Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu khả năng hình thành biofloc để duy trì sự ổn

định của môi trường nước trong hệ thống ương giống tôm thẻ chân trắng. Một tổ hợp vi sinh phát triển

từ nguồn nước tự nhiên được sử dụng để so sánh với đối chứng có bổ sung chế phẩm vi sinh công

nghiệp. Thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện hạn chế ánh sáng mặt trời trong 24 ngày, không có

sự trao đổi nước và có bổ sung rỉ mật hàng ngày để làm nguồn carbon (tỷ lệ C/N ở mức 15:1). Tổ hợp

biofloc hình thành đã kiểm soát lượng NH4+ và NO2– bằng quá trình đồng hóa dị dưỡng và nitrat hóa.

Trong suốt quá trình thí nghiệm, hàm lượng N–NH4 và N–NO2 của hệ thống biofloc được duy trì ở mức

an toàn đối với tôm con, lần lượt là 0,99 ± 0,02 mg·L–1 và 0,49 ± 0,08 mg·L–1. Ở mật độ nuôi 400 con·m–3,

khối lượng tôm tăng từ 0,01 đến 0,59 g·con–1 sau 24 ngày nuôi ở tất cả các bể với tỷ lệ sống đạt 82,5%

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 1

Trang 1

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 2

Trang 2

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 3

Trang 3

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 4

Trang 4

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 5

Trang 5

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 6

Trang 6

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 6921
Bạn đang xem tài liệu "Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Thử nghiệm tạo biofloc từ nguồn vi sinh tự nhiên cho ương giống tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vanamei boone, 1931) tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên 
Tập 130, Số 1A, 117–123, 2021 
pISSN 1859-1388 
eISSN 2615-9678 
DOI: 10.26459/hueunijns.v130i1A.5914 117 
THỬ NGHIỆM TẠO BIOFLOC TỪ NGUỒN VI SINH TỰ NHIÊN 
CHO ƯƠNG GIỐNG TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vanamei 
Boone, 1931) TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 
Lê Công Tuấn1, Tề Minh Sơn1, Đoàn Thị Mỹ Lành1, Nguyễn Hoàng Lộc2*, Nguyễn Đức Huy3 
1 Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, 77 Nguyễn Huệ, Huế, Việt Nam 
2 Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, 77 Nguyễn Huệ, Huế, Việt Nam 
3 Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế, Quốc lộ 10, Phú Vang, Thừa Thiên Huế, Việt Nam 
* Tác giả liên hệ Nguyễn Hoàng Lộc 
(Ngày nhận bài: 13-07-2020; Ngày chấp nhận đăng: 02-10-2020) 
Tóm tắt. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu khả năng hình thành biofloc để duy trì sự ổn 
định của môi trường nước trong hệ thống ương giống tôm thẻ chân trắng. Một tổ hợp vi sinh phát triển 
từ nguồn nước tự nhiên được sử dụng để so sánh với đối chứng có bổ sung chế phẩm vi sinh công 
nghiệp. Thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện hạn chế ánh sáng mặt trời trong 24 ngày, không có 
sự trao đổi nước và có bổ sung rỉ mật hàng ngày để làm nguồn carbon (tỷ lệ C/N ở mức 15:1). Tổ hợp 
biofloc hình thành đã kiểm soát lượng NH4+ và NO2– bằng quá trình đồng hóa dị dưỡng và nitrat hóa. 
Trong suốt quá trình thí nghiệm, hàm lượng N–NH4 và N–NO2 của hệ thống biofloc được duy trì ở mức 
an toàn đối với tôm con, lần lượt là 0,99 ± 0,02 mg·L–1 và 0,49 ± 0,08 mg·L–1. Ở mật độ nuôi 400 con·m–3, 
khối lượng tôm tăng từ 0,01 đến 0,59 g·con–1 sau 24 ngày nuôi ở tất cả các bể với tỷ lệ sống đạt 82,5%. 
Từ khóa: biofloc, tôm thẻ chân trắng, ương giống, vi sinh tự nhiên 
Evaluation of biofloc from saltwater bacteria community for white-leg 
shrimp (Litopenaeus vanamei Boone, 1931) culture in Thua Thien Hue 
Le Cong Tuan1, Te Minh Son1, Doan Thi My Lanh1, Nguyen Hoang Loc2*, Nguyen Duc Huy3 
1 Department of Environmental Science, University of Sciences, Hue University, 77 Nguyen Hue St., Hue Vietnam 
2 Department of Biology, University of Sciences, Hue University, 77 Nguyen Hue St., Hue, Vietnam 
3I nstitute of Biotechnology, Hue University, Rd. 10, Phu Vang, Thua Thien Hue, Vietnam 
* Correspondence to Nguyen Hoang Loc 
(Received: 13 July 2020; Accepted: 02 October 2020) 
Abstract. This study was conducted to investigate the formation of biofloc in maintaining the stability 
of the water quality in the white-leg shrimp nursery system. A treatment unit using microorganisms 
from natural water was conducted to compare with a control supplemented with commercial probiotics. 
The experiment was conducted under the conditions of limited sunlight for 24 days without water 
exchange and with daily molasses addition as a carbon source (the C/N ratio is 15:1). The resulting biofloc 
complex could control the increase of NH4+ and NO2– via heterotrophic assimilation and nitrification. 
During the experiments, the N–NH4 and N–NO2 concentrations of the biofloc system maintain a safe 
range for the juveniles at 0.99 ± 0,02 and 0.49 ± 0.08 mg·L–1, respectively. At the culture density of 400 
Lê Công Tuấn và CS. 
118 
shrimp·m–3, the shrimp weight increases from 0.01 g to 0.59 g per shrimp on the 24th day of culture for 
all culture tanks with a survival rate of 82.5%. 
Keywords: biofloc, shrimp nursery, saltwater bacteria, white-leg shrimp 
1 Giới thiệu 
Một trong những công nghệ có tiềm năng 
tạo ra sản lượng cao từ nuôi trồng thủy hải sản, 
đồng thời đảm bảo sự bền vững về mặt môi 
trường, kinh tế và xã hội là công nghệ biofloc [1, 2]. 
Biofloc là kỹ thuật huyền phù và được phát triển 
trong những năm 80 của thế kỷ XX. Công nghệ này 
dựa trên việc duy trì các nhóm vi khuẩn trong 
huyền phù ở mật độ cao bằng cách cung cấp không 
khí liên tục [3]. Quá trình cung cấp không khí liên 
tục cho quá trình phân hủy hiếu khí các chất hữu 
cơ, thức ăn thừa, phân tôm, v.v. trong ao nuôi đi 
kèm sự phát triển của quần thể vi sinh vật dị dưỡng 
đa dạng và lơ lửng [4]. Quần thể vi sinh vật dị 
dưỡng giúp kiểm soát chất lượng nước, đồng thời 
là nguồn thức ăn giàu protein cho tôm và có thể 
đóng vai trò như một biện pháp thay thế để kiểm 
soát mầm bệnh [5, 6]. Về mặt lý thuyết, hệ thống 
vận hành thông qua việc bổ sung nguồn carbon để 
tăng tỷ lệ C/N, từ đó, tăng cường chuyển đổi ni tơ 
vô cơ thành sinh khối của vi sinh vật [4]. Các vi sinh 
vật sử dụng carbohydrate làm nguồn năng lượng 
để tạo ra các tế bào mới và ni tơ được sử dụng để 
tổng hợp protein, đây cũng là yếu tố chính trong 
sự hình thành các tế bào mới [4]. Do đó, bản chất 
của công nghệ biofloc là một quá trình vi sinh vật 
cơ bản, sử dụng carbohydrate đi kèm với việc cố 
định ni tơ vô cơ [4]. Tỷ lệ C/N cao (10–20) được 
khuyến nghị sử dụng để phát triển biofloc và loại 
bỏ ammoni hiệu quả [5, 6]. Điều này có thể đạt 
được bằng cách thêm các nguồn carbon khác nhau 
có sẵn tại địa phương (rỉ mật, đường mía, v.v.) và 
sử dụng thức ăn có hàm lượng ni tơ thấp [4, 5]. 
Lợi ích của công nghệ biofloc so với các 
phương thức truyền thống về mặt hiệu quả sử 
dụng và chất lượng nước cho nuôi đã được chứng 
minh thành công trong nuôi tôm [4, 7-9] và ở một 
mức độ nào đó trong nuôi cá [10, 11]. Tuy nhiên, 
hiện nay việc ứng dụng công nghệ biofloc vào nuôi 
tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam đang gặp khó khăn 
từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên 
nhân về chất lượng chế phẩm vi sinh đang sử dụng 
trong công nghệ nuôi được nhiều người quan tâm. 
Đã có một số nghiên cứu trên thế giới và ở Việt 
Nam nhằm khai thác và sử dụng tài nguyên vi sinh 
vật bản địa để ứng dụng vào trong công nghệ 
biofloc vì vi sinh vật bản địa thích nghi với điều 
kiện môi trường, khí hậu, hiệu quả xử lý cao hơn 
và giúp tiết kiệm chi phí [12-14]. Do đó, để đánh 
giá khả năng thích nghi của công nghệ mới này 
trong giai đoạn đầu nuôi tôm tại tỉnh Thừa Thiên 
Huế, chúng tôi  ... thu 
hoạch từ mỗi bể, xác định khối lượng và chiều dài 
cơ thể. Các thông số tăng trưởng được tính theo các 
phương trình (1–5) 
SR (%) = 100 × (số lượng tôm cuối cùng/số lượng 
tôm ban đầu) (1) 
WG (%) = (W2 – W1)/W1 × 100 (2) 
DGR-W (g·d–1) = (W2 – W1)/N (3) 
LG (%) = ((L2 – L1)/ L1 × 100 (4) 
DGR-L (cm.d–1) = (L2 – L1)/N (5) 
Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) = Khối lượng thức 
ăn sử dụng/Mức tăng khối lượng tôm 
trong đó W1 là khối lượng tôm ban đầu (g); W2 là 
khối lượng tôm sau khi kết thúc thí nghiệm (g); L1 
là chiều dài tôm ban đầu (cm); L2 là chiều dài tôm 
sau thu mẫu (cm); N là thời gian thí nghiệm (ngày); 
SR là tỉ lệ sống; DGR-W là tốc độ tăng khối lượng; 
WG là mức tăng khối lượng tương đối; DGR-L là 
tốc độ tăng chiều dài; LG là mức tăng chiều dài 
tương đối. 
2.4 Phân tích thống kê 
Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm 
thống kê IBM SPSS v. 20, Microsoft office Excel 
2019. Sự thay đổi về hàm lượng chất dinh dưỡng 
và tổng chất rắn lơ lửng sẽ được đánh giá bằng 
phân tích phương sai với mức xác suất 95%. 
3 Kết quả và thảo luận 
3.1 Đánh giá biến động chất lượng nước 
Trong hệ thử nghiệm, nhiệt độ nước (30,1 ± 
1,3 °C), DO (7,5 ± 0,2 mg·L–1) và pH (7,5 ± 0,1) đều 
nằm trong giới hạn chấp nhận đối với nuôi tôm thẻ 
chân trắng vùng nhiệt đới [21] và cũng ghi nhận 
các giá trị tương đương của nhiệt độ (30,1 ± 1,1 °C), 
DO (7,4 ± 0,2 mg·L–1) và pH (7,6 ± 0,1) cũng nằm 
trong bể đối chứng (Bảng 1). Do quá trình sục khí 
liên tục nên DO luôn ở mức cao trong cả hai nhóm 
bể thử nghiệm và đối chứng và cũng là kết quả của 
quá trình nitrat hóa, kết hợp với quá trình cố định 
ni tơ thông qua con đường dị dưỡng để sản xuất vi 
sinh vật chưa phổ biến trong giai đoạn đầu phát 
triển của tôm [16]. Giá trị pH thường liên quan khi 
có quá trình nitrat hóa trong hệ thống dựa trên tổ 
hợp biofloc [16-18]. Tuy nhiên, pH vẫn gần như ổn 
định trong suốt thời gian thử nghiệm (Hình 1). 
Lê Công Tuấn và CS. 
120 
Bảng 1. Các thông số chất lượng nước trong hệ biofloc 
và đối chứng (ĐC) 
Thông số 
Hệ xử lý 
Biofloc Đối chứng 
Nhiệt độ (°C) 30,1 ± 1,3 30,1 ± 1,1 
DO (mg·L–1) 7,5 ± 0,2 7,4 ± 0,2 
pH 7,5 ± 0,1 7,6 ± 0,1 
N–NH4 (mg·L–1) 0,99 ± 0,02 0,98 ± 0,02 
N–NO2 (mg·L–1) 0,49 ± 0,08 0,46 ± 0,07 
TSS (mg·L–1) 24,9 ± 4,2 29,7 ± 5,8 
Dữ liệu được trình bày ở dưới dạng trung bình ± SD (độ 
lệch chuẩn), (p < 0,05). 
Hình 1. Biến thiên của pH của hệ biofloc và đối chứng 
trong thời gian thử nghiệm 
Hai dạng ni tơ vô cơ N–NO2 và N–NH4 có sự 
thay đổi đáng kể liên quan đến điều kiện xử lý và 
dao động rộng trong toàn bộ thời gian thử nghiệm 
(Hình 2). Hàm lượng N–NO2 có xu hướng tăng dần 
trong hai hệ thử nghiệm và đối chứng lần lượt đạt 
2,31 ± 0,23 và 2,55 ± 0,17 mg·L–1 ghi nhận ở ngày 
hoạt động thứ 24 của hệ thống (Hình 2). Hàm 
lượng N–NH4 có xu hướng biến động tăng giảm 
trong qua trình thử nghiệm. Hàm lượng N–NH4 
giảm dần sau ngày thứ 8, cho thấy mức độ nitrat 
hóa thấp hơn, sau đó tăng dần và đạt mức cao nhất 
tại ngày thứ 17 ở hàm lượng 2,3 ± 0,12 mg·L–1 và 
1,98 ± 0,15 mg·L–1. Nhìn chung, động lực học của 
hai dạng ni tơ vô cơ trong hệ thống biofloc cho thấy 
sự tích lũy hàm lượng nitrit và thủy phân chất hữu 
cơ thành amoni thông qua quá trình nitrat hóa [4, 
19]. 
Trong suốt quá trình nuôi thử nghiệm, hàm 
lượng N – NH4 và N – NO2 của hệ thống biofloc 
được duy trì ở mức an toàn đối với tôm con so sánh 
với các nghiên cứu trước đây, lần lượt nhỏ hơn 2 
mg/L–1 (0,99 ± 0,02 mg·L–1) và 4,5 mg·L–1 (0,49 ±0,08 
mg·L–1) [21 
Hàm lượng TSS trong hệ thử nghiệm và hệ 
đối chứng lần lượt là 24,9 ± 4,2 và 29,7 ± 5,8 mg·L–1. 
TSS tăng dần cùng với mức độ dao động cao diễn 
ra trong suốt thời gian thử nghiệm (Bảng 1 và 
Hình 3).
Hình 2. Biến động giá trị N–NH4 và N–NO2 trong bể biofloc và đối chứng 
(Số liệu được biểu diễn dưới dạng trung bình ± SD của ba bể mỗi nhóm)
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên 
Tập 130, Số 1A, 117–123, 2021 
pISSN 1859-1388 
eISSN 2615-9678 
DOI: 10.26459/hueunijns.v130i1A.5914 121 
Hình 3. Tổng chất rắn lơ lửng trong nhóm bể biofloc 
và đối chứng (Số liệu được biểu diễn dưới dạng trung 
bình ± SD) 
3.2 Tốc độ tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng 
Tăng trưởng về chiều dài 
Tôm ban đầu có kích thước nhỏ và tương đối 
đồng đều. Vì vậy, chiều dài ban đầu của tôm giữa 
hai hệ thống không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) 
với chiều dài ban đầu nằm trong khoảng 0,7–1 cm. 
Trong suốt quá trình nghiên cứu, chiều dài của tôm 
tăng như nhau trong hai nghiệm thức. Chiều dài 
của tôm khi thu hoạch có sự khác biệt giữa hai 
nghiệm thức nhưng không lớn. Tôm nuôi trong hệ 
thống thử nghiệm có chiều dài (5,45 ± 0,97 cm) cao 
hơn so với tôm nuôi trong hệ thống đối chứng (4,22 
± 1,04 cm), sai khác này có ý nghĩa thống kê (p < 
0,05) (Bảng 2). 
Bảng 2. Chiều dài trung bình của tôm thẻ chân trắng ở 
các hệ thống nghiên cứu 
Chỉ tiêu Biofloc Đối chứng 
Chiều dài tôm ban đầu 
(cm) 
0,85 ± 0,09a 0,84 ± 0,09a 
Chiều dài tôm thu 
hoạch (cm) 
5,45 ± 0,97ab 4,22 ± 1,04ab 
Tốc độ tăng trưởng về 
chiều dài (cm·d–1) 
0,2 ± 0,0a 0,1 ± 0,0a 
Mức tăng chiều dài 
tương đối (%·d–1) 
7,7 ± 0,3a 6,7 ± 0,32a 
Các giá trị trên cùng một hàng có các ký tự giống nhau 
thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Tăng trưởng về khối lượng 
Khối lượng ban đầu của tôm thẻ chân trắng 
giữa các hệ thống là gần bằng nhau và không có sự 
khác biệt về mặt thống kê (p > 0,05). Khối lượng 
tôm sau 25 ngày nuôi khá đồng đều (trung bình 
0,59 g/con) và không có sự sai khác về mức tăng 
khối lượng tôm giũa hai hệ thống thử nghiệm và 
đối chứng (Bảng 3). Tốc độ tăng trưởng của tôm 
nuôi trong hệ thống nghiên cứu là thấp hơn so với 
thực tế ương tôm của là do mật độ tôm thả là lớn 
hơn.
Bảng 3. Khối lượng trung bình của tôm thẻ chân trắng ở hai hệ thống 
Chỉ tiêu Biofloc Đối chứng 
Khối lượng tôm ban đầu (g) 0,01 0,01 
Khối lượng tôm thu hoạch (g) 0,59 ± 0,01a 0,59 ± 0,02a 
Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g·d–1) 0,02 ± 0,01a 0,02 ± 0,01a 
Mức tăng khối lượng tương đối (%·d–1) 17,0 ± 0,01a 17,8 ± 0,01a 
Các giá trị trên cùng một hàng có các ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
Bảng 4. Hệ số chuyển đổi thức ăn ở các nghiệm thức 
Chỉ tiêu Biofloc Đối chứng 
FCR 0,83 ± 0,01a 0,85 ± 0,05a 
Các giá trị trên cùng một hàng có các ký tự giống nhau 
thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Hệ số chuyển đổi thức ăn trong thí nghiệm 
khá thấp, với FCR dao động trong khoảng 0,83–
0,85 và không có sự sai khác về mặt thống kê giữa 
FCR của lô thí nghiệm và lô đối chứng (p > 0,05) 
(Bảng 4). Trong điều kiện nuôi thâm canh, hệ số 
Lê Công Tuấn và CS. 
122 
chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ chân trắng dao 
động từ 1,1 đến 1,3 [20]. Như vậy, lượng thức ăn 
sử dụng trong nghiên cứu nuôi tôm bằng công 
nghệ biofloc này là thấp hơn so với việc nuôi tôm 
thông thường. Điều này cho thấy tổ hợp biofloc đã 
có vai trò cung cấp một lượng thức ăn bổ sung cho 
tôm [5, 6] 
Tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng 
Tỷ lệ sống của tôm sau 24 ngày nuôi ở cả hai 
hệ thống là gần bằng nhau và không có sai khác về 
mặt thống kê (p > 0,05). Tỉ lệ sống trung bình của 
tôm trong hệ biofloc là 82,5 ± 2,5% và trong hệ đối 
chứng là 82,8 ± 3,01% (Bảng 5). So sánh với nghiên 
cứu Tạ Văn Phương và cs. [13], nuôi tôm thẻ chân 
trắng theo công nghệ biofloc trong vòng 60 ngày 
thì tỷ lệ sống của tôm đạt 75,0–97,3% với mật độ 
thả 150 con·m–3. Theo Xu và cs. [9], ương tôm thẻ 
chân trắng theo công nghệ biofloc với tỉ lệ C/N từ 
12:1 đến 15:1, với mật độ thả 600 con.m–3 thì sau 6 
tuần tỷ lệ sống là trên 95,5% và không có sự khác 
biệt giữa các hệ bể. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 
> 0,05) về tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng giữa hệ 
thống thử nghiệm (82,5 ± 2,5%) và đối chứng (82,8 
± 3,01%). Đồng thời, mức tăng trọng của tôm nuôi 
trong hệ thống thử nghiệm (117%) không có sự 
khác biệt đáng kể (p > 0,05) so với tôm nuôi trong 
hệ thống đối chứng (117,8%). Tương tự, tốc độ tăng 
trưởng theo ngày cũng không có sự khác biệt giữa 
hai hệ thống (p > 0,05), đều là 0,02 g·d–1. Tỷ lệ sống 
và tăng trưởng cao của tôm thẻ chân trắng cho thấy 
sự đóng góp đáng kể của hệ biofloc tự nhiên trong 
việc hỗ trợ sinh trưởng của tôm. 
Bảng 5. Tỷ lệ sống của tôm ở hai hệ thống thử 
nghiệm và đối chứng 
Chỉ tiêu Biofloc Đối chứng 
Tỷ lệ sống (%) 82,5 ± 2,5a 82,8 ± 3,01a 
Các giá trị trên cùng một hàng có các ký tự giống nhau 
thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
4 Kết luận 
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng 
trong giai đoạn đầu của nuôi tôm thẻ chân trắng, 
việc bổ sung các chế phẩm vi sinh để cải thiện chất 
lượng nguồn nước là chưa cần thiết. 
(1) Trong tháng đầu tiên của nuôi tôm thẻ chân 
trắng, các thông số cơ bản của môi trường 
nước nuôi như pH, DO, nhiệt độ của hai hệ 
thống biofloc tự nhiên (thí nghiệm) và có bổ 
sung chế phẩm vi sinh công nghiệp (ĐC) 
không có sự khác biệt (p < 0,05). 
(2) Trong suốt quá trình nuôi thí nghiệm, hàm 
lượng N – NH4 và N – NO2 của hệ thống thí 
nghiệm được duy trì ở mức an toàn đối với 
tôm giống, lần lượt nhỏ hơn 2 mg/L–1 (0,99 ± 
0,02 mg·L–1) và 4,5 mg·L–1 (0,49 ±0,08 mg·L–1) 
(3) Với mật độ độ nuôi 400 con·m–3, khối lượng 
tôm ban đầu là 0,01 g·con–1 ở tất cả các bể của 
lô thí nghiệm và lô đối chứng, sau 25 ngày 
nuôi cho thấy sự tăng trưởng về khối lượng 
lên đến 0,59 g·con–1 với tỷ lệ sống đạt 82,5%. 
Thông tin tài trợ 
Nghiên cứu này được thực hiện với sự tài trợ 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam thông qua 
đề tài Khoa học và công nghệ mã số B2019-DHH-
08. 
Tài liệu tham khảo 
1. De Schryver P, Crab R, Defoirdt T, Boon N, 
Verstraete W. The basics of bio-flocs technology: The 
added value for aquaculture. Aquaculture. 
2008;277(3-4):125-137. 
2. Crab R, Defoirdt T, Bossier P, Verstraete W. Biofloc 
technology in aquaculture: Beneficial effects and 
future challenges. Aquaculture. 2012;356-357:351-
356. 
3. Avnimelech Y, Weber B, Hepher B, Milstein A, Zorn 
M. Studies in circulated fish ponds: organic matter 
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên 
Tập 130, Số 1A, 117–123, 2021 
pISSN 1859-1388 
eISSN 2615-9678 
DOI: 10.26459/hueunijns.v130i1A.5914 123 
recycling and nitrogen transformation. Aquaculture 
Research. 1986;17(4):231-242. 
4. Avnimelech Y. Carbon/nitrogen ratio as a control 
element in aquacultures systems. Aquaculture. 
1999;176:227-235. 
5. Hargreaves JA. Photosynthetic suspended-growth 
systems in aquaculture. Aquacultural Engineering. 
2006;34(3):344-363. 
6. Crab R, Avnimelech Y, Defoirdt T, Bossier P, 
Verstraete W. Nitrogen removal techniques in 
aquaculture for a sustainable production. 
Aquaculture. 2007;270(1-4):1-14. 
7. Burford MA, Thompson PJ, McIntosh RP, Bauman 
RH, Pearson DC. Nutrient and microbial dynamics 
in high-intensity, zero-exchange shrimp ponds in 
Belize. Aquaculture. 2003;219(1-4):393-411. 
8. Zhao P, Huang J, Wang X, Song X, Yang C, Zhang X, 
et al. The application of bioflocs technology in high‐
intensive, zero exchange farming systems 
of Marsupenaeus japonicus. Aquaculture. 2012;354-
355:97-106. 
9. Xu W, Morris TC, Samocha TM. Effects of C/N on 
biofloc development, water quality and 
performance of Litopenaeus vannamei juveniles in a 
biofloc-based, high-density, zezo exchange, outdoor 
tank system. Aquaculture. 2016;453:169-175. 
10. Pérez-Fuentes JA, Hernández-Vergara MP, Pérez-
Rostro CI, Fogel I. C:N ratios affect nitrogen and 
production of Nile tilapia Oreochromis niloticus 
raised in a biofloc system under high density 
cultivation. Aquaculture. 2016;452:247-251. 
11. Việt LQ. Ứng dụng biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng 
(Litopenaeus vannamei) với mật độ khác nhau kết 
hợp với cá rô phi (Oreochromis niloticus). Tạp chí 
khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Phần B: Nông 
nghiệp, Thủy sản và Công nghệ sinh học. 2015;38:44-
52. 
12. Hiền NTT, Huấn NV. Nghiên cứu ứng dụng công 
nghệ Biofloc trong nuôi thâm canh tôm thẻ chân 
trắng Penaeus (Litopenaeus vannamei) quy mô sản 
xuất. Bản tin viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản. 
2013;13-15. 
13. Phương TV. Nghiên cứu nuôi tôm thẻ chân trắng 
theo quy trình biofloc với mật độ và độ mặn khác 
nhau. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 
chuyên đề: Thủy sản. 2014;2:44-53. 
14. Nhung VTN. Nghiên cứu một số nguồn 
Carbonhydrate tạo biofloc để nuôi tôm thẻ chân 
trắng (Litopenaeus vannamei). Tạp chí khoa học 
Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 
2017;14:149 -160. 
15. Rice EW, Baird RB, Eaton AD. Standard methods for 
the examination of water and wastewater. 23rd 
Edition. Washington, DC (US): American Public 
Health Association (APHA); 2017. 1796 p. 
16. Azim M, Little D. The biofloc (BFT) indoor tanks: 
Water quality, biofloc composition and growth and 
welfare of Nile tilapia (Oreochromis niloticus). 
Aquaculture. 2008;283(1-4):29-35. 
17. Azim M, Little D, Bron J. Microbial protein 
production in activated suspension tanks 
manipulating C:N ratio in feed and the implications 
for fish culture. Bioresource Technology. 
2008;99(9):3590-3599. 
18. Da Silva KR, Wasielesky W, Abreu PC. Nitrogen and 
phosphorus dynamic in the biofloc production of 
the Pacific White Shirmp, Litopenaeus vannamei. 
Journal of the World Aquaculture Society. 
2013;44(1):30-41. 
19. Burford MA, Thompson PJ, McIntosh RP, Bauman 
RH, Pearson DC. The contribution of flocculated 
material to shirmp (Litopenaeus vannamei) nutrition 
in a high-intensity zero-exchange system. 
Aquaculture. 2004;232(1-4):525-537. 
20. Avnimelech Y. Feeding with microbial flocs by 
tilapia in minimal discharge bio-flocs technology 
ponds. Aquaculture. 2007;264(1-4):140-147. 
21. Chen J, Chin T. Accute oxicty of nitritee to tiger 
prawn, Penaeus monodon, larvae. Aquaculture. 
1988;69(3-4):253-262. 

File đính kèm:

  • pdfthu_nghiem_tao_biofloc_tu_nguon_vi_sinh_tu_nhien_cho_uong_gi.pdf