Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái

Theo Cheryll Glotfelty, phê bình sinh thái đầu tiên và đơn giản nhất là nghiên cứu

mối quan hệ giữa văn học với môi trường tự nhiên. Phê bình sinh thái đề xuất lý thuyết

“tự nhiên trung tâm luận”, phản biện lại quan niệm “con người trung tâm luận”. Từ góc

nhìn Phê bình sinh thái, trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, thiên nhiên là nền tảng

chủ đạo, là trung tâm của bức tranh cuộc sống. Ở đó, con người sống hòa vào tự nhiên.

Qua truyện ngắn của ông, ta cũng thấy được sự chuyển biến của sinh thái tự nhiên, sự

thay đổi trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Từ đó, tác giả cũng thể hiện thái độ

không đồng tình trước sự tận diệt thiên nhiên trong quá trình khai thác.

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 1

Trang 1

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 2

Trang 2

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 3

Trang 3

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 4

Trang 4

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 5

Trang 5

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 6

Trang 6

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 7

Trang 7

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 16450
Bạn đang xem tài liệu "Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 
89 
THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC TỪ 
GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI 
Lê Thị Hồng Nhạn 
Trường THPT Phú Ngọc, Đồng Nai 
hacnhaxr81@gmail.com 
Ngày nhận bài: 11/06/2019, Ngày duyệt đăng: 07/09/2019 
Tóm tắt 
Theo Cheryll Glotfelty, phê bình sinh thái đầu tiên và đơn giản nhất là nghiên cứu 
mối quan hệ giữa văn học với môi trường tự nhiên. Phê bình sinh thái đề xuất lý thuyết 
“tự nhiên trung tâm luận”, phản biện lại quan niệm “con người trung tâm luận”. Từ góc 
nhìn Phê bình sinh thái, trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, thiên nhiên là nền tảng 
chủ đạo, là trung tâm của bức tranh cuộc sống. Ở đó, con người sống hòa vào tự nhiên. 
Qua truyện ngắn của ông, ta cũng thấy được sự chuyển biến của sinh thái tự nhiên, sự 
thay đổi trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Từ đó, tác giả cũng thể hiện thái độ 
không đồng tình trước sự tận diệt thiên nhiên trong quá trình khai thác. 
Từ khóa: Bình Nguyên Lộc, phê bình sinh thái, thiên nhiên. 
Nature in short stories of Binh Nguyen Loc from the ecocriticism viewpoints 
Abstract 
According to Glotfelty, the first and the simplest ecocriticism is the study of the 
relationship between literature and natural environment. The ecocriticism proposes the 
theory of “natural centralism”, but disagrees with the notion of “human center”. From 
the perspective of ecocriticism in Binh Nguyen Loc's short stories, nature is the 
mainstream and the center of the picture of life. In which, people live in harmony with 
nature. Through his short stories, the transformation of natural ecology, and the change 
in the relationship between man and nature is seen. Since then, disagreement with the 
destruction of the nature during the exploitation is stated. 
Keywords: Binh Nguyen Loc, ecocriticism, nature. 
1. Đặt vấn đề 
Nếu như trong văn học trung đại, thiên 
nhiên còn nhiều bí ẩn để con người bày tỏ 
lòng ngưỡng mộ và để trú ngụ tâm hồn 
mình thì đến thời hiện đại, với quan điểm 
con người trung tâm luận, thiên nhiên là 
đối tượng khai thác nhằm phục vụ cho 
cuộc sống. Tuy nhiên, không ít nhà văn đã 
có cái nhìn khác đối với thiên nhiên, tuy 
chưa chuyển hết sang quan điểm sinh thái 
trung tâm luận như trong văn học sinh thái 
ở thế kỷ XXI, trong đó có Bình Nguyên 
Lộc. Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc 
đã phản ánh khá rõ nét sự chuyển biến của 
sinh thái tự nhiên, từ việc khai khẩn đất 
mới để mưu sinh lập nghiệp, sự lấn sân của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 
90 
đô thị vào sinh thái tự nhiên, đến sự 
chuyển biến trong quan hệ giữa con người 
với thiên nhiên như ý thức trân trọng, giữ 
gìn tự nhiên, hay phản ánh việc con người 
trở về với môi trường tự nhiên. Đây là một 
vấn đề còn mới mẻ khi nghiên cứu về nhà 
văn Bình Nguyên Lộc. Trước đó, đã từng 
có những nhà nghiên cứu về Bình Nguyên 
Lộc như Nguyễn Văn Đông (2005) với 
công trình Văn hóa và con người Nam Bộ 
trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc; tác 
giả Lê Thị Thu Hiền (2010) với Truyện 
ngắn Ký thác của Bình Nguyên Lộc dưới 
góc nhìn văn hóa, tác giả Nguyễn Thị Thu 
Trang (2010) với công trình Con người và 
Văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn của 
Bình Nguyên Lộc Từ việc thống kê và 
nghiên cứu các công trình đi trước, chúng 
tôi chưa thấy có công trình nào nghiên cứu 
truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc dưới 
góc nhìn phê bình sinh thái. Cho nên, việc 
nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện và đầy 
đủ hơn về truyện ngắn của Bình Nguyên 
Lộc từ góc nhìn phê bình sinh thái và rất 
cần thiết. Bài viết được triển khai theo 
hướng tìm những dấu ấn sinh thái trong 
truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, để thấy 
những đóng góp của một nhà văn lớn với 
những tư tưởng đi trước thời đại trong nền 
văn học đô thị miền Nam một thời bị quên 
lãng. Qua đó, bài viết muốn góp phần cảnh 
tỉnh con người về bảo về môi trường sinh 
thái của đất nước chịu nhiều ảnh hưởng 
của biến đổi khí hậu như Việt Nam. 
2. Khái lược về phê bình sinh thái 
và nhà văn Bình Nguyên Lộc 
2.1. Phê bình sinh thái 
Thuật ngữ sinh thái học là một khoa 
học về “mối quan hệ giữa sinh vật (tự 
nhiên và con người) với môi trường sống” 
(Viện Ngôn ngữ học, 2002: 10). Có nhiều 
khái niệm khác nhau về phê bình sinh thái 
nhưng phần lớn các học giả trên thế giới và 
Việt Nam đều thừa nhận định nghĩa của 
Cheryll Glotfety cho rằng: “Phê bình sinh 
thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn 
học và môi trường tự nhiên” (Nguyễn Thị 
Tịnh Thy, 2017: 9). Phê bình sinh thái lấy 
chủ nghĩa sinh thái làm trung tâm, nhấn 
mạnh sự bình đẳng giữa con người với tự 
nhiên. Phê bình sinh thái manh nha vào 
những năm 70 của thế kỷ XX ở phương 
Tây. Để phát triển phê bình sinh thái phải 
kể đến Hội nghiên cứu về Môi trường 
(ASLE), hình thành vào 1992 ở Hoa Kỳ; 
các nhà nghiên cứu như Kroeber (1994) 
với cuốn chuyên luận Phê bình sinh thái; 
Cheryll Glotlty, Harold Fromm hay Karen 
Thornber,  với nhiều bài viết có tính 
định hướng quan trọng trong phê bình sinh 
thái làm cho phê bình sinh thái dần trở 
thành một khuynh hướng được giới nghiên 
cứu khắp năm châu quan tâm. Ở Việt 
Nam, văn học sinh thái là một tiềm năng 
mà nghiên cứu phê bình sinh thái là một 
hướng nghiên cứu cấp thiết nhưng còn mới 
mẽ. Nhưng không phải tác phẩm văn học 
nào viết về tự nhiên cũng là tác phẩm văn 
học sinh thái và cũng không phải từ khi có 
khái niệm văn học sinh thái thì tác phẩm 
văn học sinh thái mới ra đời, điều quan 
trong và ý thức sinh thái của tác giả được 
thể hiện qua tác phẩm của mình. 
2.2. Nhà văn Bình Nguyên Lộc 
Bình Nguyên Lộc (1914 – 1987), là 
nhà văn lớn của Nam Bộ, tên thật là Tô 
Văn Tuấn, quê ở làng Tân Uyên, tổng 
Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa, (nay 
thuộc thị trấn Tân Uyên, tỉnh Bình 
Dương). Ông sống trong gia đình nông lâm 
nghiệp. Từ nhỏ, ông học trường làng, rồi 
học ở Sài Gòn, sau đó về làm việc ở Thủ 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 
9 ...  sự yên tỉnh của người 
chết, vì chết là đến nơi an nghỉ, ở đó không 
có ganh đua, không bon chen hay lừa dối. 
Vậy mà, Bình Nguyên Lộc đã nhìn thấy sự 
thay đổi ngay cả cách người ta dịch chuyển 
chỗ ở. Người sống vì nghèo khó, vì thiếu 
đất ở, đã phải di cư vào nơi đất thánh, đất 
cấm: “Ban đầu vài người mạo hiểm cất 
nhà ngay trên ranh đất thánh. Thấy không 
ai nói gì, một số người khác lách qua khỏi 
mấy cái nhà vừa cất lên, để vô trong mà 
xây cất” (Nguyễn Q. Thắng, 2012: 41). 
Trong truyện Người đẹp ven sông, tấm 
biển quảng cáo thuốc đánh răng Perlon đã 
làm thay đổi cuộc đời của anh tư Được, 
người làm phu trên một chiếc phà máy ở 
bến Hậu Giang Cần Thơ. Sự quyến rũ của 
nàng trong tấm biển quảng cáo như là sự 
quyến rủ của phồn hoa đô hội. Khi nền 
công nghiệp đang lấn sân vào Việt Nam, 
và cuộc sống khó khăn ở miền quê đã làm 
dòng di cư ào ạt lên đô thành làm sinh thái 
tự nhiên vùng miền cũng bắt đầu chuyển 
dịch. Sức quyến rũ của nó mạnh như một 
cô gái xinh đẹp có hàm răng trắng muốt, 
có đôi mắt biết nói và nụ cười khả ái. Biết 
đó là ảo mộng nhưng “ảo mộng giúp tươi 
đẹp phần nào cuộc đời tăm tối và phẳng lì 
của anh tư Được”. Người ta nghĩ về đô 
thành cũng mãnh liệt như khi mơ về một 
cô gái đẹp. Sài thành là một giấc mơ của 
biết bao con người ở miền quê nghèo này: 
“Từ thành phố lạ ấy vọng xuống từ lâu một 
tiếng gọi xa xôi, nó mời mọc chàng, nó rủ 
rê chàng, nó quyến dụ chàng bằng hình 
bóng người đẹp đánh răng” (Nguyễn Q. 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 
93 
Thắng, 2002: 143), Tuy nhiên, không phải 
ước vọng nào cũng thành hiện thực, giấc 
mơ nào cũng mãi đẹp, cái còn lại là cả sự 
đổ vỡ. Đô thành vốn tráng lệ, hào hoa kia 
đã đi sâu ảnh hưởng đến cuộc sống của 
người dân quê, đây là lời cảnh báo của tác 
giả và càng về sau, nó càng đúng hơn. 
Trong truyện Ma ném đá, thằng Ngọt cũng 
đã nói ra suy nghĩ của mình về việc cứ hễ 
cô Hén về làng là có ít nhất một cô gái ở 
làng đi theo tiếng gọi thị thành. Vậy nên, 
Ngọt đã giả ma ném đá để cho Hén bỏ lên 
Sài Gòn, không kịp quyến rũ vợ chưa cưới 
của anh. Sự chuyển dịch dân cư này làm 
cho ai cũng phải lo lắng bởi vì “Tiếng gọi 
của thị thành réo rắt lắm, và gái quê, 
những cô gái nghèo khổ, cực nhọc, cô nào 
cũng có mộng ra thành thị cho sung sướng 
tấm thân” (Nguyễn Q. Thắng, 2012: 382). 
Cả người lớn cũng nhìn thấy “sự hao hớt 
dân làng” bởi những chuyến di dân này. 
Như vậy, với tài quan sát tỉ mỉ và phân tích 
giải thích kỹ càng, Bình Nguyên Lộc đã 
nhìn ra được những thay đổi sinh thái tự 
nhiên khi công cuộc đô thị hóa ngày một 
mạnh mẻ hơn, qua đó gửi gắm suy nghĩ 
của mình trước thời cuộc. 
4. Sự chuyển biến trong quan hệ 
giữa con người với thiên nhiên 
Con người và thiên nhiên là hai thực 
thể luôn gắn bó, hòa quyện với nhau trong 
mối quan hệ phức tạp. Trước khi sinh thái 
học ra đời, nhân loại vẫn cho rằng con 
người là trung tâm của vũ trụ, tự nhiên là 
khách thể để gửi gắm tâm tư tình cảm của 
con người. Nhưng trong văn Bình Nguyên 
Lộc, ta thấy có sự chuyển dịch trong cách 
nhìn nhận mang ý thức sinh thái khá rõ. 
4.1. Ý thức trân trọng, gìn giữ môi 
trường tự nhiên 
Trong truyện ngắn của Bình Nguyên 
Lộc, con người đã sống chan hòa vào thiên 
nhiên, xem thiên nhiên như là người mẹ 
không thể thiếu để khai thác, để tìm nguồn 
sống trong những ngày khai hoang lập địa. 
Người dân vào rừng khai khẩn đất hoang 
để lập ấp lập làng và xem thiên nhiên là 
nguồn sống bất tận. Trong truyện Không 
một tiếng vang, người dân bắt cá dưới sông 
để bán: “Cá sát đánh hơi hèm đổ xô vào 
giỏ cần xế rồi anh bắn tung người lên khỏi 
mặt nước” (Nguyễn Q. Thắng, 2002: 107), 
hay xúc cát ở những cồn nổi, cồn chìm 
dưới lòng sông để kiếm sống. Truyện Bà 
Mọi hú, Rừng mắm cũng cho thấy thiên 
nhiên bạt ngàn rừng núi và mênh mông 
sông nước như là nguồn sống bất tận mà 
con người khai thác để sinh tồn. 
 Sống và dựa vào thiên nhiên, tiêu thụ 
thiên nhiên, tác giả đã xem thiên nhiên là 
một phần tử trong chuỗi thức ăn của các 
sinh vật trong thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, 
trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, 
ta thấy được ý thức trân trọng, giữ gìn tự 
nhiên được thể hiện qua tình cảm và thái 
độ của tác giả ẩn chứa trong tác phẩm. Sự 
xót xa của dân làng khi chứng kiến cảnh 
người dân khai hoang phải đốt cả ngọn núi 
để xua đuổi, vây bắt bà Mọi khi bà ngăn họ 
phá rừng trong truyện Bà Mọi hú. Tác giả 
đã thốt lên: “Tranh sống! Trời ơi! Tranh 
sống ác liệt thay! - Một ông lão lẩm bẩm 
như vậy rồi nước mắt chan hòa”. Họ xót 
xa trước tiếng hú tuyệt vọng của của một 
tộc người sơn cước. Cách tác giả miêu tả 
tiếng hấp hối của bà Mọi, cũng như của 
cánh rừng trước khi bị hủy diệt: “Tiếng hú 
vang rền từng hồi, hấp hối, rồi lại nấc lên 
và rốt cuộc chết dần, tắt hẳn, trong ngọn 
lửa cao ngất trời đã bò lên tới đỉnh” đã 
phần nào nói lên tấm lòng của tác giả đối 
với tự nhiên, nghe “se thắt lòng lại, quặn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 
94 
đau một niềm bất nhẫn” (Nguyễn Q. 
Thắng, 2012: 315). 
Biết trọng thiên nhiên, biết thương tự 
nhiên, đó chính là ý thức trân trọng tự 
nhiên của con người. Trong truyện Mẹ tôi 
tái giá, qua nhân vật Mín, tác giả bày tỏ sự 
phản đối của mình trong việc chặt phá 
rừng xanh để trồng rừng cao su, mặc dù đó 
cũng là rừng, nhưng không phải rừng tự 
nhiên. Mín cũng như những người dân 
khác đã âm thầm phá kế hoạch của tên tây 
Xi – lăng – ba là phá rừng trồng cao su 
hàng loạt nên đã nấu nước sôi bằng cồn, để 
tưới lên những cây cao su mới trồng. Vì 
hơn ai hết, “họ sống nhờ rừng thì họ xem 
rừng như bà mẹ đã nuôi dưỡng họ, và 
quyết bảo vệ rừng sâu” (Nguyễn Q. 
Thắng, 2002: 469), vậy nên Mín và cả dân 
làng hai bên bờ sông không ai bảo nhau 
mà cùng hành động y như nhau. Đó chính 
là sự phản ứng lại của con người trước sự 
chiếm hữu thiên nhiên, của một bộ phận 
tận diệt thiên nhiên. Tác giả đã nhìn thấy 
những khó khăn trong việc ngăn chặn xu 
hướng tàn phá thiên nhiên này, nên cuối 
tác phẩm, nhân vật Mín đã bỏ rừng mà đi. 
Bởi vì, số đông mọi người lúc bấy giờ đều 
nghĩ “luật trời là đàn bà còn trẻ phải tái 
giá”. Mín không tìm được tiếng nói chung, 
hay chính tác giả không đồng tình với việc 
phá rừng hàng loạt: “Rồi Mín ra đi, lòng 
chết lạnh”. Trong truyện Bám víu, Bình 
Nguyên Lộc đã viết về việc hứng cá của bà 
con làng quê để mưu cầu sự sống: “Dân 
quê miền Đông họ nghèo, không có tiền 
mua thịt, mà cá dưới sông bị họ hủy diệt 
bừa bãi thế này, hàng trăm triệu con mỗi 
năm, hủy diệt hồi chúng còn là mầm non 
thôi nên chi rồi họ lại phải nhịn thèm, vì 
đâu còn cá để mà câu?” (Nguyễn Q. 
Thắng, 2012: 367). Qua đó, tác giả đã lên 
tiếng về sự khai thác tận diệt của người 
dân và bày tỏ thái độ không đồng tình của 
mình. Phải chi họ biết dừng lại, thì nguồn 
thức ăn kia sẽ mãi dồi dào cho họ khai 
thác. Hay khi ông trưởng thôn, lão 
Nghiệm, cùng hai người nữa vào rừng tát 
vũng Mẹ Con, ông ta đã đứng nơi vũng đó 
thật lâu, vì “không nỡ để chân xuống đó 
mà phá đám sự yên ổn của loài thủy tộc ẩn 
dật này, mà làm vẩn đục khối nước trong 
leo lẻo mà đạp gãy bao nhiêu thủy thảo 
đẹp như cây cảnh non bộ của nhà giàu” 
(Nguyễn Q. Thắng, 2012: 369). Đây là tấm 
lòng của tác giả trong việc giữ gìn sinh thái 
tự nhiên. Theo quan điểm “nhân loại trung 
tâm luận”, con người luôn đấu tranh để 
chinh phục tự nhiên, xem tự nhiên như là 
tất yếu phải phục vụ con người. Vì vậy, 
trong quá trình khai thác tự nhiên, con 
người luôn đặt lợi ích của mình lên trên 
hết, làm sao càng phá được nhiều rừng, 
chiếm được nhiều đất càng tốt, làm sao để 
đánh được nhiều cá, xúc được nhiều cát 
dưới lòng sông càng tốt. Với sự khai thác 
đó, con người đã vô tình làm lệch chuỗi 
thức ăn, phá vỡ cân bằng sinh thái nguyên 
sinh, ảnh hưởng đến sự hài hòa của sinh 
thái tự nhiên. 
Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc 
phản ánh quá trình con người tác động vào 
tự nhiên và xem đó là điều cần thiết để con 
người định cư và sinh sống trong buổi đầu 
khai hoang lập địa. Nhưng người đọc còn 
thấy được thái độ trân trọng môi trường tự 
nhiên hay sự xót thương thiên nhiên trước 
sự khai thác tận diệt. Đó chính là cảm quan 
sinh thái, ý thức sinh thái của tác giả. 
4.2. Con người trở về với môi trường 
tự nhiên 
Sau tất cả, thiên nhiên vẫn là nơi trú 
ngụ của tâm hồn con người. Trở về tự 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 
95 
nhiên là trở về với đất mẹ, với quê hương, 
nơi tâm hồn con người cảm thấy thanh 
thản và thoải mái hơn cả. Trong truyện 
ngắn của Bình Nguyên Lộc, ta gặp không 
ít chi tiết ra đi và trở về. Con người sau 
những va vấp trong cuộc sống mưu sinh, 
trước những khó khăn không thể giải quyết 
được, đã bỏ làng bỏ xóm để ra đi và tìm về 
với thiên nhiên, bởi vì thiên nhiên luôn mở 
rộng để đón nhận và cứu rỗi tâm hồn họ. 
Bùi An Khương, trong truyện Thèm người, 
vì nối lại tình xưa với Mỹ, người tình cũ 
giờ đã bị chồng phụ, đã bị cha mẹ truất hết 
gia tài. Anh ta luôn sống trong thù ghét vợ 
nên đã dẫn vợ vào bìa rừng để trả thù. Khi 
đứng trước tội ác, đứng trước thú tính của 
mình, Khương rơi vào hoảng loạn, tâm hồn 
tổn thương và điên cuồng không có lối 
thoát, chàng đã chọn cách bỏ lại tất cả. 
Khương đã tìm đến rừng sâu để giải tỏa 
nỗi niềm khi bế tắc, “Khương chạy như 
điên trong rừng cho đến trưa, không biết 
đau vì gai cào rách thịt”. Chính rừng sâu, 
hay thiên nhiên đã giúp con người bình 
tâm mà suy xét lại mọi việc, “chàng quyết 
định trốn luôn, không phải vì sợ sự trừng 
phạt của pháp luật loài người, mà vì chàng 
muốn xa lánh cái xã hội mà nơi đó chàng 
chưa bao giờ gặp hạnh phúc” (Nguyễn Q. 
Thắng, 2002: 362). Nhưng sau nhiều tháng 
sống trong rừng sâu, chàng nhận ra rằng: 
“Không, không thể nào trốn cái xã hội loài 
người được”, vậy nên chàng đã tìm cách 
trở về với đồng loại. Hay trong truyện 
Rung cây dừa, thầy giáo Lâu, vì thất vọng 
về tình yêu, tình người, đã bỏ ra đảo hoang 
để sống, như người tiền sử. Con người khó 
khăn trong cuộc sống, không thể tiếp tục 
sống, mà là bế tắc cùng đường, họ về với 
thiên nhiên, mong tìm được sự yên bình 
trong tâm hồn. Thế nhưng, lại một lần nữa, 
tác giả lại cho con người phải trở về đúng 
với cuộc sống tự nhiên của mỗi người như 
lúc ban đầu. Sau hai mấy năm trời, trải qua 
một trận ốm thập tử nhất sinh, thầy Lâu đã 
nhận ra rằng “tiếng vang của loài người, 
của xã hội văn minh lại kêu réo như tiếng 
còi tàu thỉnh du” (Nguyễn Q. Thắng, 
2012: 146), và rồi thầy cũng trở về nơi bắt 
đầu cuộc sống của mình. 
Như vậy, con người bắt nguồn từ 
những nguyên thủy, những hồn nhiên xưa 
cũ, vì thế, lúc gặp khó khăn đau khổ trong 
cuộc đời, thiên nhiên lại hiện ra như một 
cánh tay mẹ che chở bảo bọc lấy con 
người, cứu rỗi linh hồn họ, ấp iu họ trong 
một thời gian dài như xoa dịu và chữa lành 
vết thương. Sau khi lành lặn vết thương, 
thiên nhiên lại trả con người về cuộc sống 
tự nhiên, như vốn nó là vậy. Qua truyện 
ngắn, Bình Nguyên Lộc đã để cho thiên 
nhiên tràn ngập và hòa quyện vào từng tác 
phẩm, gắn bó mật thiết với đời sống con 
người. Thiên nhiên trở thành trung tâm của 
bức tranh cuộc sống. 
5. Kết luận 
Từ quan niệm “nhân loại trung tâm 
luận” đến quan niệm “sinh thái trung tâm 
luận” là một bước tiến dài của nhân loại 
trong quá trình đấu tranh bảo vệ môi 
trường. Khủng hoảng môi trường toàn cầu 
đã làm cho con người đứng trước những 
nguy cơ sinh thái mà trước hết là sinh thái 
tự nhiên. Phê bình sinh thái là một môn 
khoa học liên ngành, là một khuynh hướng 
phê bình mới được du nhập vào Việt Nam. 
Chủ thể của phê bình sinh thái là văn học 
trong mối quan hệ với môi trường sống. 
Nghiên cứu vấn đề Thiên nhiên trong 
truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc từ góc 
nhìn phê bình sinh thái, chúng tôi dùng lý 
thuyết phê bình sinh thái để đọc lại truyện 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 
96 
ngắn Bình Nguyên Lộc nhằm thấy dấu ấn 
sinh thái trong những tác phẩm ra đời từ 
thời mà lý thuyết phê bình sinh thái chưa 
phổ biến. Đó là những chuyển biến của 
sinh thái tự nhiên như khai khẩn đất mới 
để mưu sinh lập nghiệp, sự lấn sân của đô 
thị ảnh hưởng đến sinh thái tự nhiên. Đó 
còn là những chuyển biến trong quan hệ 
giữa con người với tự nhiên như ý thức 
trân trọng môi trường tự nhiên, hay con 
người trở về với thiên nhiên. Bài nghiên 
cứu này ngoài việc giúp khẳng định giá trị 
của truyện ngắn Bình Nguyên Lộc còn 
giúp thấy được những suy tư trăn trở của 
tác giả khi cuộc sống hiện đại đang xâm 
nhập vào một đất nước nông nghiệp như 
Việt Nam. 
Với việc chỉ ra dấu ấn sinh thái tự 
nhiên trong truyện ngắn của Bình Nguyên 
Lộc, bài viết đã giúp người đọc có thêm 
một hướng nghiên cứu mới khi tiếp cận 
văn học, hướng nghiên cứu lấy sinh thái 
làm trung tâm. Từ đó, hướng con người 
đến một cuộc sống hài hòa với môi sinh, 
tôn trọng thiên nhiên như một sinh mệnh 
sống bên cạnh con người. Bài viết còn 
muốn gửi gắm thông điệp về ý thức bảo vệ 
môi trường, sinh thái trong xã hội hiện đại, 
khi mà môi trường sống đang bị đe dọa 
ngày một nghiêm trọng. 
Tài liệu tham khảo 
Nguyễn Thị Ngọc Ẩn (2001). Sinh thái học 
và môi trường. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb 
Nông nghiệp. 
Nguyễn Văn Đông (2005). Con người và văn 
hóa Nam Bộ trong tác phẩm của Bình 
Nguyên Lộc. Luận văn Thạc sĩ, Trường 
Đại học KHXH và NV, Tp. Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Q. Thắng (Tuyển chọn và giới thiệu) 
(2002). Tuyển tập Bình Nguyên Lộc. Tp. 
Hồ Chí Minh, Nxb Văn học. 
Nguyễn Q. Thắng (2012). Bình Nguyên Lộc 
truyện ngắn. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. 
Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017). Rừng khô suối 
cạn, biển độc, và văn chương. Hà Nội, 
Nxb Khoa học Xã hội. 
Bùi Thanh Truyền (chủ biên) (2018). Phê bình 
sinh thái với văn xuôi Nam Bộ. Tp. Hồ 
Chí Minh, Nxb Văn hóa Văn nghệ. 
Viện Ngôn ngữ học (2002). Từ điển Tiếng Việt 
phổ thông. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Tp. Hồ 
Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfthien_nhien_trong_truyen_ngan_cua_binh_nguyen_loc_tu_goc_nhi.pdf