The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta

Glossogobius aureus is one of the economy fish species belonging to

the family Gobiidae. Little is known about the fish’ relative gut length

(RGL) and Gastro-somatic index (GI), which are used to determine

the feeding habit and intensity of fish. Therefore, this research aims to

provide additional data about RGL and GI of Glossogobius aureus by

sex, body size, season and sampling location in Me Kong Delta. Fish

samples were collected monthly using gill nets in Cai Rang, Long

Phu, Hoa Binh and Dam Doi from January to December 2020.

Intestinal analysis of 742 fish samples showed that Glossogobius

aureus was a canivore species with RGL = 0.393 < 1. In addition, the

variation of the RGL of this species depended on size, sampling site

and the interaction of both size and season with locations. Meanwhile,

season, interaction between sex with season, size with season, and sex

with location did not affect RGL. The intensity of the female was

similar to that of the male; the intensity of the immature was similar

to that of the mature. Catching intensity was influenced by size and

interaction between season and location; however, it was not

influenced by the interaction between sex and location, size with

location and size with season. The findings can be served for future

culturing study on fish species.

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 1

Trang 1

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 2

Trang 2

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 3

Trang 3

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 4

Trang 4

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 5

Trang 5

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 6

Trang 6

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 3260
Bạn đang xem tài liệu "The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta

The relative gut length and gastro-Somatic index of glossogobius aureus from some provinces in the mekong delta
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 44 Email: jst@tnu.edu.vn 
THE RELATIVE GUT LENGTH AND GASTRO-SOMATIC INDEX OF 
Glossogobius aureus FROM SOME PROVINCES IN THE MEKONG DELTA 
Phan Hoang Gieo1,2, Dinh Minh Quang1*, Truong Trong Ngon1, Nguyen Huu Duc Ton1 
1Can Tho University, 2Kien Giang University 
ARTICLE INFO ABSTRACT 
Received: 19/02/2021 Glossogobius aureus is one of the economy fish species belonging to 
the family Gobiidae. Little is known about the fish’ relative gut length 
(RGL) and Gastro-somatic index (GI), which are used to determine 
the feeding habit and intensity of fish. Therefore, this research aims to 
provide additional data about RGL and GI of Glossogobius aureus by 
sex, body size, season and sampling location in Me Kong Delta. Fish 
samples were collected monthly using gill nets in Cai Rang, Long 
Phu, Hoa Binh and Dam Doi from January to December 2020. 
Intestinal analysis of 742 fish samples showed that Glossogobius 
aureus was a canivore species with RGL = 0.393 < 1. In addition, the 
variation of the RGL of this species depended on size, sampling site 
and the interaction of both size and season with locations. Meanwhile, 
season, interaction between sex with season, size with season, and sex 
with location did not affect RGL. The intensity of the female was 
similar to that of the male; the intensity of the immature was similar 
to that of the mature. Catching intensity was influenced by size and 
interaction between season and location; however, it was not 
influenced by the interaction between sex and location, size with 
location and size with season. The findings can be served for future 
culturing study on fish species. 
Revised: 04/3/2021 
Published: 15/3/2021 
KEYWORDS 
Carnvore 
Glossogobius aureus 
Gastro-somatic index 
Mekong Delta 
Relative gut length 
TẬP TÍNH ĂN VÀ CƯỜNG ĐỘ BẮT MỒI CỦA CÁ BỐNG CÁT TỐI 
Glossogobius aureus PHÂN BỐ Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
Phan Hoàng Giẻo1,2, Đinh Minh Quang1*, Trương Trọng Ngôn1, Nguyễn Hữu Đức Tôn1 
1Trường Đại học Cần Thơ, 2Trường Đại học Kiên Giang 
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT 
Ngày nhận bài: 19/02/2021 Glossogobius aureus là một trong những loài cá có giá trị thương 
phẩm thuộc họ Gobiidae. Có rất ít thông tin về chỉ số sinh trắc ruột 
(RGL) và chỉ số sinh trắc dạ dày (GI), những chỉ số được dùng để xác 
định tính ăn và cường độ bắt mồi của cá. Nghiên cứu này nhằm bổ 
sung thông tin về hai chỉ số RGL và GI của loài Glossogobius aureus 
theo giới tính, kích cỡ, mùa và địa điểm thu mẫu. Mẫu cá được thu 
bằng lưới đáy một lần/tháng tại Cái Răng, Long Phú, Hoà Bình và 
Đầm Dơi từ 01/2020 đến 12/2020. Kết quả phân tích 742 cá thể cho 
thấy Glossogobius aureus thuộc nhóm cá ăn động vật vì có RGL = 
0,393 < 1. Mùa, tương tác giới tính và mùa, giới tính và địa điểm, 
kích thước và mùa không ảnh hưởng đến sự biến động của RGL. 
Cường độ bắt mồi của cá cái tương đồng với cá đực và của nhóm cá 
chưa thành thục tương đồng nhóm cá thành thục. Cường độ bắt mồi 
chịu tác động bởi kích thước, tương tác mùa và địa điểm, nhưng 
không chịu tác động của đồng thời giới tính và địa điểm, kích thước 
và địa điểm, kích thước và mùa. Kích thước cá và tương tác mùa và 
địa điểm ảnh hưởng đến RGL và GI. Kết quả là cơ sở xác định chế độ 
dinh dưỡng cho nghiên cứu nuôi nhân tạo loài này. 
Ngày hoàn thiện: 04/3/2021 
Ngày đăng: 15/3/2021 
TỪ KHÓA 
Cá ăn động vật 
Chỉ số sinh trắc ruột 
Chỉ số sinh trắc dạ dày 
Đồng bằng sông Cửu Long 
Glossogobius aureus 
* Corresponding author. Email: dmquang@ctu.edu.vn 
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 45 Email: jst@tnu.edu.vn 
1. Giới thiệu 
Nguồn lợi thủy sản vùng cửa sông ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đa dạng và 
phong phú; tuy nhiên, trong những năm gần đây nguồn lợi thủy sản trong vùng đang có xu hướng 
giảm dần về sản lượng cũng như thành phần loài [1]-[3]. Cá bống cát tối Glossogobius aureus 
(Gobiidae) là một trong những loài cá phổ biến của vùng này, nhưng số lượng cá thể cá trên mỗi 
mẻ lưới đang có xu hướng giảm về số lượng dựa trên kết quả khảo sát bước đầu của nhóm. Cá 
bống cát tối sống ở cả môi trường nước mặn, nước lợ và nước ngọt [4], [5]. Chúng là một trong 
các loài cá bống có thịt thơm ngon, được nhiều người dân ưa thích và có giá trị kinh tế khá cao 
[6]. Tuy có nhiều giá trị, song đến nay việc nghiên cứu về loài này vẫn còn rất hạn chế, có rất ít 
thông tin về chỉ số sinh trắc ruột (RGL) và chỉ số sinh trắc dạ dày (GI) cũng như sự biến động của 
những chỉ số này theo giới tính, nhóm chiều dài, mùa vụ và điểm thu mẫu. Những chỉ số này 
được dùng để xác định tính ăn và cường độ bắt mồi của cá và khi được làm sáng tỏ sẽ là cở sở 
hữu ích cho việc nghiên cứu thử nghiệm nuôi nhân tạo loài này trong thời gian tới. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Thu và phân tích mẫu 
Mẫu cá bống cát tối Glossogobius aureus được thu tại bốn địa điểm: Cái Răng (Cần Thơ), 
Long Phú (Sóc Trăng), Hoà Bình (Bạc Liêu) và Đầm Dơi (Cà Mau) (Hình 1); được ngư dân ở 
các địa phương thu bằng cách sử dụng lưới đáy với mắt lưới 2a = 1,5 cm. Mẫu cá được thu liên 
tục mỗi tháng một lần vào lúc triều cường, trong suốt 12 tháng của năm 2020. Mẫu được thu liên 
tục 48 giờ với các kích cỡ khác nhau. 
Hình 1. Sơ đồ bốn điểm thu mẫu 
[Địa điểm thu mẫu: 1. Cái Răng (Cần Thơ), 2. Long Phú (Sóc Trăng), 3.Hoà Bình (Bạc Liêu) 
và 4. Đầm Dơi (Cà Mau). Nguồn: Google Map] 
Formol 10% được sử dụng để định hình và bảo quản mẫu ngay khi bắt được tại điểm thu mẫu, 
sau đó vận chuyển về phòng thí nghiệm. Tại đây, khối lượng (W; 0,01 g) và chiều dài (TL; 0,1 
cm) của cá được xác định trước khi giải phẫu lấy ống tiêu hóa để tiếp tục phân tích. 
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 46 Email: jst@tnu.edu.vn 
Tính ăn của cá được xác định thông qua chỉ số sinh trắc ruột (relative gut length, RGL). Cá 
thuộc nhóm ăn động vật khi RGL 3. 
Chỉ số này được xác định dựa vào công thức của Al-Hussaini [7]. 
Cường độ bắt mồi của cá được xác định dựa vào chỉ số sinh trắc dạ dày (Gastro-somatic 
index, GI). Chỉ số này được xác định dựa vào công thức Desai [8]. 
2.2. Xử lý số liệu 
Sự biến động của RGL và GI theo giới tính, nhóm kích thước của cá và mùa vụ được xác định 
bằng t-test. Sự biến động của hai giá trị này theo điểm thu mẫu được xác định bằng phương pháp 
phân tích phương sai một chiều (1-way ANOVA). Sự tác động đồng thời của giới tính × mùa vụ, 
giới tính × địa điểm thu mẫu, nhóm kích thước cá × mùa vụ, nhóm kích thước cá × địa điểm thu 
mẫu và mùa vụ × địa điểm thu mẫu đến sự biến động của RGL và GI bằng phương pháp phân 
tích phương sai hai chiều (2-way ANOVA). Nhóm chiều dài của cá được chia làm hai nhóm 
(thành thục sinh dục và chưa thành thục sinh dục) dựa vào chiều dài thành thục đầu tiên của cá – 
chiều dài tại đó có 50% số cá thể cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn ba theo thang phát triển (tài 
liệu chưa được chính thức công bố). Phần mềm SPSS v.21 được dùng để xử lý kết quả thống kê. 
Tất cả phép thử được xác định ở mức ý nghĩa 0,05. 
3. Kết quả và bàn luận 
3.1. Chỉ số sinh trắc ruột 
Tại bốn địa điểm thu mẫu có tổng cộng 742 (382 con đực và 360 con cái) được thống kê như 
trong Bảng 1. 
Bảng 1. Số lượng cá thu được tại bốn điểm nghiên cứu 
Điểm Giới 1/2020 2/2020 3/2020 4/2020 5/2020 6/2020 7/20200 8/2020 9/2020 10/2020 11/2020 12/2020 Tổng 
Cái 
Răng 
Đực 0 3 12 6 13 8 2 15 8 9 10 7 91 
Cái 0 10 7 4 1 2 12 16 8 1 5 7 73 
Long 
Phú 
Đực 0 4 11 10 6 5 13 13 6 7 9 6 90 
Cái 0 8 3 5 9 15 5 5 7 6 5 9 77 
Hoà 
Bình 
Đực 4 9 4 4 12 6 8 14 8 8 7 11 95 
Cái 9 10 8 6 3 7 9 8 12 8 13 5 98 
Đầm 
Dơi 
Đực 10 10 5 6 7 15 13 7 7 7 11 9 107 
Cái 6 8 13 8 12 10 11 13 8 9 8 6 112 
Kết quả phân tích 742 mẫu cá bống cát tối Glossogobius aureus cho thấy trung bình RGL là 
0,393 ± 0,012 SE. Qua đó có thể thấy đây là loài cá ăn thiên về động vật vì chỉ số sinh trắc ruột 
của loài này < 1. Tương tự loài này, nhiều loài cá khác ở ĐBSCL cũng thuộc nhóm cá thiên về 
ăn động vật như: Glossogobius giuris [9], Glossogobius spasipapillus [10], Butis koilomatodon 
[11], Oxyeleotris urophthalmus [12], Eleotris melanosoma [13], Periophthalmodon schlosseri 
[14] và Periophthalmodon septemradiatus [15], [16]. 
Tính ăn của cá bống cát tối Glossogobius aureus không thay đổi theo giới tính vì RGL ở cá 
đực (0,391 ± 0,010 SE) tương đương với ở cá cái (0,391 ± 0,013 SE, t-test, t = -0,591, p > 0,05). 
Tương tự, tính ăn của loài cá này cũng không thay đổi khi kích thước cá thay đổi. Một số loài cá 
bống ở khu vực ĐBSCL cũng có tính ăn không đổi khi trưởng thành như: Oxyeleotris 
urophthalmus [12] và Parapocryptes serperaster [17]. RGL của cá bống cát tối Glossogobius 
aureus ở mùa khô (0,392 ± 0,047 SE) tương đương ở mùa mưa (0,392 ± 0,036 SE, t = -0,391, p > 
R L 
Chiều dài ruột cá
Chiều dài tổng của cá
Khối lượng của ruột cá
 Khối lượng của cơ thể cá 
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 47 Email: jst@tnu.edu.vn 
0,05 – xem Hình 2), điều này cho thấy tính ăn của chúng cũng không thay đổi theo mùa. RGL tại 
bốn địa điểm thu mẫu có sự khác nhau, thấp nhất là tại khu vực Hoà Bình (0,374 ± 0,010 SE) và 
cao nhất tại Đầm Dơi (0,393 ± 0,011 SE, 1-way ANOVA, F = 2,889, p < 0,05, Hình 3). Kết quả 
cho thấy, các mẫu thu được tại bốn điểm khác nhau về mặt sinh thái (nước ngọt, nước lợ và nước 
mặn) và có sự khác biệt nhau về chỉ số sinh trắc ruột. RGL của loài cá bống cát tối này cũng 
không giống nhau trong 12 tháng nghiên cứu, RGL cao nhất vào tháng 11 (0,433 ± 0,009 SE) và 
thấp nhất vào tháng 12 (0,344 ± 0,011 SE, F = 7,340, p <0,05, Hình 4). Sự khác biệt này có thể 
có mối quan hệ với sự biến động của thành phần thức ăn trong môi trường theo thời gian. Sự thay 
đổi giá trị RGL của loài cá bống cát tối này chịu tác động đồng thời của nhóm chiều dài và địa 
điểm (2-way ANOVA, F = 3,333, p > 0,05) và mùa và địa điểm (F = 0,161, p > 0,05), nhưng 
không chịu sự tác động của đồng thời của chiều dài và mùa (F = 0,401, p > 0,05), giới tính và 
mùa (F = 0,212, p > 0,05) và giới tính và địa điểm (F = 2,868, p < 0,05). 
Hình 2. Chỉ số sinh trắc ruột theo nhóm chiều dài 
(N1: TL chiều dài thành thục đầu tiên; 
Đường đứng: sai số chuẩn; a thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
Hình 3. Chỉ số sinh trắc ruột theo địa điểm 
(CRCT: Cái Răng – Cần Thơ; LPST: Long Phú – Sóc Trăng; HBBL: Hoà Bình- Bạc Liêu; ĐDCM: Đầm 
Dơi - Cà Mau; Đường đứng: sai số chuẩn; a và b thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
Hình 4. Chỉ số sinh trắc ruột biến động theo tháng của năm 2020 
(Đường đứng: sai số chuẩn; a, b, c và d thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 48 Email: jst@tnu.edu.vn 
3.2. Cường độ bắt mồi 
Cường độ bắt mồi (GI) của loài cá bống cát tối Glossogobius aureus trung bình là 
0,020 ± 0,000 SE; giá trị GI ở loài này tương đối thấp so với một số cá loài cùng khu phân bố 
như: Periophthalmodon septemradiatus [18], Parapocryptes serperaster [17], Eleotris 
melanosoma [13]. Ở cá cái có cường độ bắt mồi (0,021 ± 0,000 SE) cao hơn cá đực (0,020 ± 
0,000 SE, t-test, t = 2,412, p < 0,05). Sự khác biệt này có thể do nhu cầu dinh dưỡng cao của cá 
cái trong quá trình phát triển. Cường độ bắt mồi của cá bống cát tối Glossogobius aureus cũng có 
sự biến đổi theo kích thước (t-test, t = -3,791, p < 0,05, Hình 5). Tuy nhiên, cường độ bắt mồi của 
loài cá này ở mùa khô (0,020 ± 0,000 SE) tương đương ở mùa mưa (0,020 ± 0,000 SE, t = -3,792, 
p > 0,05). Vì vậy có thể thấy, lượng mưa và sự thay đổi môi trường ở hai mùa không tác động 
đến cường độ bắt mồi. Một số loài cũng có GI tương đương giữa hai mùa như Eleotris 
melanosoma [13] và Stigmatogobius pleurostigma [19]. Mặc khác, cường độ bắt mồi của cá bống 
cát tối Glossogobius aureus theo không gian cũng có sự thay đổi; GI đạt cao nhất tại Long Phú 
(0,030 ± 0,020 SE) và thấp nhất tại Hòa Bình (0,019 ± 0,020 SE, 1-way ANOVA, F = 2,878, p < 
0,05, Hình 6). Cường độ bắt mồi thay đổi tùy theo sự thay đổi của môi trường. Sự thay đổi hàng 
tháng của cường độ bắt mồi được thấy rất rõ ở loài này do sự khác biệt GI trong 12 tháng nghiên 
cứu, giá trị cao nhất ghi nhận vào tháng 2 (0,030 ± 0,000 SE) và thấp nhất vào tháng 6 (0,020 ± 
0,000 SE, F = 5,793, p < 0,05, Hình 7). Sự thay đổi cường độ bắt mồi giữa các tháng cũng được 
ghi nhận ở loài Parapocryptes serperaster [17]. Ngoài các tác động từ 1 yếu tố đã phân tích, thì 
sự tương tác 2 yếu tố cũng có tác động đến cường độ bắt mồi như địa điểm × mùa (2-way 
ANOVA, F = 3,446, p < 0,05), nhưng lại không chịu tác động bởi giới tính × địa điểm (F = 
2,008, p > 0,05), kích thước × mùa (F = 1,184, p > 0,05), kích thước × địa điểm (F = 1,322, p > 
0,05) và giới tính × mùa (F = 1,688, p > 0,05). 
Hình 5. Cường độ bắt mồi theo nhóm chiều dài 
(N1: TL chiều dài thành thục đầu tiên; số liệu trong mỗi cột là 
số cá thể cá thu được; Đường đứng: sai số chuẩn; a và b thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
Hình 6. Cường độ bắt mồi theo địa điểm 
(CRCT: Cái Răng – Cần Thơ; LPST: Long Phú – Sóc Trăng; HBBL: Hoà Bình- Bạc Liêu; ĐDCM: Đầm 
Dơi - Cà Mau; số liệu trong mỗi cột là số cá thể cá thu được; Đường đứng: sai số chuẩn; a và b thể hiện 
sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 49 Email: jst@tnu.edu.vn 
Hình 7. Sự biến động của cường độ bắt mồi theo tháng của năm 2020 
(Đường đứng: sai số chuẩn; a và b thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
4. Kết luận 
Cá bống cát tối Glossogobius aureus là nhóm cá ăn động vật. Chỉ số sinh trắc ruột của loài cá 
này dao động theo kích thước cá, địa điểm, thời gian, kích thước cá × địa điểm, mùa × địa điểm, 
nhưng không theo mùa, giới tính × mùa, giới tính × địa điểm, kích thước cá × mùa. Cường độ bắt 
mồi của cá cái tương đồng với cá đực, nhóm cá thành thục tương đồng với nhóm cá đã thành 
thục. Cường độ bắt mồi chịu tác động bởi yếu tố kích thước cá và cặp tương tác mùa × địa điểm. 
Tuy nhiên, cường độ bắt mồi không chịu tác động bởi giới tính × địa điểm, kích thước cá × địa 
điểm và kích thước cá × mùa. Kết quả thu được qua nghiên cứu đã bổ sung thêm những dẫn liệu 
khoa học về tính ăn của cá và cường độ bắt mồi; qua đó làm cơ sở cho những công trình nghiên 
cứu khoa học kế tiếp về nuôi nhân tạo cho loài cá bống cát tối Glossogobius aureus. 
Lời cám ơn 
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hỗ trợ kinh phí cho đề tài này 
(B2020-TCT-13), Nguyễn Thị Thúy Hiền và Trần Chí Cảnh đã hỗ trợ thu và phân tích mẫu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1] A. T. Diep, Q. M. Dinh, and D. D. Tran, "Species composition of gobiidae distributed in the coastal 
areas, Soc Trang Province," VNU Journal of Sciences: Natural Sciences and Technology, vol. 30, pp. 
68-76, 2014. 
[2] D. D. Tran, T. V. Nguyen, T. M. H. To, T. T. Nguyen, and Q. M. Dinh, "Species composition and 
biodiversity index of gobiid assemblage in estuarine areas of the Mekong Delta, Vietnam," Egyptian 
Journal of Aquatic Biology and Fisheries, vol. 24, pp. 931-941, 2020, doi: 
10.21608/ejabf.2020.131385. 
[3] Q. M. Dinh, Y. T. N. Nguyen, T. H. Dang, N. S. Tran, and T. T. H. Lam, "The impact of human 
activities on the biodiversity of fish species composition in rice paddy field in An Giang Province, 
Southern Vietnam," Egyptian Journal of Aquatic Biology and Fisheries, vol. 24, pp. 107-120, 2020, 
doi: 10.21608/EJABF.2020.78889 
[4] D. D. Tran, K. Shibukawa, T. P. Nguyen, P. H. Ha, X. L. Tran, V. H. Mai, and K. Utsugi, Fishes of 
Mekong Delta, Vietnam. Can Tho University Publisher, Can Tho, 2013. 
[5] P. Akihito and K. Meguro, "Description of a new gobiid fish, Glossogobius aureus, with notes on 
related species of the genus," Japanese Journal of Ichthyology, vol. 22, pp. 127-142, 1975. 
[6] M. T. Nguyen, T. N. L. Huynh, T. P. Nguyen, and D. D. Tran, "Some reproductive biological 
characteristics of the Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975 distributed in Ben Tre coastal 
areas," Can Tho University Journal of Science, vol. 2, pp. 169-176, 2014. 
TNU Journal of Science and Technology 226(05): 44 - 50 
 50 Email: jst@tnu.edu.vn 
[7] A. H. Al-Hussaini, "The feeding habits and the morphology of the alimentary tract of some teleosts 
living in the neighbourhood of the Marine Biological Station, Ghardaqa, Red Sea," Publications of the 
Marine Biology Station Ghardaga (Red Sea), vol. 5, pp. 1-61, 1947. 
[8] V. R. Desai, "Studies on fishery and biology of Tor tor (Hamilton) from river Narmada. I. Food and 
feeding habits," Journal of the Inland Fisheries Society of India, vol. 2, pp. 101-112, 1970. 
[9] X. T. M. Pham, The composition of the goby species of Gobiidea and Eleotridae and some biological 
characteristics of the tanks goby Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) in Can Tho, MS thesis, Can 
Tho University, 2012. 
[10] T. K. Tran, Composition of goby (Gobiidae and Eleotridae) and some biological characteristics of 
Glossogobius sparsipapillus Akihito and Meguro, 1796 distributed in coastal areas of Thanh Phu 
district, Ben Tre province., MS thesis, Can Tho University, 2013. 
[11] Y. T. N. Nguyen, T. T. H. Lam, and Q. M. Dinh, "The relative gut length and gastro-somatic indexes 
of Butis koilomatodon living in the coastal estuaries of some provinces in the Mekong Delta," TNU 
Journal of Science and Technology, vol. 225, no. 8, pp. 358-365, 2020. 
[12] T. T. Vo, D. D. Tran, and O. H. T. Duong, "Study on nutritional characteristics of broadhead sleeper 
(Eleotris melanosoma Bleeker, 1853) distributed along the Hau river," The 2nd national conference on 
marine biology and sustainable development, Science and Technics Publishing House, 2014, pp. 507-514. 
[13] Q. M. Dinh, D. T. Nguyen, and S. Danh, "Food and feeding habits of the broadheah sleeper Eleotris 
melanosoma from coastline in Soc Trang," Proceedings of the 7th National Scientific Conference on 
Ecology and Biological Resources, Publishing House for Science and Technology, 2017, pp. 1873-
1879. 
[14] T. L. Tran, D. H. Hoang, and Q. M. Dinh, "Digestive tract morphology, food composition and feeding 
habits of the giant mudskipper Periophthalmodon schlosseri (Pallas, 1770) from the coastline in Tran 
De, Soc Trang," VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, vol. 35, pp. 30-38, 2019, 
doi: 10.25073/2588-1140/vnunst.4871. 
[15] Q. M. Dinh, L. T. Tran, T. M. T. Tran, K. D. To, T. T. K. Nguyen, and D. D. Tran, "Variation in diet 
composition of the mudskipper Periophthalmodon septemradiatus from Hau River, Vietnam," Bulletin 
of Marine Science, vol. 96, pp. 487-500, 2020, doi: 10.5343/bms.2018.0067. 
[16] Q. M. Dinh, T. L. Tran, and T. K. T. Nguyen, "The relative gut length and gastro-somatic indices of 
the mudskipper Periophthalmodon septemradiatus (Hamilton, 1822) from the Hau River," VNU 
Journal of Science: Natural Sciences and Technology, vol. 34, pp. 75-83, 2018, doi: 10.25073/2588-
1140/vnunst.4775. 
[17] Q. M. Dinh, J. G. Qin, S. Dittmann, and D. D. Tran, "Seasonal variation of food and feeding in 
burrowing goby Parapocryptes serperaster (Gobiidae) at different body sizes," Ichthyological 
Research, vol. 64, pp. 179-189, 2017, doi: 10.1007/s10228-016-0553-4. 
[18] Q. M. Dinh, "Aspects of reproductive biology of the red goby Trypauchen vagina (Gobiidae) from the 
Mekong Delta," Journal of Applied Ichthyology, vol. 34, pp. 103-110, doi: 10.1111/jai.13521. 
[19] Q. M. Dinh and M. T. D. Tran, "Digestive tract morphology, food and feeding habits of the goby 
Stigmatogobius pleurostigma (Bleeker, 1849) from the Coastline in Soc Trang," VNU Journal of 
Science: Natural Sciences and Technology, vol. 34, pp. 46-55, 2018, doi: 10.25073/2588-
1140/vnunst.4740. 

File đính kèm:

  • pdfthe_relative_gut_length_and_gastro_somatic_index_of_glossogo.pdf