Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh

Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc nào

cũng là ‘Em ghét anh’! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi căm thù

anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh làm em

cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 1

Trang 1

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 2

Trang 2

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 3

Trang 3

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 4

Trang 4

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 5

Trang 5

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 6

Trang 6

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 7

Trang 7

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 8520
Bạn đang xem tài liệu "Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh

Tiếng Anh - Phần: Nghe Tiếng Anh
Nghe tiếng Anh 
 Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc nào 
cũng là ‘Em ghét anh’! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi căm thù 
anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh làm em 
cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng! 
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây: 
I didn’t say Paul stole my watch! 
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I – 
didn’t – say – Paul – stole – my – watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn: 
I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!) 
I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn’t act like that) 
I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn’t SAY) 
v.vKhi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên hiểu (và nói đúng) cao 
độ của một từ (nói đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học tiếng 
Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn giọng 
như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi – ngã (do học nghe bằng tai nên 
người Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân biệt chúng 
rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải nghe toàn bộ âm điệu để 
nắm bắt những tình cảm bên dưới câu nói. 
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành ngữ 
một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví dụ: các câu 
ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You’re joking/kidding! 
Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu là một 
tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận 
hay từ chối! 
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ không chỉ 
đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn, bạn 
chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal): Would you 
please (to) take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một âm điệu nào 
đó khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì ngỡ rằng bạn diễu 
cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: Sit 
down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng 
hậu, thì không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái độ căng 
thẳng và giọng nói cộc cằn (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều. 
4. Nghe với những gì một từ bao hàm. 
Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi danh 
từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình cảm 
(connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có một 
denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn toàn 
khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a 
girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với một đảng viên 
đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu dàng 
cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, độc 
ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết thuyết 
khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định triết thuyết do 
Karl Marx đề ra! 
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng nghĩa 
(synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ tương 
đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì thế mà không 
bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác nhau: 
mother/father không hoàn toàn là cha/mẹ – và mummy/daddy không hoàn toàn là 
ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt và người 
Anh). “Nghe” tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong các thuật 
ngữ mình nghe. 
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe để 
quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe tin tức 
mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của các 
chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được dùng từ 
kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để nói lên tình cảm của mình, vì 
thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một phần khá chủ 
yếu trong tiếng Anh. 
(Trái lại thông tín viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình 
trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là thông tín viên vui mừng 
hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản tin mình đọc. Còn người viết 
bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ trước kia, khi nói đến một tổng 
thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên Kennedy’ hoặc ‘tên tổng thống Kennedy’. Còn 
hiện nay thì ‘Ngài tổng thống Bush’, mà ít khi nói một cách trung lập: Tổng Thống 
G. Bush. Trong khi đó, hầu như không bao giờ nghe trong một bản tin: ‘Cố chủ 
tịch Hồ Chí Minh’, mà lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác Hồ’ mặc nhiện 
tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ tịch Hồ Chí 
Minh’, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất kính, xem thường’ 
đối với ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!) 
5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm. 
Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có thể phối hợp 
tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới ngôn ngữ giao tiếp; và 
điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn ngữ đều gợi lên một cái gì đó 
vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thi ca là một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù 
thích hay không thích, vẫn cảm được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn nâng cao 
kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh của mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho đến nay, 
khó tìm những bài thơ audio, nhưng không phải là không có. Tập nghe đọc thơ, 
dần dần, chúng ta sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì sao 
cùng một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì ‘hay’ hơn cách kia. Bấy giờ ta mới có 
quyền nói: tôi đã ‘nghe’ được tiếng Anh. 
Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu đã sử dụng 
âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”: 
Những luồng run rẩy rung rinh lá 
Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind 
I saw you toss the kites on high 
And blow the birds about the sky; 
And all around I heard you pass, 
Like ladies’ skirts across the grass.. 
Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’ nối tiếp và 
quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của váy các mệnh phụ 
lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam hoàn toàn không có kinh nghiệm, vì mọi 
nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài). 
Kết luận: 
Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’ tiếng Anh. Tuy 
nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và không có lý thuyết nào có thế 
làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy nhất ấy là bạn phải tự mình nghe và 
rút ra những phương pháp thích hợp với xu hướng, kinh nghiệm và sở thích của 
mình. 
Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch. Thế nhưng, 
những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn, vì những thứ ấy không 
cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào. Vâng. Nếu các bạn thấy việc 
đọc script, hoặc học từ vựng, hoặc viết thành câu và tra từ điển – như vẫn làm từ 
trước đến nay – giúp cho bạn nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng phương pháp 
của mình. Tôi chỉ nhắc lại một điều này: 
Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập bơi. Khi tập 
bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi, từ đó bạo dạn xuống 
nước mà tập bơi. Và không ít người bơi giỏi đã khởi sự như thế. Bạn cũng vậy, có 
thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn script – học từ – kiểm tra văn phạm) 
giúp bạn những cột chắc chắn để bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng: Chiếc 
phao giúp cho bạn nổi, nhưng không giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai đoạn nào 
đó, chính chiếc phao lại cản trở bạn và không cho bạn bơi thoải mái. 
Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu không nó trở thành một trở 
ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa. 
Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy, nếu không 
chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự ‘nghe’ được tiếng Anh! 

File đính kèm:

  • pdftieng_anh_phan_nghe_tieng_anh.pdf