Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa

Nghiên cứu này áp dụng khung lý thuyết của Kaplinsky và Morris (2001) để

phân tích chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông

qua phỏng vấn trực tiếp 17 ngư dân, 4 nậu vựa, 4 người bán buôn, 5 người bán lẻ và 3 công

ty chế biến ở tỉnh Khánh Hòa trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến 11 năm 2018. Kết quả

nghiên cứu chỉ ra rằng, ngư dân có mức thu nhập thấp nhất trong chuỗi. Bên cạnh đó, một số

nút thắt trong phát triển chuỗi được tìm thấy gồm: vấn đề đáp ứng quy định về chất lượng và

an toàn vệ sinh thực phẩm; vấn đề truy xuất nguồn gốc; và vấn đề trách nhiệm xã hội tại thị

trường nước ngoài. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ các nút thắt

trong phát triển chuỗi cá ngừ sọc dưa tỉnh Khánh Hòa trong thời gian tới

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 1

Trang 1

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 2

Trang 2

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 3

Trang 3

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 4

Trang 4

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 5

Trang 5

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 6

Trang 6

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 7

Trang 7

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 8

Trang 8

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 9

Trang 9

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang minhkhanh 3780
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa

Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 3
Nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa
Trần Thùy Chi
Nguyễn Thị Trâm Anh
Trần Quốc Bảo
Nguyễn Thị Kim Anh
Trường Đại học Nha Trang
Email liên hệ: chitt @ntu.edu.vn
Tóm tắt: Nghiên cứu này áp dụng khung lý thuyết của Kaplinsky và Morris (2001) để 
phân tích chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông 
qua phỏng vấn trực tiếp 17 ngư dân, 4 nậu vựa, 4 người bán buôn, 5 người bán lẻ và 3 công 
ty chế biến ở tỉnh Khánh Hòa trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến 11 năm 2018. Kết quả 
nghiên cứu chỉ ra rằng, ngư dân có mức thu nhập thấp nhất trong chuỗi. Bên cạnh đó, một số 
nút thắt trong phát triển chuỗi được tìm thấy gồm: vấn đề đáp ứng quy định về chất lượng và 
an toàn vệ sinh thực phẩm; vấn đề truy xuất nguồn gốc; và vấn đề trách nhiệm xã hội tại thị 
trường nước ngoài. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ các nút thắt 
trong phát triển chuỗi cá ngừ sọc dưa tỉnh Khánh Hòa trong thời gian tới. 
Từ khóa: chuỗi giá trị, cá ngừ sọc dưa, Khánh Hòa
A value chain analysis of skipjack tuna in Khanh Hoa province
Abstract: This research uses the theoretical framework by Kaplinsky and Morris (2001) 
to analyze the value chain of skipjack tuna in Khanh Hoa province. Primary data was collected 
by interviewing 17 fishermen, 4 intermediaries (nậu vựa), 4 wholesalers, 5 retailers, and 3 tuna 
processing enterprises in Khanh Hoa from September to November, 2018. The results indicate 
that fishermen have the lowest income in the chain. Furthermore, a number of bottlenecks 
in the chain are identified including levels of satisfying requirements of product quality and 
its safety/ hygiene, traceability, as well as social responsibility in foreign markets. Based on 
the results, this paper proposes various solutions and some suggestions in order to eliminate 
these bottlenecks, promoting the skipjack tuna chain in the following years.
Keywords: value chain, skipjack tuna, Khanh Hoa
Ngày nhận bài: 30/07/2020 Ngày duyệt đăng: 10/02/2021
1. Đặt vấn đề
Cá ngừ là một trong ba mặt hàng thủy sản có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt 
Nam, đứng sau tôm và cá tra. Năm 2019, giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đạt 719 triệu 
USD, trong đó các thị trường nhập khẩu lớn là Mỹ (316 triệu USD), EU (140 triệu USD), ASEAN 
(54 triệu USD) và Israel (38 triệu USD) (Nguyễn Hà, 2020). Các loại sản phẩm cá ngừ được xuất 
khẩu ra thị trường nước ngoài gồm cá ngừ mã HS03 chiếm 53,1% và cá ngừ mã HS16 chiếm 
46,9% (VASEP, 2019).
4 Trần Thùy Chi, Nguyễn Thị Trâm Anh, Trần Quốc Bảo, Nguyễn Thị Kim Anh
Các chủng loại cá ngừ được đánh bắt ở Việt Nam bao gồm: cá ngừ vây vàng (yellow fin 
tuna), cá ngừ mắt to (big eye tuna), cá ngừ sọc dưa hay cá ngừ vằn (skipjack tuna). Cá ngừ hiện 
nay được đánh bắt chủ yếu tại ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Định. Ngoài ra, Việt Nam 
cũng nhập khẩu cá ngừ nguyên liệu từ nước ngoài. Các nguồn cung cá ngừ cho Việt Nam hiện 
nay là Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Nhật Bản, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia, Philipine, 
Papua New Guinea.
Tỉnh Khánh Hòa có gần 200 tàu hoạt động nghề lưới rê và nghề vây đánh bắt cá ngừ 
sọc dưa ở các ngư trường chủ yếu như vùng biển Trường Sa, nhà giàn DK1 với sản lượng hàng 
năm trên 40.000 tấn (Sở NN và PTNN tỉnh Khánh Hòa, 2017). Bảng 1 cho thấy, sản lượng khai 
thác cá ngừ sọc dưa của tỉnh có xu hướng tăng trong giai đoạn này và chủ yếu là từ nghề rê. 
Riêng năm 2017, sản lượng cá ngừ sọc dưa của tỉnh đạt mức 16.373 tấn. 
Bảng 1. Sản lượng khai thác nghề vây và nghề rê tại tỉnh Khánh Hòa 
giai đoạn 2014 - 2017
 ĐVT: tấn
NGHỀ 2014 2015 2016 2017
NGHỀ VÂY
Cá ngừ mắt to 32 38 103
Cá ngừ vây vàng 72 88 293
Cá ngừ sọc dưa 1.716 2.417 2.550 2.105
Loại khác 540 736 786 603
Tổng số 2.256 3.257 3.462 3.104
NGHỀ RÊ
Cá ngừ mắt to 12 
Cá ngừ vây vàng 41 
Cá ngừ sọc dưa 12.904 15.810 14.582 14.268
Cờ gòn 1.153 1.594 1.599 1.258
Loại khác 528 1.290 1.523 1.100
Tổng số 14.638 18.694 17.704 16.626
(Nguồn: Sở NN và PTNNT Khánh Hòa, 2017)
Trong chính sách phát triển ngành thủy sản, tỉnh Khánh Hòa xác định nghề lưới rê và 
cá ngừ là ngành - sản phẩm trọng điểm cần phát triển đối với hoạt động đánh bắt xa bờ. Một 
trong những giải pháp được đề xuất là hình thành các chuỗi liên kết trong ngành, đảm bảo lợi 
ích cho ngư dân để họ yên tâm bám biển, cho doanh nghiệp chế biến mở rộng thị trường tiêu 
thụ và xây dựng thương hiệu cho ngành cá ngừ địa phương. Tuy nhiên, một số nghiên cứu 
cũng chỉ ra rằng, ngư dân là một trong những tác nhân đóng góp giá trị gia tăng cho chuỗi 
nhiều nhất nhưng lợi ích nhận được lại thấp hơn so với những tác nhân khác trong chuỗi giá 
trị (Đặng Thị Phượng và cộng sự, 2018; Nguyễn Ngọc Duy và cộng sự, 2014; Tô Phạm Thị Hạ 
Vân và Trường Hoàng Minh, 2014). Vì vậy, nghiên cứu này tiếp cận khung phân tích chuỗi giá 
trị nhằm phân tích rõ các mắt xích và hoạt động của từng mắt xích tham gia chuỗi giá trị cá 
ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa thông qua vẽ sơ đồ chuỗi. Tiếp đó, nghiên cứu phân tích kinh 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 5
tế chuỗi giá trị nhằm xác định sự đóng góp của từng mắt xích đối với giá trị gia tăng của toàn 
chuỗi và sự phân bổ thu nhập giữa các tác nhân. Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhận diện các nút 
thắt trong phát triển chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa của tỉnh. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất 
một số giải pháp nhằm phát triển chuỗi.
2. Một số vấn đề lý luận về chuỗi giá trị
Trong các nghiên cứu thực tiễn liên quan đến chuỗi giá trị, hai khung lý thuyết được áp 
dụng phổ biến là của Michael Porter (1990) và Kaplinsky và Morris (2001). Lý thuyết về chuỗi 
giá trị của Michael Porter phù hợp trong phân tích ở cấp độ vi mô (cấp độ doanh nghiệp). 
Trong khi đó, khung lý thuyết của Kaplinsky và Morris (2001) thường được áp dụng trong 
phân tích cấp độ vĩ mô (ngành, quốc gia, toàn cầu). Cách tiếp cận theo chuỗ ... iá trị gia 
tăng của các công ty chế biến xuất khẩu còn thấp, điều này làm ảnh hưởng đến thu nhập của 
toàn chuỗi, trong đó có cả thu nhập của ngư dân. Theo kết quả điều tra, các công ty chế biến 
trong tỉnh Khánh Hòa chủ yếu xuất khẩu sản phẩm cá đông lạnh nguyên con với tỷ trọng 60% 
- 70%, sản phẩm loin từ 10% - 20%. 
Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng sản phẩm: nghiên cứu này chưa tiếp cận 
được nguồn số liệu thống kê chính thức liên quan đến cá ngừ sọc dưa của tỉnh Khánh Hòa bị 
thị trường nước ngoài cảnh báo, từ chối tại biên giới hoặc trả về. Tuy nhiên, tình trạng hàng 
bị cảnh báo, từ chối tại biên giới hoặc bị thị trường nước ngoài trả về đối với mặt hàng cá ngừ 
Việt Nam nói chung vẫn tiếp diễn. Theo số liệu của Hệ thống cảnh báo nhanh đối với mặt 
hàng thực phẩm của Liên minh châu Âu (EURASFF), nguyên nhân vi phạm đối với sản phẩm cá 
ngừ chủ yếu liên quan đến histamine vượt ngưỡng cho phép. Histamine là một loại acid amin 
sinh học có thể gây dị ứng hoặc ngộ độc cho người tiêu dùng và histamine được hình thành 
nếu quá trình bảo quản thực phẩm không tốt. Theo kết quả khảo sát, ngư dân bảo quản cá 
bằng cách ướp đá trong từng xô sau khi đã rửa sơ rồi bỏ vào hầm lạnh. Để nâng cao năng suất 
một chuyến biển, ngư dân đánh bắt nhiều loại cá hoặc khai thác với số lượng cá nhiều hơn sức 
chứa quy định nên nhiệt độ trong hầm không đảm bảo, tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển 
ảnh hưởng tới chất lượng của cá ngừ. Nhiệt kế trên tàu hầu như không có hoặc đã cũ, không 
hoạt động và sổ nhật ký để truy xuất nguồn gốc không được ghi chép đúng thực tế. Trong khi 
đó, các công ty chế biến cho biết các thị trường nước ngoài đều có quy định về chất lượng, an 
toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là thị trường EU, Nhật Bản với các quy định rất khắt khe và 
hướng tới việc kiểm soát tốt chất lượng sản phẩm xuyên suốt trong chuỗi cung ứng. Như đã 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 11
phân tích ở trên, công ty chế biến không thể tiến hành thu mua cá trực tiếp từ ngư dân vì sẽ 
phát sinh chi phí cao và đòi hỏi nhiều nguồn lực (con người, thời gian). Trên thực tế, công ty 
chế biến tiến hành thu mua số lượng lớn cá ngừ từ nậu vựa. Do đó, công ty chế biến nêu rõ các 
quy định của thị trường nước ngoài liên quan đến chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm 
cho nậu vựa để nậu vựa nắm rõ khi tiến hành thu mua và bảo quản sản phẩm phù hợp từ ngư 
dân. Theo tập quán, nậu vựa tiến hành thu mua cá từ ngư dân theo phương thức mua xô, tức 
là mua cả cá chất lượng tốt và cá chất lượng thấp. Sau đó, nậu vựa tiến hành thực hiện việc 
phân loại cá, họ sẽ bán cá có chất lượng tốt cho công ty chế biến, bán cá có chất lượng thấp 
hơn ra cho thị trường nội địa. Tiếp theo, tại các nhà máy của công ty chế biến, chất lượng sản 
phẩm được kiểm tra trong quy trình sản xuất dựa trên tiêu chuẩn HACCP, được kiểm tra liên 
tục từ khâu đầu vào tới các khâu trung gian và thành phẩm sau cùng. Ở mỗi giai đoạn đều có 
bước kiểm tra phát hiện lỗi và khắc phục lỗi tại chỗ. Tuy nhiên, việc kiểm tra trên chỉ dựa trên 
mẫu nên không thể phát hiện triệt để các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm. Như vậy, một 
cơ chế hợp tác chặt chẽ hơn giữa ngư dân, nậu vựa và công ty chế biến là rất cần thiết để đáp 
ứng các yêu cầu của thị trường nước ngoài trong việc kiểm soát tốt sản phẩm từ giai đoạn khai 
thác đến giai đoạn cuối cùng. 
Đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và trách nhiệm xã hội: EU là một trong những thị 
trường nhập khẩu cá ngừ lớn của Việt Nam. Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên 
minh Châu Âu (EVFTA) có hiệu lực vào 1/8/2020. Tuy nhiên, vấn đề thẻ vàng của EU đối với các 
sản phẩm thủy sản khai thác của Việt Nam liên quan đến Quy định về chống đánh bắt hải sản 
bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) vẫn chưa được gỡ bỏ. Quy định 
của IUU nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ các hoạt động khai thác thủy sản bất hợp 
pháp, không báo cáo và không theo quy định. Theo đó, các công ty chế biến của tỉnh muốn 
đáp ứng được yêu cầu này cần phải thực hiện thu mua hải sản từ tàu cá khai thác hợp pháp, 
có nguồn gốc xuất xứ, khai thác có giấy phép, có nhật ký, không khai thác bằng ngư cụ bị cấm 
và đánh bắt bất hợp pháp ở ngư trường nước ngoài. Theo VASEP, từ khi EU ra thẻ vàng đối với 
thủy sản Việt Nam khiến lượng hải sản nhập khẩu vào thị trường này bị sụt giảm. Cụ thể, EU 
là thị trường tiêu thụ thủy sản số 1, đạt giá trị 1,46 tỷ USD tháng 01/2017, nhưng thị trường 
này đã rơi xuống vị trí thứ 4 với mức kim ngạch 584 triệu USD vào tháng 6/2018 của Việt Nam 
(Thanh Niên, 2018). Do đó, hoạt động xuất khẩu hải sản khai thác của Việt Nam nói chung, 
cá ngừ sọc dưa của tỉnh nói riêng vào thị trường EU vẫn gặp khó khăn. Thêm vào đó, các nội 
dung cam kết liên quan đến khai thác bền vững, có trách nhiệm của hiệp định này được đánh 
giá là rất cao. Đây có thể là một thách thức đối với khả năng cạnh tranh của chuỗi ở các thị 
trường nghiêm ngặt như EU.
5. Kết luận và giải pháp phát triển chuỗi cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh Hòa
5.1 Kết luận
Chuỗi giá trị là cách tiếp cận hữu ích nhằm giúp các nhà làm chính sách cũng như các 
bên liên quan hiểu rõ được giá trị của sản phẩm được tạo nên từ chuỗi các hoạt động bắt đầu 
từ giai đoạn ý tưởng thiết kế đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Bài viết 
này đã vận dụng cách tiếp cận chuỗi cho trường hợp sản phẩm cá ngừ sọc dưa tại tỉnh Khánh 
Hòa và thực hiện điều tra khảo sát nhằm hiểu rõ đặc điểm của chuỗi này. Theo kết quả khảo 
sát, các hoạt động và tác nhân chính tham gia chuỗi giá trị cá ngừ sọc dựa của tỉnh Khánh Hòa 
khi xuất khẩu vào thị trường nước ngoài lần lượt: khai thác (ngư dân), thu mua (nậu vựa), chế 
biến (công ty chế biến) và tiêu thụ (người tiêu dùng nước ngoài). Trong chuỗi giá trị, các công 
12 Trần Thùy Chi, Nguyễn Thị Trâm Anh, Trần Quốc Bảo, Nguyễn Thị Kim Anh
ty chế biến đóng góp tỷ lệ giá trị gia tăng và có mức thu nhập cao nhất; ngược lại, ngư dân 
lại có tỷ lệ đóng góp giá trị gia tăng và mức thu nhập thấp nhất. Thêm vào đó, kết quả nghiên 
cứu cũng chỉ ra một số các hạn chế của chuỗi này trong việc chưa đáp ứng tốt các quy định về 
chất lượng sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm hoặc quy định về truy xuất nguồn gốc và 
trách nhiệm xã hội của thị trường nhập khẩu. 
5.2. Giải pháp
Một số giải pháp được đề xuất nhằm tháo gỡ các nút thắt trong chuỗi cá ngừ sọc dưa 
của tỉnh Khánh Hòa trên như sau:
Thứ nhất, thực hiện các liên kết dọc và liên kết ngang giữa các tác nhân trong chuỗi theo 
như hình 2 phía dưới. Cụ thể, đối với liên kết ngang, các chủ tàu liên kết và hình thành các tổ 
hợp tác. Sự hợp tác này sẽ tạo ra sức mạnh số đông, số lớn cho ngư dân. Từ đó, sự hợp tác này 
kỳ vọng sẽ góp phần gia tăng quyền lực và tiếng nói của ngư dân với các tác nhân khác như 
nậu vựa và công ty chế biến trong quá trình thương lượng về giá và các lợi ích khác. Hơn nữa, 
sự hợp tác này còn giúp ngư dân có thể trao đổi thông tin thị trường, quy định của nhà nước, 
học hỏi kỹ thuật đánh bắt giữa các thành viên trong tổ, Các nậu vựa liên kết ngang với nhau 
thành một tổ chức, có thể được gọi là Hiệp hội nậu vựa, để gia tăng khả năng chủ động được 
nguồn cung lớn đáp ứng nhu cầu của công ty chế biến. Đối với liên kết dọc, hình thành các 
liên kết giữa tổ hợp tác, hiệp hội nậu vựa và công ty chế biến trên cơ sở hợp đồng, trong đó 
công ty chế biến đóng vai trò là hạt nhân. Hợp đồng sau khi đã ký kết là cơ sở pháp lý để gắn 
trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa người ngư dân, 
nậu vựa và công ty chế biến thủy sản xuất khẩu. Trong hợp đồng giữa các tác nhân cần thiết có 
những ràng buộc cam kết hợp tác với nhau thực hiện thống nhất về giá cả, bảo quản cá đảm 
bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu đánh bắt đến khâu thu mua, phân phối và 
chế biến sản phẩm và thực hiện truy xuất nguồn gốc. Như vậy, mô hình hợp tác này được kỳ 
vọng hướng đến việc đảm bảo lợi ích cho từng tác nhân cũng như xây dựng mối liên kết chặt 
chẽ giữa các tác nhân trong chuỗi nhằm đáp ứng tốt các quy định và yêu cầu của thị trường.
Hình 2. Mô hình liên kết dọc và ngang đề xuất
(Nguồn: Trần Thùy Chi và cộng sự, 2021)
Thứ hai, hình thành chợ hoặc sàn đấu giá cá ngừ sọc dưa tại các cảng cá, bến cá. Điều 
này phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ như tại Nhật Bản, các chợ và sàn đấu giá cá ngừ đã 
được hình thành lâu đời và hoạt động hiệu quả như chợ Toyosu, chợ Tsukiji. Chợ hoặc sàn đấu 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 13
giá sẽ là nơi tập trung nhiều người mua và người bán, giá cả sẽ được xác lập công bằng dựa 
trên các nguyên tắc của thị trường. Hơn nữa, tại chợ đấu giá, một hệ thống tiêu chuẩn phân 
loại cá thống nhất được ban hành, công khai và thống nhất. Điều này sẽ tránh trường hợp 
việc thu mua cá hoàn toàn dựa vào cảm quan, không có căn cứ, không có chuẩn mực xác định 
chất lượng của cá. Bên cạnh đó, chợ đấu giá không giới hạn đối với thương nhân nước ngoài 
muốn thu mua cá nhằm tạo ra một lượng người mua lớn, tránh việc độc quyền thu mua chỉ 
tập trung vào một số nậu vựa. 
Thứ ba, hoàn thiện chuỗi cung ứng lạnh (Cold chain) đối với sản phẩm cá ngừ nói riêng, 
mặt hàng nông lâm thủy sản nói chung của tỉnh. Chuỗi cung ứng lạnh được hiểu là chuỗi 
cung ứng có khả năng kiểm soát và duy trì nhiệt độ thích hợp với hàng hóa có yêu cầu bảo 
quản lạnh, nhằm bảo đảm kéo dài tuổi thọ cho mặt hàng nhạy cảm với nhiệt độ như cá ngừ. 
Sản phẩm cá ngừ thường đòi hỏi bảo quản ở mức dưới -18oC. Về cấu trúc, các chuỗi cung ứng 
lạnh bao gồm hai hệ thống logistics cơ bản là (1) mạng lưới kho lạnh và (2) hệ thống vận tải 
lạnh (như xe tải, container lạnh, các thiết bị chuyên dụng cho hoạt động vận chuyển, giao 
nhận kiểm tra, duy trì nhiệt độ lạnh cần thiết). Chuỗi cung ứng lạnh sẽ cung cấp các khoảng 
nhiệt độ thích hợp với sản phẩm ở các tiêu chuẩn nhiệt độ: đông lạnh sâu (Deep frozen) từ 
-280C đến -300C, đông lạnh (Frozen) từ -160C đến -200C, lạnh (Chiller) từ 20C đến 40C (Vietnam 
Logistics Review). Vì vậy, lợi ích của chuỗi cung ứng lạnh đối với ngành cá ngừ hướng đến việc 
giảm tổn thất sau thu hoạch và trong quá trình phân phối vì ngành thủy sản có tỷ lệ thất thoát 
sau nuôi trồng, khai thác tương đối cao ở mức 20 - 30% tổng sản lượng (Vietnam Logistics 
Review). Thêm vào đó, một chuỗi cung ứng cá ngừ lạnh hoàn thiện còn góp phần đáp ứng các 
yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường trong nước và nước ngoài, nhất là những 
thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU.
5.3. Khuyến nghị
Nghiên cứu cũng đề xuất thêm một số khuyến nghị nhằm gia tăng tính hiệu quả và bền 
vững của quá trình tháo gỡ nút thắt theo các giải pháp được đề cập phía trên:
Trước mắt, tất cả các tác nhân trong chuỗi và tác nhân có khả năng ảnh hưởng tới chuỗi 
như Chính phủ, chính quyền địa phương, Hiệp hội ưu tiên thực hiện tốt 5 khuyến nghị của EU 
để dỡ bỏ thẻ vàng đối với hải sản khai thác. Bên cạnh đó, Tổng cục Thủy sản cần nhanh chóng 
xây dựng bộ tiêu chí thống nhất trong phân loại chất lượng cá ngừ để loại bỏ việc đánh giá 
dựa trên cảm quan, không rõ ràng, thiếu minh bạch. Bộ tiêu chí này sẽ là cơ sở pháp lý quan 
trọng trong việc thống nhất chất lượng cá ngừ khi sàn hoặc chợ đấu giá đi vào hoạt động. 
Về lâu dài, việc thực hành trách nhiệm xã hội trong chuỗi cần được nhận thức và thúc 
đẩy. Mặt khác, các công ty chế biến cần hướng đến chiến lược cạnh tranh về chất lượng, 
thương hiệu thay vì cạnh tranh về giá để gia tăng khả năng cạnh tranh của chuỗi. 
Tài liệu tham khảo
Đặng Thị Phượng, Nguyễn Hoàng Duy, Nguyễn Thanh Long và Huỳnh Văn Hiện. (2018). 
Hiệu quả tài chính và kênh phân phối sản phẩm của nghề lưới rê (<90) ở tỉnh Bạc Liêu). Tạp chí 
khoa học trường đại học Cần Thơ, 54, 206-213.
Nguyễn Hà. (2020). Xuất khẩu cá ngừ tăng. Truy xuất từ 
Tuc/1211_59000/Nam-2019-xuat-khau-ca-ngu-tang-102.htm, ngày 20/07/2020.
14 Trần Thùy Chi, Nguyễn Thị Trâm Anh, Trần Quốc Bảo, Nguyễn Thị Kim Anh
Nguyễn Ngọc Duy, Nguyễn Thị Kim Anh và Phan Lê Diễm Hằng. (2014). Phân phối lợi ích 
trong chuỗi giá trị sản phẩm: trường hợp mặt hàng thủy sản khai thác biển ở Khánh Hòa. Tạp 
chí Phát triển Kinh tế, 280, 78-96.
Nguyễn Thị Thúy Vinh, Trần Hữu Cường và Dương Văn Hiểu. (2013). Một số vấn đề lý luận 
về phân tích chuỗi giá trị thủy sản. Tạp chí Khoa học và phát triển, 11(1), 125-132.
Phan Lê Diễm Hằng và Nguyễn Ngọc Duy. (2013). Tiếp cận chuỗi giá trị nhằm nâng cao 
lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm thủy sản khai thác - Trường hợp mặt hàng cá ngừ sọc dựa tại 
Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học - Công nghệ thủy sản, 4, 107-112.
R. Kaplinsky & M. Morris. (2001). A handbook for value chain research. Truy xuất từ 
https://www.researchgate.net/publication/42791981_A_Handbook_for_Value_Chain, ngày 
20/07/2020.
Sở NN và PTNN tỉnh Khánh Hòa. (2017). Báo cáo kết quả khai thác cá ngừ năm 2017 của 
tỉnh Khánh Hòa. Tỉnh Khánh Hòa.
Thanh Niên. (2018). Xuất khẩu thủy sản vào EU rớt từ số 1 xuống số 4 vì thẻ vàng. Truy xuất 
từ https://thanhnien.vn, ngày 15/06/2020.
Tô Phạm Thị Hạ Vân và Trường Hoàng Minh. (2014). Phân tích chuỗi giá trị tốm sú 
(Pananeus Monodon) sinh thái ở tỉnh Cà Mau. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 31, 
136-144.
Trần Việt Hưng. (2020). Kiểm soát chất lượng sản phẩm cá ngừ đại dương Việt Nam, 
nhìn từ chuỗi cung ứng sản phẩm cá ngừ Philipine. Tạp chí công thương. Truy xuất từ http://
tapchicongthuong.vn/bai-viet/kiem-soat-chat-luong-san-pham-ca-ngu-dai-duong-viet-
nam-nhin-tu-chuoi-cung-ung-san-pham-ca-ngu-philipine-69034.htm, ngày 07/05/2020.
VASEP. (2019). Tổng quan ngành cá ngừ. Truy xuất từ 
Tuc/1019_56185/Tong-quan-nganh-ca-ngu.htm, ngày 09/03/2020.
Vietnam Logistics Review. (n.d.). Chuỗi cung ứng lạnh tiềm năng phát triển ngành logistics 
Việt Nam. Truy xuất từ  20/07/2020.
Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Son. (2013). Giáo trình phân tích chuỗi giá trị sản phẩm. 
Nxb Đại học Cần Thơ.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_chuoi_gia_tri_ca_ngu_soc_dua_tai_tinh_khanh_hoa.pdf