xuyên.
Từ khóa: Chăm sóc sức khỏe; Tiếp cận dịch vụ y tế; Dân tộc thiểu 
số; Huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
1. Đặt vấn đề
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, diện 
tích tự nhiên hơn 5.800km2. Tỉnh có 7 đơn vị hành 
chính cấp huyện, trong đó có 2 huyện nghèo (huyện 
Na Hang và huyện Lâm Bình). Dân số toàn tỉnh 
là hơn 780 nghìn người với 22 dân tộc cùng sinh 
sống. Toàn tỉnh hiện còn 54/141 xã thuộc khu vực 
II (chiếm 38,2%); 61 xã thuộc khu vực III (chiếm 
43,2%). Những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội 
(KT-XH) của tỉnh nói chung và vùng dân tộc thiểu 
số (DTTS) nói riêng tiếp tục có bước phát triển. Đời 
sống của đồng bào DTTS ngày càng nâng lên. Tỷ lệ 
hộ nghèo giảm bình quân từ 3-5%/năm. Tỉnh Tuyên 
Quang đã từng bước hoàn thành mục tiêu thoát khỏi 
tình trạng kém phát triển; tốc độ tăng trưởng tổng 
sản phẩm hàng năm đạt từ 7 - 8%, thu nhập bình 
quân đầu người đạt từ 36,2 triệu đồng/người/năm. 
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ 
trọng công nghiệp - xây dựng, giảm dần tỷ trọng 
nông, lâm nghiệp và thủy sản. Đến năm 2018, cơ 
cấu nông lâm nghiệp và thủy sản là 25,12%, công 
nghiệp - xây dựng là 31,36% và dịch vụ là 43,52%. 
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân nhìn chung 
được đảm bảo, không để tình trạng bệnh dịch lớn 
xảy ra trên địa bàn. 
Huyện Na Hang nằm cách thành phố Tuyên 
Quang khoảng 110km, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang 
và tỉnh Cao Bằng, phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn, 
phía Nam giáp huyện Chiêm Hóa, phía Tây giáp 
huyện Lâm Bình. Huyện có 46.000 người với 12 
dân tộc sinh sống, trong đó, đồng bào DTTS chiếm 
89,3%, chủ yếu là người Tày, Dao, Mông... Huyện 
luôn xác định, công tác giải quyết việc làm cho 
đồng bào DTTS là nhiệm vụ quan trọng trong công 
tác xóa đói, giảm nghèo của địa phương. Những 
năm gần đây, huyện đều có kế hoạch tạo việc làm 
cho khoảng 1.500 – 2.000 lao động mỗi năm, trong 
đó có 90% lao động người DTTS. Để giải quyết 
việc làm cho đồng bào DTTS hiệu quả, huyện đã 
tập trung thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, tư 
vấn, hướng nghiệp; thực hiện tốt các chính sách tín 
dụng, hỗ trợ việc làm, phát triển kinh tế cá thể cho 
đồng bào DTTS. 
Bài viết này trình bày kết quả nghiên cứu thực 
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
134 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
trạng tiếp cận dịch vụ y tế tại một số xã thuộc huyện 
Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, nhằm phát hiện những 
khác biệt và những rào cản trong tiếp cận dịch vụ y 
tế của người dân sống tại địa bàn nghiên cứu thuộc 
vùng sâu, vùng xa nói chung, đặc biệt là người DTTS 
nói riêng. Kết quả nghiên cứu đưa ra những hàm ý 
về chính sách an sinh xã hội và dịch vụ xã hội đối 
với người dân sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng 
DTTS, gợi mở những giải pháp nhằm tăng cường cơ 
hội tiếp cận với dịch vụ nâng cao cơ hội chăm sóc 
sức khoẻ và an sinh xã hội cho người dân sinh sống 
tại vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS.
2. Tổng quan nghiên cứu
Một số công trình đã nghiên cứu về tiếp cận dịch 
vụ y tế hay dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người 
DTTS, cụ thể như: Nghiên cứu về “Đánh giá thực 
trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội 
của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương, 
đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc 
thiểu số” của PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc và nhóm 
nghiên cứu (2011, 2012) đã chỉ ra rằng: Chính sách 
về nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản đã có, 
nhưng tổ chức cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản 
còn nhiều bất cập; hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội 
cơ bản ở vùng DTTS còn thiếu về số lượng, yếu 
về chất lượng. Người nghèo tại các vùng DTTS và 
miền núi ít có cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội từ 
các chính sách, chương trình giảm nghèo, tỷ lệ tiếp 
cận với hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản của người 
nghèo tại vùng đồng bào DTTS và miền núi còn 
rất hạn chế. Về dịch vụ y tế cơ bản: chính sách bảo 
hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí bao phủ gần 
100% người nghèo vùng DTTS; đầu tư hệ thống 
dịch vụ y tế và đội ngũ y bác sỹ cho vùng DTTS 
được ưu tiên quan tâm. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng, cán 
bộ y tế vùng sâu, vùng xa còn thiếu và kém; công 
tác chăm sóc sức khỏe ban đầu (tiêm chủng, phòng 
dịch,dinh dưỡng trẻ em, khám thai) đã được quan 
tâm nhưng vẫn còn ... ứu khác nhau (xem hình 2)
Có thể thấy khá rõ, người DTTS tại địa bàn nghiên cứu chưa có các hoạt động đảm bảo duy trì, nâng 
cao sức khỏe so với người Kinh. Mọi chỉ số cho thấy đều thấp hơn. Người DTTS ít khi dự phòng một số 
thuốc Tây thông dụng như người Kinh, mà thói quen sử dụng các thuốc Nam trong vườn cây có sẵn vẫn 
được duy trì. Điều đáng chú ý là người DTTS không quan tâm lắm về chương trình, tin tức liên quan đến 
chăm sóc sức khỏe (tỷ 15,38%), ít vận động thể thao (19,66%) và ít để ý đến việc thực hiện ăn uống theo 
chế độ khoa học (11,97%).
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
136 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Hình 2. Các hoạt động duy trì, nâng cao sức khỏe (%)
Về việc đi khám sức khỏe định kỳ ít nhất 1 lần trong 12 tháng được Bộ Y tế khuyến cáo, nhưng thực tế 
cho thấy với điều kiện sống còn hạn chế ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, việc duy trì khám sức khoẻ định kỳ 
còn gặp nhiều khó khăn và không được nhiều người dân địa phương quan tâm (xem hình 3)
Hình 3. Tần suất đi khám sức khỏe của người dân tại địa bàn (%)
Tỷ lệ người được hỏi duy trì khám sức khoẻ định kỳ ít nhất 1 lần/1 năm với người DTTS khá thấp 
khoảng 12,82% (trong khi người Kinh chiếm 32,41%), hiếm khi đi khám (2, 3 năm mới đi khám) với người 
DTTS chiếm tỷ lệ 25,64% (thấp hơn 1 nửa so với người Kinh 59,26%). Tỷ lệ tối thiểu 1 lần trong 6 tháng 
thường rơi vào đối tượng người già, có tuổi nên yêu cầu phải được đi khám bệnh định kỳ thường xuyên, tỷ 
lệ này với người DTTS là 1,71% và với người Kinh là 7,41%. Về cơ bản rõ ràng tỷ lệ người DTTS duy trì 
khám sức khoẻ định kỳ là thấp hơn nhiều so với người dân tộc Kinh trên cùng địa bàn nghiên cứu.
Trong mẫu nghiên cứu có 72,8% người trả lời cho biết họ có giữ thẻ bảo hiểm y tế, tỷ lệ này là thấp hơn 
khá nhiều so với tỷ lệ chung toàn quốc người dân có sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (89% trên cả nước, số liệu 
2019), cũng như thấp hơn tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế theo báo cáo của toàn tỉnh (94,04% dân số tỉnh, số 
liệu 2019). Số liệu điều tra tại địa bàn cho thấy một số người được hỏi là người DTTS phần lớn là thuộc các 
xã khu vực II, khu vực III là những đối tượng được phát thẻ bảo hiểm y tế, nhưng nhiều trường hợp trả lời 
cho thấy họ không giữ thẻ bảo hiểm y tế hoặc không biết đến thẻ bảo hiểm y tế. Điều này có thể cho thấy 
nhận thức của người DTTS về thẻ bảo hiểm y tế còn hạn chế và họ còn chưa nắm được ý nghĩa của việc 
sử dụng thẻ bảo hiểm y tế như thế nào. Cho nên một số người dân không quản lý thẻ bảo hiểm y tế một 
cách cẩn thận như là những giấy tờ cá nhân có liên quan khác (như chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu)
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
137Volume 9, Issue 2
Hình 4. Thực trạng về giữ thẻ BHYT của người dân tại địa bàn nghiên cứu (%)
So sánh tỷ lệ giữ thẻ bảo hiểm y tế giữa dân tộc Kinh và DTTS tại địa bàn nghiên cứu, cho thấy: tỷ lệ 
người dân tộc Kinh giữ thẻ bảo hiểm y tế cao hơn so với người DTTS, (59,11% so với 49,57%). Kết quả 
điều tra cũng cho thấy 91,38% tổng số người DTTS giữ thẻ bảo hiểm y tế là thuộc loại miễn phí, số tự 
nguyện mua chiếm tỷ lệ 0% (rất ít). 
Khảo sát về thực trạng đi khám chữa bệnh của người dân trong 5 năm gần đây, kết quả cho thấy tỷ lệ 
người DTTS đã từng đến các cơ sở y tế chiếm tỷ lệ 64,10% số người được hỏi, trong khi đó người Kinh 
chiếm tỷ lệ 87,04% số người được hỏi.
Hình 5. Tình trạng đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế của người dân trong 5 năm gần đây (%)
Và trong số những người đi khám chữa bệnh thì tỷ lệ người đi khám tại trạm y tế xã/thị trấn đối với 
người DTTS chiếm tỷ lệ 96%, trong khi đó người Kinh chiếm tỷ lệ 75,53%; Ở bệnh viện huyện tỷ lệ người 
DTTS chiếm 64%, còn người Kinh chiếm 69,15%. Ở bệnh viện tỉnh/Trung ương, người DTTS chiếm 8%, 
còn người Kinh chiếm 18.09%. Như vậy có thể thấy xu hướng người DTTS đi khám chữa bệnh có xu 
hướng ở gần nơi sinh sống hơn, trong khi người Kinh có xu hướng tiếp cận các cơ sở điều trị y tế có chất 
lượng cao hơn. Đối với phòng khám/bệnh viện tư nhân, tỷ lệ của cả 2 nhóm là khá thấp. Có thể là do đặc 
thù địa bàn nghiên cứu hầu như có rất ít các phòng khám/bệnh viện tư nhân, có thể đây là các phòng khám 
bệnh viện tư nhân ở tuyến trung ương khi người dân lên khám chữa bệnh đã ghé qua.
Những hạn chế của người DTTS trong tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản như: Khám bệnh định kỳ, sử dụng 
thẻ (thói quen giữ thẻ) bảo hiểm y tế, lựa chọn cơ sở y tế khám chữa bệnh là do một số nguyên nhân từ 
khách quan: (1) đường xá đi đến các cơ sở y tế thường xa, bất tiện; (2) những lo ngại về khó khăn trong 
giao tiếp, làm quen vói nếp sinh hoạt khác biệt với môi trường hoạt động tại bệnh viện.
Như vậy, kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu cho thấy khá rõ những hạn chế của người dân vùng sâu 
vùng xa nói chung, đặc biệt là người DTTS trong việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe bản thân, trong việc tiếp 
cận một số dịch vụ y tế cơ bản: không có nhiều kiến thức về thẻ bảo hiểm y tế, ít khám chữa bệnh định kỳ tại 
các cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên. 
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
138 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy người dân 
trên địa bàn có tham gia các hoạt động đoàn thể và 
các chương trình đào tạo nghề ở nông thôn thì có xu 
hướng tiếp cận các cơ sở chữa bệnh cao hơn so với 
người không tham gia các hoạt động này.
Trong những năm qua, ngành y tế tỉnh Tuyên 
Quang đã luôn quan tâm đến chăm sóc sức khỏe 
cho đồng bào DTTS trên địa bàn. Toàn tỉnh hiện có 
9 bệnh viện đa khoa tuyến huyện với 1.165 giường 
bệnh, công suất sử dụng giường bệnh đạt 95%; 
129 trạm y tế thuộc các huyện thực hiện công tác 
chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế dự phòng tại địa 
phương với 645 giường bệnh; số bác sỹ trên 10.000 
dân đạt 8,1/10.000 người. 
Những cố gắng nỗ lực của sở y tế, cũng như 
chính quyền tỉnh Tuyên Quang nói chung và huyện 
Na Hang nói riêng là rất đáng ghi nhận, đóng góp 
vào việc nâng cao chất lượng và cơ hội tiếp cận 
với các dịch vụ sức khoẻ của người dân vùng sâu, 
vùng xa, vùng DTTS. Nghiên cứu cho thấy một số 
tập quán, thói quen, văn hoá của người DTTS là 
một trong những rào cản lớn khiến họ chưa tiếp cận 
được đầy đủ những dịch vụ y tế cơ bản. Để hướng 
đến việc chăm sóc sức khỏe toàn dân tốt hơn nữa, 
đặc biệt là đối với cộng đồng người DTTS, bên 
cạnh những giải pháp từ phía y tế, rất cần những 
giải pháp tiếp cận từ góc độ văn hoá, xã hội nhằm 
tuyên truyền và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận 
với dịch vụ chăm sóc sức khỏe y tế một cách tự tin 
và thường xuyên hơn nữa.
5. Thảo luận 
Để thay đổi thói quen liên quan đến chăm sóc 
sức khoẻ như ăn uống khoa học, tập thể dục, không 
sử dụng các sản phẩm có hại cho sức khỏe như uống 
rượu, cũng như duy trì hoạt động khám sức khoẻ 
định kỳ, hệ thống y tế tỉnh Tuyên Quang cần phát 
triển hơn nữa hệ thống truyền thông hiện tại, chú 
ý đến đội ngũ cộng tác viên tuyên truyền đi về các 
thôn, bản am hiểu tiếng dân tộc để phổ biến kiến 
thức cho đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh. Chương 
trình cần phù hợp với từng dân tộc cư trú tại địa 
bàn, được truyền thông bằng nhiều hình thức gián 
tiếp, trực tiếp trên các phương tiện truyền thông tại 
địa phương. Chương trình giáo dục truyền thông về 
y tế có thể lồng ghép trong các chương trình tuyên 
truyền về văn hóa xã hội khác để tránh gây nhàm 
chán. Các chương trình cần được triển khai định kỳ 
và tổ chức theo kế hoạch hợp lý, lựa chọn thời điểm 
thời tiết chuyển đổi dễ bùng phát các dịch bệnh và 
trong chương trình đưa ra những hướng dẫn cụ thể 
về phòng chống dịch bệnh đối với một số bệnh cụ 
thể, còn nền tảng chung là những hướng dẫn liên 
quan đến thay đổi thói quen sống có lợi cho sức 
khỏe, thay đổi thói quen về văn hóa, cách thức giao 
tiếp và tiếp cận các cơ sở y tế, cũng như lợi ích, cách 
bảo quản và giữ gìn thẻ bảo hiểm y tế Bên cạnh 
đó, tại các địa bàn có đông người DTTS cư trú cũng 
cần tính đến thiết lập các đầu mối, đường dây nóng 
tư vấn sức khỏe cho người dân, bố trí nhân viên tư 
vấn am hiểu về văn hóa và có khả năng trao đổi, tư 
vấn cho người DTTS.
Bên cạnh giải pháp về tuyên truyền, chính quyền 
địa phương cần có giải pháp đưa các dịch vụ y tế 
đến gần hơn với đồng bào DTTS. Cụ thể là tổ chức 
các tổ tư vấn và khám sức khoẻ định kỳ cho người 
DTTS tại thôn/bản để người dân làm quen với công 
tác khám sức khoẻ định kỳ; tạo ra các chương trình 
khám sức khỏe lưu động kết hợp với các lễ hội có 
đông người tham dự để người dân địa phương hiểu 
hơn về công tác chăm sóc sức khỏe, khám bệnh và 
hình thành thói quen sinh hoạt và duy trì xây dựng 
nếp sống có lợi cho sức khỏe. Ngoài ra, cần xây 
dựng đội ngũ nhân viên y tế triển khai các hoạt động 
lưu động trên địa bàn có kỹ năng giao tiếp tốt, thân 
thiện với người DTTS để thăm khám, tư vấn nhằm 
cải thiện thói quen của đồng bào DTTS đối với việc 
chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế. Các bệnh viện 
tuyến huyện và tỉnh có phương án tạo dựng những 
khu lưu trú với những yếu tố thích ứng với văn hóa 
của đồng bào DTTS.
Khi đồng bào DTTS tham gia các hoạt động 
đoàn thể tổ chức tại địa phương, các chương trình 
đào tạo nghề cho lao động nông thôn thường có ý 
thức hơn về việc chăm sóc sức khỏe và tham gia 
khám chữa bệnh định kỳ. Như vậy, nhóm giải pháp 
về tổ chức các hoạt động đoàn thể có sự tham gia 
của người dân và các hoạt động đào tạo nghề cho 
lao động nông thôn cũng góp phần làm giảm sự 
khác biệt văn hóa giữa đồng bào DTTS và người 
Kinh, giúp đồng bào DTTS hòa nhập hơn với cộng 
đồng dân cư tại nơi cư trú, mạnh dạn hơn khi tiếp 
cận các cơ sở y tế tuyến trên. Những giải pháp này 
hướng đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống tinh 
thần và thể chất cho người DTTS, nhưng bên cạnh 
đó cũng mang lại hiệu quả trong việc nâng cao sức 
khỏe cộng đồng, thay đổi tập quán tiêu cực, tạo điều 
kiện nâng cao thể chất của người dân nói chung trên 
địa bàn tỉnh.
6. Kết luận 
Qua nghiên cứu thực tế tại một số xã thuộc 
huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang đã cho thấy, 
chính quyền tỉnh Tuyên Quang và huyện Na Hang 
đã rất nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng và tạo 
cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản, nhằm chăm 
sóc sức khỏe cho người dân vùng sâu, vùng xa, 
vùng DTTS. Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản hình 
thành từ một số tập quán, thói quen, văn hóa của 
người DTTS tại đây khiến họ chưa tiếp cận được 
đầy đủ các dịch vụ y tế cơ bản. Do đó, cần tiếp cận 
từ góc độ văn hóa, tập quán của đồng bào DTTS để 
đưa ra các giải pháp về tuyên truyền, giải pháp về y 
tế để đồng bào DTTS tiếp cận với dịch vụ y tế một 
cách tự tin, đầy đủ và thường xuyên hơn.
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
139Volume 9, Issue 2
ACCESS TO HEALTH SERVICE AND HEALTH CARE 
FOR ETHNIC MINORITY PEOPLE
(Case study in Na Hang district, Tuyen Quang province)
Phung Tuan Anha; Le Hong Vietb
a Hanoi Institute for Socio-Economic 
Development Studies
Email: phungtuananh@gmail.com
b Vietnam women’s Academy
Email: vietlh@vwa.edu.vn
Received: 21/5/2020
Reviewed: 28/5/2020
Revised: 04/6/2020
Accepted: 09/6/2020
Released: 21/6/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/429
Abstracts
Achievements in people’s health care in Vietnam in recent years 
have been recorded significantly in many areas such as: Improving 
the quality of health services, improving the satisfaction index for 
health care at hospital routes, increasing the percentage of people 
owning health insurance, increasing life expectancy and the rate of 
maternal and child death under 1 year of age decreased significantly. 
Vietnam’s efforts to protect the public health of the health system 
are also reflected in the effective prevention of Covid epidemic in 
the recent time. However, the reality shows that the development 
of the health system is uneven, there are still regions, especially 
ethnic minorities area still has difficulties in accessing and using 
health services, there are differences between population groups and 
several ethnic groups.
The case in Na Hang district, Tuyen Quang province is a typical 
case; some customs, habits and cultures of ethnic minority people 
have created barriers that prevent them from fully accessing basic 
health services. Therefore, in addition to the solutions from the 
health side, there is a need for approach solutions from the cultural 
and social perspective to propagate and create favorable conditions 
for people to confidently and often access health services.
Keywords
Health care; accessment of health; Ethnic minorities; Na Hang 
district, Tuyen Quang province.
Tài liệu tham khảo
Ban Chấp hành Trung ương. Quyết định số 122/
QĐ-TTg ngày 10/01/2013 “Phê duyệt Chiến 
lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao 
sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm 
nhìn đến năm 2030”. , (2013).
Báo Bảo hiễm xã hội. (2019). Tuyên Quang: 
Quan tâm phát triển đối tượng tham 
gia BHXH, BHYT. Truy cập từ http://
baobaohiemxahoi.vn/vi/tin-chi-tiet-tuyen-
quang-quan-tam-phat-trien-doi-tuong-tham-
gia-bhxh-bhyt-b51fb7b9.aspx.
Báo Dân vận. (2019). Ngành y tế Tuyên Quang: 
nỗ lực chăm sóc sức khỏe nhân dân vùng sâu, 
vùng xa. Truy cập từ 
Nganh-y-te-voi-cong-tac-dan-van/10461/
Nganh-y-te-Tuyen-Quang-no-luc-cham-soc-
suc-khoe-nhan-dan-vung-sau-vung-xa.
Báo Nhân dân điện tử. (2020). Phát triển đối 
tượng tham gia bảo hiểm y tế bền vững. 
Truy cập từ https://nhandan.com.vn/xahoi/
bhxh-va-cuoc-song/item/40790002-phat-
trien-doi-tuong-tham-gia-bao-hiem-y-te-
ben-vung.html.
Tạp chí tòa án nhân dân điện tử. (2019). 
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho 
vùng dân tộc thiểu số. Truy cập từ https://
tapchitoaan.vn/bai-viet/kinh-te/nang-cao-
chat-luong-kham-chua-benh-cho-vung-dan-
toc-thieu-so
Thủ tướng. Quyết định số 582/QĐ-TTg, ngày 
28 tháng 04 năm 2017 phê duyệt Danh sách 
thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu 
vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số 
và miền núi giai đoạn 2016 - 2020. , (2017).
Tổng cục Thống kê. (2016). Kết quả khảo sát 
mức sống dân cư Việt Nam 2016. Hà Nội: 
Nxb. Thống kê.

File đính kèm:

  • pdftiep_can_dich_vu_y_te_va_cham_lo_suc_khoe_doi_voi_dong_bao_d.pdf