The Situation of Securities Market Supervision in Vietnam
In order to ensure the transparency and efficiency as well as maintain the stability of the
securities market, a supervision system needs to be established with the goal of detecting,
preventing and handling violations of regulations and laws enacted by the state. In Vietnam, the
State manages the securities market and assigns the securities market supervision task to the State
Securities Commission (SSC). Recently, the SSC has implemented several supervision operations
and obtained certain results. However, it is indicated that the number of violations in securities
markets is tending to increase. Reports on stability and risk identification are not yet available
or clear. Some reasons come from the limitations of the market supervision system. The research
results presented in this paper therefore serve as a basis for the proposal of solutions to strengthen
the supervision system of Vietnam's securities markets so as to achieve targets set for the
coming time.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: The Situation of Securities Market Supervision in Vietnam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 29-39 29 Original Article The Situation of Securities Market Supervision in Vietnam Dao Thi Thu Trang* VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 04 October 2020 Revised 23 February 2021; Accepted 26 February 2021 Abstract: In order to ensure the transparency and efficiency as well as maintain the stability of the securities market, a supervision system needs to be established with the goal of detecting, preventing and handling violations of regulations and laws enacted by the state. In Vietnam, the State manages the securities market and assigns the securities market supervision task to the State Securities Commission (SSC). Recently, the SSC has implemented several supervision operations and obtained certain results. However, it is indicated that the number of violations in securities markets is tending to increase. Reports on stability and risk identification are not yet available or clear. Some reasons come from the limitations of the market supervision system. The research results presented in this paper therefore serve as a basis for the proposal of solutions to strengthen the supervision system of Vietnam's securities markets so as to achieve targets set for the coming time. Keywords: Securities market supervision, violation of the securities market, State Securities Commission, Vietnamese securities market. D* _______ * Corresponding author. E-mail address: daothutrang.pd@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4445 D.T.T. Trang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 29-39 30 Thực trạng hoạt động giám sát thị trường chứng khoán ở Việt Nam Đào Thị Thu Trang* Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 04 tháng 10 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 23 tháng 02 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 02 năm 2021 Tóm tắt: Để đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả cũng như duy trì sự ổn định của thị trường chứng khoán (TTCK), chế độ giám sát cần phải được thiết lập với mục tiêu phát hiện, ngăn ngừa, xử lý việc vi phạm các quy định, pháp luật mà nhà nước ban hành. Ở Việt Nam, Nhà nước quản lý TTCK và giao nhiệm vụ giám sát thị trường cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Thời gian qua, UBCKNN đã triển khai nhiều nghiệp vụ giám sát và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, kết quả giám sát cũng cho thấy số lượng vi phạm trên TTCK có xu hướng tăng, các báo cáo về tính ổn định và nhận diện rủi ro chưa có hoặc chưa rõ ràng. Một số nguyên nhân chính đến từ sự hạn chế của hệ thống giám sát thị trường, do đó kết quả nghiên cứu trình bày trong bài viết này là cơ sở để đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống giám sát TTCK Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong thời gian tới. Từ khóa: Giám sát thị trường chứng khoán, vi phạm thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, thị trường chứng khoán Việt Nam. 1. Đặt vấn đề * Sau hơn 20 năm, TTCK Việt Nam đã có bước phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng, ngày càng trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đóng góp tích cực cho tăng trưởng và hội nhập kinh tế. Thể chế thị trường bậc cao được xây dựng và phát triển phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam đồng thời từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và hội nhập quốc tế; hệ thống khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách phù hợp được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của đất nước, bảo đảm thị trường hoạt động thông suốt, an toàn, công bằng, công khai, minh bạch và hiệu quả. Cũng như các thị trường mới phát triển khác, TTCK chịu ảnh hưởng bởi tình trạng kém minh bạch (thông tin không đầy đủ và kịp thời, khó tiếp cận, hoạt động nội gián, thao túng thị trường,) tạo _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: daothutrang.pd@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4445 nên những biến động thất thường [2]. Để bảo đảm tính minh bạch của TTCK, cần thiết lập chế độ giám sát hiệu quả với mục tiêu phát hiện, ngăn ngừa và xử lý vi phạm các quy định nói chung, quy định về công khai minh bạch nói riêng và duy trì sự ổn định trên TTCK [3]. Chủ thể hoạt động giám sát TTCK Việt Nam được giao cho UBCKNN. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung phân tích thực trạng giám sát TTCK để tìm ra các vấn đề bất cập hiện nay. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Khung phân tích Nghiên cứu dựa trên khung phân tích thực trạng hoạt động giám sát TTCK Việt Nam của UBCKNN. Các số liệu thu thập được để mô tả kết quả giám sát TTCK giai đoạn 2013-2019, từ đó chỉ ra các vấn đề mà TTCK đối mặt cũng như các nguyên nhân gây ra vấn đề đó. Kết quả nghiên cứu là đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống giám sát, góp phần tăng hiệu quả giám sát và duy trì sự ổn định của TTCK Việt Nam. D.T.T. Trang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 29-39 31 2.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu Nghiên cứu được tiếp cận theo phương pháp định tính, sử dụng dữ liệu mô tả để đưa ra các nhận định, phân tích và tìm ra hướng giải quyết vấn đề hiện nay của hệ thống giám sát TTCK ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê mô tả. 2.3. Dữ liệu nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các tài liệu được công bố chính thức bởi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, thống kê thị trường, các công trình nghiên cứu về TTCK Việt Nam và các công bố có giá trị khác. Tuy nhiên, để làm rõ hơn nguyên nhân của các vấn đề mà hoạt động giám sát TTCK Việt Nam phải đối mặt, nghiên cứu thực hiện phỏng vấn 4 chuyên gia trong giai đoạn nghiên cứu. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Thực trạng hoạt động giám sát thị trường chứ ... ự phát triển của thị trường trước ảnh hưởng của hội nhập quốc tế. Đây là nguyên nhân khiến cho nhiều sai phạm chưa được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, gây ảnh hưởng tới tính minh bạch của TTCK. Xuất phát từ việc mô hình giám sát còn chưa được tổ chức chặt chẽ, thực tế công tác giám sát của UBCKNN chủ yếu vẫn dựa vào các báo cáo định kỳ và bất thường, mang tính hành chính của SGDCK. Các vi phạm xử lý cũng chỉ tập trung ở chế độ CBTT, còn những hành vi vi phạm tinh vi hơn như thao túng giá cả, thị trường thì gần như chưa phát hiện được [6]. Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán là một tổ chức tự quản liên quan đến các giao dịch chứng khoán trên TTCK Việt Nam nhưng lại chưa được xác định chức năng nhiệm vụ của một chủ thể giám sát trên thị trường. Hiệp hội cũng chưa thực hiện được chức năng ban hành quy chế tự quản trên cơ sở đồng thuận của các thành viên, các quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giám sát tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường. Phỏng vấn sâu chuyên gia, bà Vũ Thị Chân Phương (UBCKNN) cho rằng “hiện nay TTCK Việt Nam đang được giám sát theo hai cấp là tại SGDCK và UBCKNN. Riêng UBGSTCQG không trực tiếp giám sát và không coi là một D.T.T. Trang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 29-39 37 cấp giám sát. Cần thiết phải bổ sung thêm cấp giám sát thứ ba là công ty chứng khoán. Theo đó, tại công ty chứng khoán, khi cung cấp dịch vụ, phát hiện giao dịch bất thường phải báo cáo SGDCK. Đây là thông lệ quốc tế mà tất cả các nước ASEAN, các nước phát triển, Liên minh Châu Âu áp dụng”. Đây vừa là đánh giá về hạn chế của mô hình giám sát, vừa là gợi ý về giải pháp hoàn thiện hoạt động giám sát để nâng cao tính minh bạch của TTCK. Thứ ba, nội dung giám sát còn khá phân tán: Hoạt động giám sát mới tập trung vào giám sát giao dịch và giám sát CBTT. Các hoạt động giám sát quản trị công ty chưa chặt chẽ và thường xuyên. Hiện nay, nhiều CTNY chưa xây dựng hệ thống quản trị công ty đúng chuẩn mực quy định nhưng không được coi là vấn đề nghiêm trọng phải xử lý ngay trong các báo cáo giám sát. Các báo cáo quản trị công ty để đảm bảo quyền lợi của cổ đông không được yêu cầu bắt buộc. Bộ quy tắc ứng xử và đạo đức trong doanh nghiệp cũng chưa được xây dựng làm căn cứ cho giám sát quản trị công ty. Công tác giám sát tại UBCKNN mới dựa trên các báo cáo định kỳ và bất thường mang tính hành chính của SGDCK và VSD, đồng thời chỉ xử lý những vi phạm đơn giản. Các vi phạm tinh vi thì chậm phát hiện. Kinh phí đầu tư cho giám sát trên TTCK vẫn còn khá hạn chế. Các quy định và thực thi về giám sát CBTT vẫn còn thiếu. Các quy định CBTT các thành viên của hội đồng quản trị, công ty kiểm soát, các cuộc họp cổ đông cũng không được quy định công bố. Hệ thống cơ sở dữ liệu của CTNY khi CBTT còn hạn chế khiến cho các nhà đầu tư khó nghiên cứu để ra quyết định. Các cơ quan chức năng khi giám sát nội dung CBTT cũng ở mức độ đơn giản. Việc giám sát quá trình CBTT của CTNY chưa được rõ ràng và cụ thể, mới thực hiện ở hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung. Theo chuyên gia, TS. Lê Trung Thành: “Hiện nay, TTCK có nhiều vấn đề mới như tăng vốn ảo, sử dụng vốn sai mục đích, báo cáo tài chính không chuẩn xác, Đó là do nội dung giám sát trước đây đã trở nên lỗi thời. Cần thiết phải tăng cường kiểm tra chất lượng báo cáo tài chính và hoạt động kiểm toán, bổ sung các tiêu chí về quản trị công ty, tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng, tỷ lệ trên quy mô đối với điều kiện phát hành, niêm yết chứng khoán, đồng thời tăng cường giám sát các hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn”. Thứ tư, phương thức giám sát chưa hiện đại: Các phương thức giám sát chưa đa dạng, phong phú để kết hợp mang lại hiệu quả cao khi thực thi giám sát TTCK. Hiện nay, phương thức giám sát thông qua cấp phép tham gia thị trường hay xây dựng tiêu chuẩn, điều kiện bắt buộc khi hoạt động trên TTCK đã trở nên đơn giản, cần phải tăng cường các phương thức giám sát mang tính hiện đại hơn. Phần mềm quản lý, giám sát TTCK MSS chưa thay đổi kịp theo sự phát triển của thị trường. Mặc dù phần mềm MSS đã giúp hệ thống giám sát TTCK làm việc hiệu quả hơn nhưng giai đoạn hiện nay, nó cần phải được nâng cấp để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cơ quan quản lý. Với sự phát triển quá nhanh của TTCK kèm theo những vi phạm ngày càng tinh vi hơn, đòi hỏi hệ thống MSS phải được đánh giá, điều chỉnh thường xuyên. Đây cũng là một khó khăn lớn đối với các cơ quan giám sát TTCK Việt Nam. Khi các chủ thể tham gia TTCK đã hiểu được hoạt động của hệ thống MSS thì có thể tìm cách “lách luật” hay thực hiện những vi phạm tinh vi hơn. Do đó, việc cập nhật phần mềm MSS chậm gây ảnh hưởng không tốt tới tính minh bạch của TTCK [4]. Phỏng vấn sâu chuyên gia, ông Phạm Hồng Sơn cho rằng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ 4.0 thì cần nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác giám sát TTCK, chuyển việc giám sát bằng các phần mềm phân tích đánh giá, giám sát qua mạng để nhanh chóng phát hiện ra vấn đề trên TTCK bởi hầu hết các giao dịch hiện nay là trực tuyến”. Thứ năm, quy trình thực hiện và phối hợp giám sát của các cơ quan, đơn vị liên quan, đặc biệt với các tổ chức quốc tế vẫn còn hạn chế. Do các hoạt động trên TTCK liên quan đến nhiều đơn vị trong và ngoài UBCKNN, trong khi đó việc phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chưa tốt nên tiến độ thực hiện một số việc có liên quan chưa được kịp thời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát hiện, xử lý vi D.T.T. Trang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 29-39 38 phạm hoặc việc công khai, minh bạch thông tin trên thị trường. 4. Giải pháp hoàn thiện hoạt động giám sát thị trường chứng khoán Việt Nam 4.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý về giám sát thị trường chứng khoán Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám sát thị trường chứng khoán. UBCKNN cần xây dựng các tiêu chí giám sát để trình Bộ Tài chính và Chính phủ phê duyệt và ban hành như: xây dựng khung pháp lý cho hoạt động của thị trường dành cho các công ty đại chúng chưa niêm yết; quy chế tổ chức, hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ; quy chế tổ chức hoạt động của quỹ đầu tư dạng mở, [5]. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, áp dụng các quy định về việc chào mua công khai, mở nhiều tài khoản giao dịch, mua bán chứng khoán trong cùng phiên giao dịch, giao dịch ký quỹ, xây dựng quy định về quản trị công ty, triển khai việc quản lý tiền giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư tại ngân hàng thương mại; quy trình kiểm soát nội bộ công ty chứng khoán, tăng cường quản lý, giám sát các định chế trung gian, các văn phòng đại diện tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về CBTT. Chính phủ cần bổ sung quy định CBTT về thành viên độc lập, thành viên không điều hành và thành viên điều hành trong phần báo cáo của ban giám đốc khi công bố BCTC. Các quy định pháp luật cần bổ sung CBTT theo phân bảng niêm yết để phù hợp với mô hình tái cấu trúc SGDCK. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện các quy chế an toàn trên TTCK. Hoàn thiện và định kỳ đánh giá lại các quy định về tỷ lệ an toàn tài chính đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán, bảo đảm phù hợp với việc điều chỉnh và phản ánh đầy đủ các rủi ro thực tế trên thị trường. 4.2. Củng cố mô hình giám sát thị trường chứng khoán Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức mô hình giám sát TTCK. SGDCK cần phải được làm rõ nghĩa vụ giám sát của mình cũng như các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán, tránh sự chồng chéo và đảm bảo an toàn cho TTCK. Đặc biệt, hoạt động tự giám sát của các CTNY, công ty đại chúng cũng là một hướng cần được nghiên cứu triển khai. Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giám sát. Các cơ quan quản lý phải đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho họ. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước phải có sự đầu tư về tài chính, cơ chế quản lý, chế độ đãi ngộ cần phải thay đổi theo hướng tiền lương đủ bù đắp sức lao động với cường độ cao của các cán bộ, công nhân viên, đặc biệt cần xây dựng cơ chế thu nhập đặc thù cho đối tượng này, nếu không sẽ xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”. 4.3. Nâng cao hiệu quả nội dung giám sát Thứ nhất, hoàn thiện giám sát quản trị điều hành. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường theo dõi chặt chẽ các thông tin và báo cáo của doanh nghiệp hoạt động trên TTCK. Cần xây dựng bộ quy tắc ứng xử và đạo đức trong công ty, bộ quy tắc này chính là cơ sở để các doanh nghiệp định hướng nhân viên trong ứng xử và hoàn thiện bản thân theo tiêu chí mà doanh nghiệp đề ra. Thứ hai, hoàn thiện giám sát giao dịch. Cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu, dữ liệu giao dịch từ SGDCK và VSD hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế [6]. Cần tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát các trung gian tài chính trên TTCK, bao gồm cả quỹ đầu tư, công ty chứng khoán trong các hoạt động liên quan đến giao dịch chứng khoán. Thứ ba, hoàn thiện giám sát CBTT. Thiết lập cơ chế giám sát thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, giám sát chặt chẽ hoạt động của các thành phần trong TTCK bởi cơ quan giám sát của UBCKNN, SGDCK và các bộ ngành liên quan, các hiệp hội ngành nghề [5]. UBCKNN tăng cường phối hợp trong kiểm tra, giám sát cả công ty kiểm toán lẫn các doanh nghiệp có lợi ích công chúng. SGDCK cần phối hợp với nhiều đơn vị khác theo định kỳ để khai thác lợi thế của các đơn vị này trong giám sát D.T.T. Trang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 29-39 39 việc CBTT ở các CTNY. Cần xây dựng bộ chỉ số minh bạch thông tin đối với CTNY. 4.4. Đổi mới phương thức giám sát Thứ nhất, đa dạng hóa phương thức giám sát. Hiện nay, việc giám sát TTCK của các cơ quan nhà nước cần kết hợp nhiều phương thức để mang lại hiệu quả. Thực hiện giám sát trong ngày gắn với việc giám sát các giao dịch hàng ngày của các chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán nhằm phát hiện các dấu hiện bất thường trên thị trường [2]. Giám sát TTCK trong nhiều ngày dựa trên cơ sở dữ liệu từ các SGDCK, các công ty chứng khoán, CTNY, các tổ chức, nhà đầu tư tham gia TTCK; các bản CBTT của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật và các thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng, tin đồn, Thực hiện kiểm tra tại chỗ, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm và hoàn thiện hệ thống giám sát tự động. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng giám sát TTCK. Xây dựng cơ sở dữ liệu và nâng cấp hệ thống phần mềm giám sát. Hoàn thiện hệ thống CBTT điện tử của công ty đại chúng. UBCKNN và công ty đại chúng cần đồng thời phát triển một hệ thống CBTT số hóa dựa trên nền tảng website hiện tại. 4.5. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát trên thị trường UBCKNN cần căn cứ vào điều kiện, tình hình cụ thể của TTCK Việt Nam để xây dựng lộ trình hợp tác với các TTCK trên thế giới cho phù hợp với chuẩn mực, thông lệ của quốc tế. UBCKNN cần chủ động tham gia vào quá trình đàm phán, thực hiện các thỏa thuận hội nhập có liên quan tới lĩnh vực chứng khoán, nhằm đưa Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức chứng khoán uy tín trên thế giới. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của Tổ chức Quốc tế về Ủy ban Chứng khoán (IOSCO) để quản lý rủi ro. UBCKNN và các SGDCK cần tích cực tìm các dự án hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ thông tin, hệ thống dữ liệu về hoạt động giám sát TTCK từ quốc tế, từ các UBCKNN và SGDCK trên thế giới. 5. Kết luận Trong những năm qua, hệ thống giám sát TTCK của Việt Nam đã luôn mang lại những tác động tích cực cho thị trường nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác giám sát TTCK vẫn còn gặp nhiều hạn chế như các rủi ro hệ thống ngày càng tinh vi, các vi phạm trên TTCK vẫn còn tồn tại và ngày càng tăng, thị trường vẫn còn những bất ổn chưa được giải quyết. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có những giải pháp tác động vào hệ thống giám sát TTCK một cách đồng bộ để nâng cao hiệu quả và cải thiện tính minh bạch của thị trường. Tài liệu tham khảo [1] Ministry of Finance, Circular No. 115/2017/TT-BTC guiding the supervision of securities trading on the stock market, effective from October 25, 2017, Hanoi (in Vietnamese). [2] T.N. Hung, The Role of Financial Supervisory Agencis in Financial Market Development and Policy Recommendations for Vietnam, Banking Academy, Hanoi, 2012 (in Vietnamese). [3] H.D. Long, “Solutions to improve the efficiency of monitoring activities of Vietnam’s stock market”, Ministerial-level scientific research topic 08-UBCK-2001, Inspector of the SSC, 2001 (in Vietnamese). [4] D.T. Phuong, “Improving the efficiency of securities trading supervision on Vietnam’s stock market in the period 2010-2015”, Project on granting code UB.10.07, Market Supervision Department, SSC, 2010 (in Vietnamese). [5] N.P. Thao, “Laws on inspection and supervision of the stock market of the State Securities Commission of Vietnam”, Master of jurisprudence thesis, Faculty of Law, VNU, Hanoi, 2016 (in Vietnamese). [6] L.T. Thanh, “Supervision of securities transactions on Vietnam’s stock market”, Doctoral thesis in economics of National Economics University, 2010 (in Vietnamese). [7] State Securities Commission, News about violations on the stock market from 2013-2019, https://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vip ages_vitintucsukien/thanhtragiamsat?_afrLoop=4 496898213000&_afrWindowMode=0#%40%3F_ afrLoop%3D4496898213000%26_afrWindowMo de%3D0%26_adf.ctrl-state%3D1b6ylj7l7t_91, (accessed 21/12/2020) (in Vietnamese).
File đính kèm:
- the_situation_of_securities_market_supervision_in_vietnam.pdf