Thơ văn Nguyễn Phi Khanh - Nỗi niềm trăn trở về bản thân, thời đại và cuộc sống của nhân dân
Nguyễn Phi Khanh (1355-1428), hiệu là Nhị Khê, nhà thơ lớn, danh nhân thời
Trần – Hồ. Phần lớn thơ văn của ông được dùng để bày tỏ nỗi niềm của người trí thức
nhà nho luôn trăn trở về bản thân, thời đại và dành tình cảm quan tâm đặc biệt đến cuộc
sống vất vả của nhân dân. Bài viết tập trung phân tích, làm rõ các nội dung trên, từ đó
khẳng định vị trí và đóng góp thi sĩ Nhị Khê cho nền thi ca dân tộc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thơ văn Nguyễn Phi Khanh - Nỗi niềm trăn trở về bản thân, thời đại và cuộc sống của nhân dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thơ văn Nguyễn Phi Khanh - Nỗi niềm trăn trở về bản thân, thời đại và cuộc sống của nhân dân
32 TRNG I HC TH H NI TH3 VN NGUY/N PHI KHANH - N9I NI.M TRN TR: V. B"N TH0N, THI I V CUC S4NG C&A NH0N D0N Vũ Văn Long1 Trung tâm GDTX Thanh Miện, Hải Dương Tóm tắt: Nguyễn Phi Khanh (1355-1428), hiệu là Nhị Khê, nhà thơ lớn, danh nhân thời Trần – Hồ. Phần lớn thơ văn của ông được dùng để bày tỏ nỗi niềm của người trí thức nhà nho luôn trăn trở về bản thân, thời đại và dành tình cảm quan tâm đặc biệt đến cuộc sống vất vả của nhân dân. Bài viết tập trung phân tích, làm rõ các nội dung trên, từ đó khẳng định vị trí và đóng góp thi sĩ Nhị Khê cho nền thi ca dân tộc. Từ khóa: Nguyễn Phi Khanh, nỗi niềm, thời đại, nhân dân. 1. MỞ ĐẦU Tình hình chính trị xã hội thời Vãn Trần cho thấy đường lối “nhân trị”, “ân trạch” không đến được với nhân dân, đất nước bất ổn; cảnh giặc dã, thiên tai, lụt lội... liên tiếp xảy ra. Hiện thực như vậy, tạo ra tâm lí lo lắng, bức xúc cho xã hội. Hơn ai hết, các trí thức, bằng “cảm quan hiện thực nhạy bén” [4, tr.82] đã thôi thúc họ cất lên “tiếng nói của trái tim” [9, tr.160] qua văn chương, chuyển tải thông điệp sẻ chia, phương thức ứng xử cao đẹp với đời. Tiếng nói của trái tim là tình cảm, là khát vọng và ước muốn chân thành của người trí thức dân tộc. Đặc biệt với người có chung cảnh ngộ, chịu nhiều tổn thương, thơ văn của họ sẽ dễ dàng phổ quát hơn trong việc sẻ chia, đồng cảm, mở rộng cánh cửa tâm hồn của mọi người. Nhà thơ đất Nhị Khê là con người có cảnh ngộ như vậy. Từ lúc hàn vi ẩn dật chờ thời cho đến khi ra làm quan, lo âu, trăn trở, ưu phiền về bản thân, thời đại và tình cảnh khốn khổ của nhân dân luôn là nguồn chủ đề chính tạo nên nét đặc sắc riêng trong sáng tác của ông. 2. NỘI DUNG 2.1. Nỗi niềm trăn trở về bản thân và thời đại Nhà nho, lí tưởng của họ, học là để làm quan, thực hành đạo “trí quân trạch dân”, phò vua giúp nước, xây đời thịnh trị; ẩn dật, sống nhàn chẳng qua đó chỉ là sự vạn bất đắc dĩ khi thời thế đổi thay. Nguyễn Phi Khanh thuộc về lớp người này. Trong con người ông bất 1 Nhận bài ngày 03.02.2017; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.02.2017 Liên hệ tác giả: Vũ Văn Long; Email: longdtxthanhmien@gmail.com TP CH KHOA HC − S 13/2017 33 cứ khi nào, lí tưởng “tu, tề, trị, bình”, cống hiến tài năng, làm đẹp cho đời vẫn là nguồn động lực mạnh mẽ, cổ vũ giúp ông vượt qua những năm tháng chờ thời để được ra làm quan nhà Hồ. Giai đoạn chờ thời của Nguyễn Phi Khanh kéo dài khoảng gần 27 năm, được tính từ khi ông đỗ tiến sĩ nhà Trần (1374) đến khi làm quan nhà Hồ (1401). Đây là giai đoạn thơ văn của ông ghi nhận nỗi niềm trăn trở của người trí thức Nho về bản thân và thời đại thật sâu sắc. Trước hết, thơ văn của Nguyễn Phi Khanh cho thấy nỗi niềm suy tư trăn trở của một bậc trí thức, người đã từng “Kinh quốc huề thư nhị thập niên” (Du học ở kinh kỳ, hai chục năm nay), nỗ lực chuyện đèn sách, dùi mài kinh sử để được triều đình ghi nhận, trao cho ông học vị cao nhất của thời phong kiến: “Long Khánh nhị niên tân Tiến sĩ” (Vị Tiến sĩ mới đầu năm Long Khánh thứ hai). Vậy mà ông vẫn không được nhà Trần bổ dụng làm quan, vẫn “Đăng long mỗi hận khiếm tiền duyên” (Thường ân hận thiếu cái duyên may được bước lên cửa rồng). Thời gian đầu, khi chưa giải thích được nguyên nhân sự việc, thơ văn Nguyễn Phi Khanh thường cho thấy tâm trạng xót xa, thấy thẹn cho khát vọng của kẻ sĩ, thấy buồn cho bản thân gặp phải thời loạn lạc. Trong bài thơ Thu nhật hiểu khởi hữu cảm (Ngày thu sáng dậy cảm xúc nên thơ), ông bày tỏ: “Ô hô thế đạo hà như ngã?/ Tam phủ di biên phú Đại đông!” (Than ôi! Cuộc đời như vậy, ta biết tính sao đây?/ Ba lần vỗ sách cũ mà ngâm thơ Đại đông!) Sự thật lịch sử thời Vãn Trần, trí thức Nho tuy chưa có địa vị cao trong xã hội, nhưng họ lại thu hút nhiều sự chú ý, trở thành “hình mẫu” lí tưởng thời đại. Việc Nguyễn Phi Khanh không được làm quan, phần nào phản ánh tính chất bảo thủ, việc chưa sẵn sàng “quan liêu hóa” bộ máy nhà nước của các bậc hoàng đế. Chuyện Nghệ hoàng phê phán Phạm Sư Mạnh và Lê Quát, gọi các ông là “bọn học trò mặt trắng” rõ ràng cho thấy “óc bảo thủ”, thái độ chưa coi trọng trí thức Nho học, xem họ như những kẻ cơ hội “tìm đường tiến thân” [7, tr.188], nên việc Nguyễn Phi Khanh làm rể quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán, hẳn bị xem như những kẻ cơ hội đương thời, vì thế sẽ không được trọng dụng. Nhưng rộng hơn, việc làm của Nghệ hoàng chưa cho thấy tâm thế sẵn sàng chấp nhận những mối quan hệ mới, tư duy mới rộng mở hơn. Trong quan niệm của ông ta, đời Khai Thái (Trần Minh Tông) mới là mẫu mực. Nho sĩ trong nhận thức của ông vẫn chỉ là những người giúp việc. Mặt khác Nguyễn Phi Khanh lại dám “xâm phạm” truyền thống, làm phương hại chế độ “nội hôn” “mẫu mực” của hoàng tộc, sẽ làm tăng thêm lí do để nhà Trần sẽ không bao giờ cho ông được làm quan. Nguyễn Phi Khanh đã từng miêu tả thật đúng hoàn cảnh của mình trong câu thơ: “Xuân phong bất giải câm sầu tứ” (Gió xuân chẳng gỡ được mối sầu ầm ỉ), chỉ có trời cao “thiên thượng” mới hiểu thấu được nỗi lòng sầu muộn của ông: “Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ,/ Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu.” (Xin nhờ 34 TRNG I HC TH H NI cái đêm trong sáng ở trên trời kia/ Soi thấu nỗi đau khổ của thế gian này) (Trung thu cảm sự). Khi tất cả mong ước chỉ còn biết cậy nhờ vào trời cao, lúc ấy chân lí trong hiện thực trần thế dường như không tồn tại. Sự không tồn tại này được thể hiện khá phổ biến trong thơ của ông như những cặp đối tự nhiên. Chẳng hạn như: “Nguyệt bạch phong thanh” (gió mát trăng trong) đối lại là: “độc từ sầu” (riêng mình buồn); “Yên ba vạn lí” (khói sóng muôn trùng) đối lại là:“đan tâm thốn” (một tấc lòng son) Có một số bài “cảnh” là một không gian rộng lớn, có thể là mùa xuân, mùa thu, nhưng con người lại luôn thấy đơn lẻ, cô độc:“ngã độc” (riêng tôi), “độc tự châm” (một mình rót uống), với “túy nhân duyên” (duyên phận não nùng), “khách tử tình” (nỗi lòng người đất khách), “trữ sầ ... quân” xây dựng đất nước, đoàn kết dân tộc, chống thù trong giặc ngoài, chăm lo đời sống nhân dân. Cho nên khi viết về tình cảnh sống của người dân, các bậc trí thức vẫn còn thiết tha hy vọng vào triều đình, đức “Nghiêu - Thuấn” quan tâm, coi trọng chính sách thân dân, gần dân để làm sao cho dân có cuộc sống an bình, chứ chưa xuất hiện thái độ coi thường, khinh thị. Đối với nhà nho đất Nhị Khê, ông luôn tự nhận lấy trách nhiệm kẻ sĩ, thực hiện lời dạy của thánh hiền: “Kê minh nhi khởi, tư tư vi thiện giả, Thuấn chi đồ giã.” (Người học theo Thánh hiền, sáng vừa thức dậy, đã lo việc sửa mình và giúp đời) [10, tr.237], phải có trách nhiệm phản ánh những điều đang diễn ra trong cuộc sống, và đây cũng là cách để: “Quân tử hành pháp, dĩ sĩ mệnh nhi dĩ hỹ” (Người quân tử thi hành theo chính pháp, an phận mà chờ mệnh trời) [10, tr.277]. Như vậy, đối với Nguyễn Phi Khanh trước khi đợi mệnh trời, người quân tử phải chăm chú với trách nhiệm làm tròn bổn phận nhà nho trong mọi khả TP CH KHOA HC − S 13/2017 39 năng của mình, chứ không phải ngồi yên chẳng làm gì. Đây là nguyên tắc để ông chăm chút tài năng, rèn luyện bản lĩnh, đối mặt với thực tiễn đi vào tìm hiểu những điều dân mong chờ, hay những điều họ oán thán để phản ánh, cảnh báo nhà cầm quyền cần nới rộng chính sách theo hướng thiết thực, phù hợp hơn với cuộc sống. Là tiến sĩ Nho học, chuyện Kiệt - Trụ tàn ác luôn ám ảnh, để ông khát vọng về một vị “thánh vương” thực sự ở thời đại mình. Đó là vị vua biết trọng hiền tài, lắng nghe tiếng “hờn giận, oán sầu”, giúp dân giải quyết mọi vấn đề bức bách của cuộc sống. Nhưng mong muốn đó của ông dường như không trở thành hiện thực trong bối cảnh xã hội đương thời, vua bất tài giặc chưa đến đã chạy, quan tham lam vơ vét bòn rút của dân Thế nên trong bài Thôn cư cảm sự kí trình Băng Hồ Tướng công (Ở quê xúc động trước sự việc xảy ra, gửi trình Tướng công Băng Hồ), tác giả mới cho rằng: “Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều!” (Mưa móc của Hoàng thiên hãy còn xa vời). Việc ông dùng cụm từ: “chính thiều thiều” cho thấy thái độ thất vọng, bất bình. Khi loạn Dương Nhật Lễ (1370) vừa dẹp xong, triều đình còn phải chấn chỉnh nội bộ, củng cố vương quyền, dồn sức chống giặc Chiêm Thành, và nhiều lí do khác nữa, nên họ không còn đủ sức quan tâm tới nhân dân, để mặc quan tham vơ vét, bọc lột; bão lũ, hạn hán hoành hành: “Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,/ Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu.” (Lưỡi tham quan lại vơ vét hết kiệt/ Mỡ màng của dân đã cạn mất nửa). Từ lời dạy của Mạnh Tử: “Đắc thiên hạ hữu đạo: Đắc kỳ dân, tư đắc thiên hạ hỹ. Đắc kỳ dân hữu đạo: Đắc kỳ tâm, tư đắc dân hỹ. Đắc kỳ tâm hữu đạo: Sở dục, dữ chi tụ chi: Sở ố, vật thi nhĩ giã. Dân chí quy nhân giã, du thủy chi tựu hạ, thú chi tẩu khoáng giã” (Muốn được thiên hạ, có một phương pháp nên theo: Hễ được lòng dân, tự nhiên sẽ được dân chúng. Muốn được dân chúng, có một phương pháp nên theo: dân muốn việc gì nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ; dân ghét việc gì nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ. Dân chúng kéo nhau theo bậc nhân đức, tỷ như nước chảy về lối thấp, thú chạy về chỗ hoang vậy) [10, tr.19], có lẽ nhà thơ đã thấu hiểu được nguyên nhân của mối bất hòa giữa nhân dân và giai cấp thống trị, hiểu được “Thiên ý dân tâm” [5, tr.130] ý trời là lòng dân. Nếu bậc minh quân làm mất lòng dân thì sẽ không nhận được mệnh trời, tất tai ương thảm họa sẽ xảy đến. Bài thơ Giáp Tí hạ hạn, hữu sắc chư lộ đảo vũ, vị đảo nhi tiên vũ (Mùa hạ năm Giáp Tí (1384) hạn hán, vua có sắc cho các lộ cầu mưa, chưa cầu trời đã mưa), tác giả đặc biệt lưu ý các bậc quân vương cần phải có lòng chí thành, đức độ: “Tỉ thị bộc uông hà dụng giả,/ Chí thành cảm triệu cổ do câm (kim).” (Chẳng phải dùng làm gì cái lễ đưa một thân hình gầy còm ra phơi ngoài chợ/ Xưa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời). Lòng chí thành ở đây được hiểu là tấm lòng nhân từ, khoan dung, sự quan tâm, chăm lo của bậc minh quân đến cuộc sống của muôn dân trăm họ như ánh sáng ở trên trời cao kia soi thấu nỗi khổ sầu khắp thế gian. Có lòng chí thành tất vua sẽ nhận được mệnh trời và ắt sẽ được lòng dân, cầu được mưa thuận gió hòa. Mong muốn của Nguyễn Phi Khanh thể hiện trách nhiệm của kẻ sĩ chân 40 TRNG I HC TH H NI chính, phản ánh tâm lí của lớp nhà nho đang lên, họ không thể là kẻ đối đầu với vương quyền của thời đại. Dù chưa được trọng dụng, nhưng chưa bao giờ vị tiến sĩ đất Nhị Khê ngừng khát vọng làm quan, giúp ích cho đời. Dĩ nhiên làm quan với ông không phải để “vinh thân phì gia”, điều quan trọng là “hành kỳ nghĩa giã” (làm việc nghĩa vậy) [5, tr.17], thực thi trách nhiệm của nhà nho với dân với nước. Ở bài Hỉ Học sĩ Trần Nhược Hư tự Nghệ An chí (Mừng học sĩ Trần Nhược Hư từ Nghệ An đến), ông luôn tự ý thức: “Ưu quốc chính tu ngô bối sự” (Lo việc nước chính là phận sự của bọn chúng ta), những nhà nho hành đạo. Vì thế, đứng trước cảnh điêu tàn đồng khô, ruộng cháy, dân chúng than van, đói khổ không biết trông cậy vào đâu, người trí thức có trách nhiệm dù đang nằm trên giường bệnh lòng vẫn không quên trách nhiệm: “Đạo huề thiên lý xích như thiêu,/ Điền dã hưu ta ý bất liêu?/ Hậu thổ sơn hà phương địch địch,/ Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều!/ Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,/ Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu./ Hảo bả tân thi đương tấu độc,/ Chỉ kim ngọa bệnh vị năng triều.” (Ruộng nương nghìn dặm đỏ như cháy/ Đồng quê than van, không biết trông cậy vào đâu/ Non sông của Hậu thổ đang nứt nẻ/ Mưa móc của Hoàng thiên hãy còn xa vời/ Lưỡi tham quan lại vơ vét hết kiệt/ Mỡ màng của dân đã cạn mất nửa/ Xin đem bài thơ mới này thay cho tờ tấu/ Hiện nay đang nằm trên giường bệnh chưa thể đến chầu được) (Thôn cư cảm sự kí trình Băng Hồ Tướng công). Qua bài thơ, chúng tôi thấy Nguyễn Phi Khanh có một sự gần gũi và ảnh hưởng nhất định từ quan niệm văn chương của Bạch Cư Dị, nhà thơ nổi tiếng đời Đường (Trung Quốc). Trong các bức thư gửi Nguyên Chẩn, có đoạn Bạch Cư Dị viết: “Thơ có một nội dung rộng rãi, bao hàm được nhiều ý nghĩa sâu sắc, bộc lộ được những mặt u ẩn của cuộc sống, đi vào được những chỗ sâu kín của tâm hồn, làm cho mất sự ngăn cách giữa người nọ với người kia, trên dưới thông cảm với nhau, tình cảm được giao lưu, ai nấy vui vẻ. Các bậc nhị đế, tam vương sở dĩ thi hành được chính đạo, cai trị được thiên hạ một cách dễ dàng là vì nắm được cái chìa khoá đó” (Thư gửi Nguyên Chẩn) [8, tr.85]. Bạch Cư Dị, đại biểu của phong trào Tân nhạc phủ, người luôn đề cao sức mạnh, giá trị tác động của văn chương. Ở điểm này, lời thơ của thi sĩ Nhị Khê đã đạt được chức năng truyền cảm hứng, tác động làm chuyển biến tư tưởng, định hướng hành động cho người đọc. Đây chính là điểm sáng trong quan niệm về thơ văn của Nguyễn Phi Khanh. Thật đúng như lời dạy của Khổng Tử: “Có nhân ái thì mới thương yêu dân và muốn mở mang cho dân” [5, tr.138]. Phải đứng trên lập trường của người dân, nhà nho đất Nhị Khê mới có sức mạnh làm được những điều như thế. Cảm hứng thân dân sẽ khơi nguồn sáng tác, định hướng tư tưởng cho ông trong các bước đi thận trọng, sáng suốt cuối đời Trần. Đó là điều đương thời Nhị Khê được người thân và bạn bè kì vọng, người đời sau mến mộ. Trong bước đường thành công của người anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Trãi, theo chúng tôi đã có sự tiếp nối về tư tưởng, nhân cách của nhà nho, người trí thức dân tộc đất Nhị Khê này. TP CH KHOA HC − S 13/2017 41 Mặt khác chỉ có như vậy, ông mới tìm được sự hài hòa, sự cân bằng giữa khát vọng với thực tiễn. Nói như Nguyễn Đăng Điệp đó là hướng đến “sự hài hòa tâm vật” [3, tr.142]. Với cảm hứng thân dân, nhà thơ đất Nhị Khê đã bổ sung thêm ý nghĩa cho thơ ca “thù tạc”. Ở mảng đề tài này, với ông không chỉ viết những lời chúc tụng, bày tỏ lòng ngợi ca, thái độ biết ơn, tấm lòng kính yêu, đức độ khiêm nhường “thù tạc”, tri ân còn để bày tỏ thái độ “lập trường nhân dân” của người trí thức. Nhân dân là cái gốc xuất phát, là ngọn nguồn tình cảm, là ước mơ và khát vọng; là chuẩn mực về đạo đức của người quân tử chi phối các mối quan hệ của ông về tình cha con, đạo thầy trò, nghĩa bạn bè Chúng ta nghe có vẻ cứng nhắc, công thức. Nhưng đó lại là nguyên tắc, triết lí nhập cuộc hành đạo, Nguyễn Phi Khanh đã phải đánh đổi cả cuộc đời mới có được. Đọc bài thơ Nguyên nhật, thướng Băng Hồ Tướng công (Ngày Nguyên đán, dâng lên Tướng công Băng Hồ) của ông, chúng ta sẽ càng hiểu và trân trọng ông hơn. Vì tất cả mối quan hệ, thước đo tình cảm, lòng hiếu trung với vị tiến sĩ này đều xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, đất nước: “Chúc tụng khởi tư môn hạ sĩ,/ Quyền quyền chỉ vị ái tư dân.” (Chúc tụng đây há phải vì tình riêng của kẻ sĩ dưới trướng/ Mà chỉ vì tấm lòng thắm thiết yêu thương dân). Hiểu câu nói của Mạnh Tử: “Thuế đại nhân, tắc diễu chi, vật thị kỳ nguy nguy nhiên.” (Khi mình diễn giải với bậc đại nhân, mình chớ nên chú trọng đến địa vị của họ, mình đừng nhìn đến cảnh cao sang vòi vọi của họ) [10, tr.277], chúng ta mới thấy hết được tài năng, đức độ và bản lĩnh của Nguyễn Phi Khanh. Thật đúng với cách quan niệm của Ngô Thì Nhậm: “Chỗ thần diệu của thơ là cốt ở tấm lòng để hiểu lòng mà thôi” [9, tr.134]. Rõ ràng, nhà nho Nguyễn Phi Khanh luôn tâm niệm vì “nghĩa” mà hành động, vì đạo mà phấn đấu, vì nhân sinh mà cống hiến. Quan niệm này, còn chi phối nhiều sáng tác khác của ông về sau. Chẳng hạn khi ông tâm sự với người anh em đồng hao, viên Kiểm chính Hồng Châu Nguyễn Hán Anh về biến đổi của thời cuộc dẫn đến những bất lợi, cản trở “chí hướng” của hai người: “Nhân tình gian hiểm, quân phương cốc,/ Thế lộ phong đào, ngã diệc châu.” (Anh đang là cái bánh xe lăn trong sự gian hiểm của tình người/ Tôi cũng như con thuyền trong cơn sóng gió của đường đời) (Hồng Châu kiểm chính dĩ dư vận tác thuật hoài thi, kiến phúc, dụng kỳ vận dĩ tặng). Theo chúng tôi, cả Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh, họ đều là những bậc “Quân tử ưu đạo” (Quân tử lo đạo) [5, tr.79]. Vì đạo họ theo đuổi là đạo nhân dân: “Vạn tính ngao ngao đãi bộ cầu” (Muôn họ đang nhao nhác chờ miếng cơm manh áo). Không phải nghi ngờ gì nữa, quyền lợi của dân tộc và đất nước là mục đích cuối cùng trong triết lí “hành đạo” của Nguyễn Phi Khanh. Điều này giúp lí giải hệ thống đề tài, chủ đề thơ văn của ông đều lấy lợi ích nhân dân, đất nước làm mục tiêu sáng tác. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, trong thời đại Lý-Trần chưa hề có mâu thuẫn hay đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, mối mâu thuẫn chưa đến mức xảy ra xung đột giai cấp, các trí thức dân tộc, nhà nho yêu nước vẫn đang cố gắng duy trì một nền chính trị “dễ thở hơn”, cố gắng kéo các chính sách của nhà nước về gần với cuộc sống của nhân dân hơn. Có nghĩa là họ mong muốn thi 42 TRNG I HC TH H NI hành đường lối chính trị thân dân, trọng dân và vì dân ngay trong thời đại của mình. Theo Đào Phương Bình: “Có được thái độ tích cực như thế chính là nhờ tác giả (Nguyễn Phi Khanh) đã tự tạo cho mình một lối sống gắn bó với quần chúng, yêu mến những công việc lao động của quần chúng.” [1, tr.71]. Đúng vậy, với Nguyễn Phi Khanh, quyền lợi của nhân dân sẽ là ngọn nguồn cảm hứng, sức mạnh cổ vũ niềm tin, sự lựa chọn con đường đúng đắn của ông trong bối cảnh xã hội khủng hoảng, khi học thuyết Tống Nho và các quy định sơ cứng, công thức đang trở nên trói buộc, chi phối phương thức ứng xử, làm cho nhiều nhà nho đương thời không thể thoát ra, đành chấp nhận trở thành kẻ chịu chung số phận với vương triều Trần mục nát. 3. KẾT LUẬN Tóm lại, tìm hiểu về giá trị thơ văn của Nguyễn Phi Khanh là tìm hiểu về tinh thần trách nhiệm của nhà nho chân chính thời đại Trần – Hồ, với những khát vọng cao đẹp, ý chí phấn đấu vượt qua mọi khó khăn cản trở của thời thế để vươn lên khẳng định mình, thể hiện phẩm chất trí tuệ của nhà nho, sẵn sàng cống hiến tài năng cho đất nước, xây dựng một vương triều vững mạnh để muôn dân khắp chốn được âu ca, hưởng cuộc sống thái bình an lạc. Tinh thần này về sau trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc, được lớp lớp các thế hệ trí thức, con người Việt Nam đặt làm mục tiêu phấn đấu và thực hiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Phương Bình (1965), “Phi Khanh và thơ Phi Khanh”, Tạp chí Văn học, số 4, tr. 69-76. 2. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 3. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Đàm Mĩ Hạnh (1984), “Năng lực nhận thức cuộc sống của nhà văn - một biểu hiện của tài năng sáng tạo văn học”, Tạp chí Văn học, số 5, tr. 81-90. 5. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Lan Khai (2002), Lan Khai - Tác phẩm nghiên cứu, lí luận và phê bình văn học, Trần Mạnh Tiến sưu tầm, tuyển chọn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 7. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử kí toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Phương Lựu (2005), Phương Lựu tuyển tập, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Phạm Quang Trung (2011), Quan niệm văn chương cổ Việt Nam từ một góc nhìn (Sách chuyên khảo), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 10. Tứ thư: Đại học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử (2001), Đoàn Trung Còn dịch giả, Nxb Thuận Hóa, Huế. 11. Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên) (2008), Văn học trung đại Việt Nam (Từ thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 12. Nguyễn Khắc Viện (2000), Bàn về Đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội. TP CH KHOA HC − S 13/2017 43 NGUYEN PHI KHANH POETRY- FEELING OF HIMSELF ON TIME AND LIFE OF THE PEOPLE Abstract: Nguyen Phi Khanh (1355-1428), called Nhi Khe, a great and notable poetry of Tran – Ho Dynasty. The most his poetry was used to express feeling of Confucian intellectual who always concerned about themselves and age as well as paid attention to the hard life of the people. The paper focuses, analyzes and clarifies the above contents, from which affirmed position and contribution to of Nhi Khe to the nation. Keywords: Nguyen Phi Khanh, feeling, the era, the people.
File đính kèm:
- tho_van_nguyen_phi_khanh_noi_niem_tran_tro_ve_ban_than_thoi.pdf