Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam

Nghiên cứu này mô tả hình thái răng hầu của 36 loài trong phân họ cá Bỗng (Barbinae) dựa trên 198 mẫu thu tại các lưu vực sông khác nhau ở Việt Nam. Kết quả cho thấy có 33 loài có công thức răng hầu (Ph.) 3 hàng, trong đó: 28 loài có Ph.=2.3.5–5.3.2; 4 loài (Systomus takhoaensis, Barbodes schwanenfeldi, Scaphiodonichthys macracanthus và Mystacoleucus greenwayi) có Ph.=2.3.4–4.3.2 và 1 loài (Hampala macrolepidota) có Ph.=1.3.5–5.3.1. Một loài (Acrossocheilus elongatus) có răng hầu 4 hàng (Ph.=1.2.3.5– 5.3.2.1). Hai loài có công thức răng hầu thay đổi theo kích thước: Varicorhinus (Scaphesthes) microstomus và Scaphiodonichthys microcorpus. Hầu hết các loài trong cùng 1 giống có công thức răng hầu giống nhau, trừ các giống: Hampala, Systomus, Barbodes, Acrossocheilus, Varicorhinus và Scaphiodonichthys. Hình thái răng hầu có sự khác nhau giữa các loài và kích thước mẫu

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 3960
Bạn đang xem tài liệu "Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam

Đa dạng hình thái răng hầu của các loài thuộc phân họ cá bỗng (cyprinidae: barbinae) ở Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 20/2017 127 
ĐA DẠNG HÌNH THÁI RĂNG HẦU CỦA CÁC LOÀI THUỘC PHÂN 
HỌ CÁ BỖNG (CYPRINIDAE: BARBINAE) Ở VIỆT NAM 
Tạ Thị Thuỷ1, Nguyễn Thị Thủy2, Hà Mạnh Linh3, Trần Đức Hậu4 
1Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
2Trường THPT Nghĩa Hưng A, Nam Định 
3Trường Đại học Tây Bắc 
4Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt: Nghiên cứu này mô tả hình thái răng hầu của 36 loài trong phân họ cá Bỗng 
(Barbinae) dựa trên 198 mẫu thu tại các lưu vực sông khác nhau ở Việt Nam. Kết quả cho 
thấy có 33 loài có công thức răng hầu (Ph.) 3 hàng, trong đó: 28 loài có Ph.=2.3.5–5.3.2; 
4 loài (Systomus takhoaensis, Barbodes schwanenfeldi, Scaphiodonichthys macracanthus 
và Mystacoleucus greenwayi) có Ph.=2.3.4–4.3.2 và 1 loài (Hampala macrolepidota) có 
Ph.=1.3.5–5.3.1. Một loài (Acrossocheilus elongatus) có răng hầu 4 hàng (Ph.=1.2.3.5–
5.3.2.1). Hai loài có công thức răng hầu thay đổi theo kích thước: Varicorhinus 
(Scaphesthes) microstomus và Scaphiodonichthys microcorpus. Hầu hết các loài trong 
cùng 1 giống có công thức răng hầu giống nhau, trừ các giống: Hampala, Systomus, 
Barbodes, Acrossocheilus, Varicorhinus và Scaphiodonichthys. Hình thái răng hầu có sự 
khác nhau giữa các loài và kích thước mẫu. 
Từ khóa: Hình thái và công thức răng hầu, Cyprinidae, Barbinae, Việt Nam. 
Nhận bài ngày 10.11.2017; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 15.12.2017 
Liên hệ tác giả: Tạ Thị Thủy; Email: ttthuy@daihocthudo.edu.vn 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Họ cá Chép (Cyprinidae) là họ có độ đa dạng lớn nhất, với khoảng 300 loài, chiếm gần 
50% tổng số loài cá nước ngọt ở Việt Nam [1]. Các loài thuộc họ cá Chép đều không có răng 
ở hàm, thay vào đó chúng có răng ở cung hầu - do cung mang thứ 5 biến đổi thành [1, 1]. 
Cung hầu có từ 1 đến 4 hàng răng hầu, mỗi hàng có từ 1 đến 5 chiếc [1, 1, 2], thường khá ổn 
định ở các taxon khác nhau, do đó có thể được dùng làm tiêu chuẩn để định loại [1]. Tuy 
nhiên, hiện nay việc nghiên cứu về hình thái và công thức răng hầu của các loài thuộc họ cá 
Chép ở Việt Nam còn rất hạn chế. Ở Việt Nam phân họ cá Bỗng (Barbinae) có 108 loài, 
trong đó có 52 loài có số liệu về công thức răng hầu, 32 loài có mô tả sơ lược về răng hầu và 
128   TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
2 loài có sử dụng răng hầu trong khóa định loại [1]. Tuy nhiên, chưa loài nào có hình của 
răng hầu. Nghiên cứu này bổ sung công thức răng hầu và cung cấp tư liệu đầu tiên về hình 
răng hầu của các loài trong phân họ cá Bỗng thuộc họ cá Chép ở Việt Nam. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
- Nghiên cứu này sử dụng 198 mẫu của 36 loài thuộc phân họ cá Bỗng thu tại các lưu 
vực sông khác nhau ở Việt Nam, được bảo quản trong dung dịch formalin 3 - 4% và lưu giữ 
trong phòng thí nghiệm bộ môn Động vật học, khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Tách, làm sạch và bảo quản răng hầu theo Pravdin (1961) [1] và Eastman &Underhill 
(1973) [2]. Răng hầu đã tách được bảo quản trong dung dịch cồn 80 độ, ghi thông tin mẫu 
(chiều dài chuẩn SL, địa điểm và thời gian thu, công thức răng hầu). 
- Đọc, đo và đếm răng hầu theo Pravdin (1961) [1] và Tadajewska (1998) [3] (Hình 1). 
- Tên khoa học và thứ tự các loài sắp xếp theo Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001) [1]. 
Hình 1: Mô tả hình thái cung hầu phải của loài cá Abramis bjoerkna, A1-5.hàng răng chính, B 1-2. 
hàng răng thứ 2, h. chiều cao cung hầu, Ph. (công thức răng hầu) =2.5–5.2 [4] 
- Phác họa và đo cung hầu (h) được thực hiện trên kính lúp 2 mắt (Nikon 109494). Mỗi 
hình cung hầu có thông tin về tên loài (tên phổ thông và tên khoa học), SL (mm), Ph., h 
(mm). Số lượng răng của từng hàng cũng được chú thích trên hình (trừ răng bị gãy). 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
Hình thái và công thức răng hầu 36 loài, 13 giống thuộc phân họ cá Bỗng (Barbinae) 
được thể hiện ở các hình 2 - 37.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 20/2017 129 
Nhận xét: 1. Giống cá ngựa nam Hampala  Van Hasselt, 1823 ở Việt Nam có 2 loài, 
trong đó có 1 loài (H. macrolepidota) có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này 
bổ sung Ph. của loài H. dispar và hình răng hầu 2 loài so với nghiên cứu của Nguyễn Văn 
Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001) (Hình 2, 3). 
2. Giống cá ngựa gai Tor Gray, 1833 ở Việt Nam có 3 phân giống với 7 loài, trong đó 
có 4 loài có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này bổ sung hình răng hầu loài 
(T. brevifilis) (Hình 4). 
3. Giống cá púng Neolissochilus Rainboth, 1985 ở Việt Nam có 4 loài và răng hầu có 3 
hàng, trong đó cả 4 loài đều có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này bổ sung 
hình răng hầu của 2  loài  (N. stracheyi và N. namlenensis)  (Hình 5, 6). Trong đó,  loài N. 
stracheyi có Ph.=2.3.5–5.3.2 (SL=82,5–126,1 mm) (Hình 5), nhưng theo Nguyễn Văn Hảo 
và Ngô Sỹ Vân (2001) thì Ph.=2.3.4–4.3.2 (SL=207 mm) [1].  
Hình 2: Cá ngựa vạch 
(Hampala macrolepidota), 
SL=91,4. Ph.=1.3.5–5.3.1. 
h=10,7. 
Hình 4: Cá ngựa bắc 
(Tor brevifilis), SL=105,4. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=8,3. 
Hình 3: Cá ngựa chấm 
(H. dispar), SL=133,9. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=14,8. 
Hình 5: Cá púng mõm ngắn 
(Neolissochilus stracheyi), 
SL=126. Ph.=2.3.5–5.3.2. 
h=15. 
Hình 7: Cá học trò 
(Balantiocheilos melanopterus), 
SL=42,1. Ph.=2.3.5–5.3.2. h=4,5. 
Hình 6: Cá mi 
(N. namlenensis), 
SL=135. Ph.=2.3.5–5.3.2. 
h=15,5. 
130   TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
4. Giống cá học trò Balantiocheilos Bleeker, 1860 có 1 loài và răng hầu có 3 hàng. Tuy 
nhiên, loài này chưa được mô tả về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này bổ sung công 
thức và hình răng hầu của loài B. Melanopterus (Hình 7). 
5. Giống cá cóc Cyclocheilichthys Bleeker, 1859 ở Việt Nam có 6 loài nhưng chưa có 
loài nào được nghiên cứu mô tả về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này bổ sung công 
thức và hình răng hầu của 3 loài (C. enoplos, C. tapiensis và C. apogon) (Hình 8 - 10). 
6. Giống cá bỗng Spinibarbus Oshima, 1919 ở Việt Nam có 8 loài; răng hầu 3 hàng 
2.3.5–5.3.2 hình dẹp bên và đỉnh hơi cong. Trong đó có 6 loài (S. hollandi, S. vittatus, S. 
brevicephalus, S. denticulatus, S. nammauensis và S. sinensis) có số liệu về công thức răng 
hầu [1]. Nghiên cứu này bổ sung công thức răng hầu 1 loài (S. babeensis) và hình răng hầu 
của 4 loài (S. sinensis, S. babeensis, S. hollandi, S. denticulatus) (Hình 11 - 14).  
7. Giống cá đong chấm Puntius H. & B., 1922 ở Việt Nam có 4 loài, trong đó chỉ có 1 
loài (P. semifasciolatus) có số liệu công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này mô tả công thức 
và hình răng hầu của 3 loài (P. daruphani, P.brevis và P. semifasciolatus) (Hình 15 - 17).  
Hình 8: Cá cóc 
(Cyclocheilichthys enoplos), 
SL=153. Ph.=2.3.5–5.3.2. h=12,7. 
Hình 9: Cá cầy nam 
(C. tapiensis), SL=108. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=10,9. 
Hình 10: Cá cóc đậm 
(C. apogon), SL=121. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=13. 
Hình 11: Cá thần 
(Spinibarbus sinensis), SL=132. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=13,2. 
Hình 12: Cá chày đất ba bể 
(S. babeensis), SL=200,9. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=20,2 
Hình 13: Cá chày đất 
(S. hollandi),  SL=143,8. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=15,8 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 20/2017 131 
8. Giống cá đong gai Systomus McClelland, 1839 ở Việt Nam có 7 loài, trong đó chỉ có 
1 loài (S. takhoaensis) có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này mô tả công thức 
và hình răng hầu của 3 loài (S. takhoaensis, S. orphoides và S. binotatus) (Hình 18 - 20). 
Theo  Nguyễn  Văn  Hảo  và  Ngô  Sỹ  Vân  (2001),  loài  S. takhoaensis  có  Ph.=2.3.5–5.3.2 
(SL=60  -  90  mm)  [1],  tuy  nhiên  trong  nghiên  cứu  này  Ph.=2.3.4–4.3.2  (SL=73  mm)  
(Hình 18). 
Hình 14: Cá bỗng 
(S. denticulatus), SL=237. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=24. 
Hình 15: Cá mè vinh giả 
(Puntius daruphani), SL=112. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=15. 
Hình 16: Cá gầm 
(P. brevis), SL=44. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=4,2. 
Hình 17: Cá đòng đong 
(P. semifasciolatus), 
SL=64. Ph.=2.3.5–5.3.2. 
h=7,9. 
Hình 19: Cá đỏ mang 
(S. orphoides), SL=104,6. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=12,7. 
Hình 18: Cá đong gai 
(Systomus takhoaensis), SL=73. 
Ph.=2.3.4–4.3.2. h=9,7. 
Hình 20: Cá trắng 
(S. binotatus), SL=55,8. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=5,8. 
Hình 21: Cá mè vinh 
(Barbodes gonionotus), SL=135. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=14,2. 
Hình 22: Cá he vàng 
(B. schwanenfeldi), SL=74. 
Ph.=2.3.4–4.3.2. h=11,3. 
132   TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
 9. Giống cá mè vinh Barbodes Bleeker, 1859 ở Việt Nam có 3 loài và răng hầu có 3 
hàng, trong đó không có loài nào có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này mô 
tả công thức và hình răng hầu của 2 loài (B. gonionotus và B. schwanenfeldi) (Hình 21, 22). 
10. Giống cá chát Acrossocheilus Oshima, 1919 ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 9 
loài có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này mô tả công thức và hình răng hầu 
của 6 loài (A. elongatus, A. laocaiencis, A. iridescens, A. krempfi, A. macrosquamata và A. 
longibarbus) (Hình 23 - 28). Trong đó, loài A. elongatus có Ph.=1.2.3.5–5.3.2.1 (SL=131 
mm)  (Hình  23),  còn  trong  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Văn  Hảo  và  Ngô  Sỹ  Vân  (2001)  thì 
Ph.=2.3.5–5.3.2) [1] và loài A. krempfi có Ph.=2.3.5–5.3.2 (SL=45 - 135 mm) (Hình 26), 
trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001) thì Ph.=2.3.4–4.3.2 (SL=46 
-  232  mm)  [2].  Ngoài  ra,  nghiên  cứu  này  bổ  sung  công  thức  răng  hầu  của  loài  A. 
macrosquamata (Hình 27). 
11. Giống cá sỉnh Varicorhinus Rȕppell, 1935 ở Việt Nam có 20 loài và phân loài trong 
2 phân giống, trong đó có 10 loài có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này mô 
tả công thức và hình răng hầu của 6 loài (Hình 29 - 34). Bổ sung công thức răng hầu của 1 
loài: Varicorhinus sp. (Hình 34). Nghiên cứu này nêu sự sai khác về răng hầu của 4 loài so 
với Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001) [1].  
Hình 23: Cá hân 
(Acrossocheilus elongatus), SL=131. 
Ph.=1.2.3.5–5.3.2.1. h=9,4. 
Hình 24: Cá chát sọc 
(A. laocaiensis), SL=45. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=4,8. 
Hình 25: Cá chát hoa 
(A. iridescens), SL=71. 
Ph. =2.3.5–5.3.2. h=5,2. 
Hình 26: Cá chát trắng 
(A. krempfi), SL=122. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=10,3. 
Hình 27: Cá chát vảy to 
(A. macrosquamata), SL=128,1. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=10,5. 
Hình 28: Cá chát râu 
(A. longibarbus), SL=91,4. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=8,6. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 20/2017 133 
 - Loài V. (S.) microstomus: theo Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001), Ph.=2.3.5–
5.3.2 (SL=100 - 130 mm) [1], nhưng theo nghiên cứu này, răng hầu có sự thay đổi theo kích 
thước: đối  với mẫu SL=75  - 78,8 mm  thì Ph.=1.2.3.5–5.3.2.1 và SL=82,3  -  127 mm  thì 
Ph.=2.3.5–5.3.2 (Hình 29a - b). Loài V. (S.) argentatus: theo Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ 
Vân (2001), Ph.=2.3.4–4.3.2 (SL=152 mm) [1], nhưng theo nghiên cứu này, Ph.=2.3.5–5.3.2 
(SL=54,7 - 99,0 mm) (Hình 30). 
- Loài V. (O.) ovalis ovalis: theo Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001), Ph.=2.3.4–
4.3.2 (SL=214 - 284 mm) [1], trong nghiên cứu này, Ph.=2.3.5–5.3.2 (SL=44,1 - 62,6 mm) 
Hình 29a: Cá phệng 
(Varicorhinus (Scaphesthes) 
microstomus), SL=78,4. 
Ph.=1.2.3.5–5.3.2.1. h=5,5. 
Hình 29b: Cá phệng 
(V.(S.)microstomus),SL=90,5. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=6,1. 
Hình 30: Cá đát trắng 
(V.(S.) argentatus), SL=61,5. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=4,2. 
Hinh 31: Cá biên 
(V.(Onychostoma) ovalis 
ovalis), SL=44,1. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=3,7. 
Hình 32: Cá sỉnh gai 
(V.(O.) laticeps), SL=119,1. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=7,4. 
Hình 33: Cá sỉnh thường 
(V.(O.) gerlachi), SL=135,8. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=8,9. 
Hình 34: Cá sỉnh 
(Varicorhinus (O.) sp.), SL=170. 
Ph.=2.3.5–5.3.2. h=9,8. 
Hình 35: Cá pang 
(Scaphiodonichthys macracanthus), 
SL=66. Ph.=2.3.4–4.3.2. h=4,9. 
134   TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
(Hình 31). Loài V. (O.) gerachi: theo Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001), Ph.=2.3.4–
4.3.2 (SL=97 - 174 mm) [1], trong nghiên cứu này, Ph.=2.3.5–5.3.2 (SL=51,6 - 170,0 mm) 
(Hình 33). 
12. Giống cá mọm Scaphiodonichthys Vinciguerra, 1890 ở Việt Nam có 4 loài và cả 4 
loài đều có số liệu về công thức răng hầu [1]. Nghiên cứu này bổ sung hình răng hầu của 2 
loài (S. macracanthus và S. microcorpus) (Hình 35, 36a - b). Theo Nguyễn Văn Hảo và Ngô 
Sỹ Vân (2001), loài S. microcorpus, Ph.=1.3.4–4.3.1 (SL=70 - 133 mm) [1], theo nghiên cứu 
này,  Ph.=2.3.4–4.3.2  (SL=59,5  -  99,0  mm)  (Hình  36a)  và  Ph.=2.3.5–5.3.2  (SL=116,9)  
(Hình 36b). 
13. Giống cá xước Mystacoleucus Gȕnther, 1868 ở Việt Nam có 4 loài, trong đó có 3 
loài (M. chilopterus, M. marginatus và M. lepturus) có số liệu về công thức răng hầu [1]. 
Nghiên cứu này bổ sung công thức và hình răng hầu của loài M. greenwayi (Hình 37). 
- Trong tổng số 36 loài, có 33 loài có công thức răng hầu 3 hàng, trong đó: 28 loài có 
Ph.=2.3.5–5.3.2; 4 loài (Systomus takhoaensis, Barbodes schwanenfeldi, S. macracanthus 
và Mystacoleucus greenwayi)  có  Ph.=2.3.4–4.3.2  và  1  loài  (Hampala macrolepidota)  có 
Ph.=1.3.5–5.3.1.  Một  loài  (Acrossocheilus elongatus)  có  răng  hầu  4  hàng  (Ph.=1.2.3.5–
5.3.2.1)  (Hình 23). Hai  loài  có công  thức  răng hầu  thay đổi  theo kích  thước, đó  là;  loài  
Varicorhinus (S.) microstomus (SL=75,0 - 78,8 mm, Ph.=1.2.3.5–5.3.2.1; SL=82,3 - 127,0 
mm, Ph.=2.3.5–5.3.2)  (Hình 29a  - b) và  loài Scaphiodonichthys microcorpus  (SL=59,5  - 
99,0 mm, Ph.=2.3.4–4.3.2; SL=116,9 mm, Ph.=2.3.5–5.3.2) (Hình 36a - b). 
- Trong tổng số 13 giống, hầu hết các loài trong cùng 1 giống có công thức răng hầu 
giống  nhau,  trừ  một  số  giống  sau:  Hampala,  Systomus,  Barbodes,  Acrossocheilus, 
Varicorhinus và Scaphiodonichthys.  
- Hình thái răng hầu có sự khác nhau giữa các loài trong cùng một giống và giữa các 
loài trong các giống khác nhau (Hình 2–37). 
Hình 36a: Cá mọm phong thổ 
(S. microcorpus), SL=61,9. 
Ph.=2.3.4–4.3.2. h=4,5. 
Hình 36b: Cá mọm phong 
thổ (V.(O.) microcorpus), 
SL=116,9. Ph.=2.3.5–5.3.2. 
h=7,3. 
Hình 37: Cá lai xước 
(Mystacoleucus greenwayi), 
SL=57,4. Ph.=2.3.4–4.3.2. 
h= 5,3. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 20/2017 135 
4. KẾT LUẬN 
Đây là nghiên cứu đầu tiên đưa ra hình răng hầu của 36 loài, thuộc 13 giống trong phân 
họ cá Bỗng (Barbinae) thu được tại các lưu vực sông ở Việt Nam, bổ sung công thức răng 
hầu cho 19 loài và nêu được sự sai khác của 9 loài so với các nghiên cứu trước. Công thức 
răng hầu khá ổn định (chủ yếu 3 hàng với 30 loài có Ph.=2.3.5–5.3.2), nhưng hình thái răng 
hầu có sự khác nhau giữa các loài và kích thước mẫu vật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Văn Hảo, Ngô Sỹ Vân (2001), Cá nước ngọt Việt Nam tập 1. Nxb Nông nghiệp, Hà 
Nội, tr.237-252. 
2. Pravdin I. F., (1973), Hướng dẫn nghiên cứu cá, (Phạm Thị Minh Giang dịch), Nxb Khoa học 
và Kĩ thuật, Hà Nội, 278 tr. 
3. Eastman J. T., Underhill J. C., (1973), “Intraspecific variation in the pharyngeal tooth formulae 
of some cyprinid fishes”, Copeia (1), pp.45-53. 
4. Tadajewska M.,  (1998),  “Pharyngeal  teeth  and  shape of  the ossa pharyngeal  inferior  during 
development of Abramis brama and Blicca bjoerkna” (L) (Cyprinidae). Cybium 22 (2), pp.123-
147. 
MORPHOLOGICAL DIVERSITY OF PHARYNGEAL TEETH OF 
BARB FISH (CYPRINIDAE: BARBINAE) IN VIETNAM 
Abstract: The morphological pharyngeal teeth of 36 species from Barbinae was examined 
based on 198 specimens collected from various locations in Vietnam. The results showed 
that the 2.3.5–5.3.2 formula was found to exist in 28 species, the 2.3.4–4.3.2 formula in 4 
species, i.e., S. takhoaensis, B. schwanenfeldi, S. macracanthus and M. greenwayi, and the 
1.3.5–5.3.1 formula was present only in H. macrolepidota. One species had formula of 
1.2.3.5–5.3.2.1, i.e., A. elongatus. Variations in the tooth formula with size of fish were 
found in 2 species, i.e., V. (S.) microstomus and S. microcorpus. No differentiations of tooth 
formula were found in most of species among its congener, with the exception of Hampala, 
Systomus, Barbodes, Acrossocheilus, Varicorhinus and Scaphiodonichthys. The sketches 
of pharyngeal teeth indicated that there were visible differences in morphology among 
species and sizes. 
Keywords: Genome, assembly, DASR. Morphology and formula of pharyngeal teeth, 
Cyprinidae, Barbinae, Viet Nam. 

File đính kèm:

  • pdfda_dang_hinh_thai_rang_hau_cua_cac_loai_thuoc_phan_ho_ca_bon.pdf