The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo

“Différance” is the philosophical concept of language introduced by Jacques

Derrida. Accordingly, every word (or writing) is resisted or made differently in the

context of communication. In which, subjective and objective imprints are always

in dialogue. We apply the "différance" to the study of expressions through images

in Murakami's short story The Super-Frog Saves Tokyo, to show the layers of

meaning hidden in the work.

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 1

Trang 1

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 2

Trang 2

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 3

Trang 3

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 4

Trang 4

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 5

Trang 5

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 6

Trang 6

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 5800
Bạn đang xem tài liệu "The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo

The “differance” of meanings in haruki murakami’s the super – frog saves tokyo
No.20_Mar 2021|p.70-75 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
ISSN: 2354 - 1431 
THE “ DIFFERANCE” OF MEANINGS 
IN HARUKI MURAKAMI’S THE SUPER –FROG SAVES TOKYO 
Hoang Thi My
1,* 
1
TH School 
*
 Email address: hoangmy0311@gmail.com 
https://doi.org/10.51453/2354-1431/2020/421 
Article info 
Abstract 
Recieved: 
20/01/2021 
Accepted: 
22/02/2021 
 “Différance” is the philosophical concept of language introduced by Jacques 
Derrida. Accordingly, every word (or writing) is resisted or made differently in the 
context of communication. In which, subjective and objective imprints are always 
in dialogue. We apply the "différance" to the study of expressions through images 
in Murakami's short story The Super-Frog Saves Tokyo, to show the layers of 
meaning hidden in the work. 
Keywords: 
“Différance”, “Super-
Frog Saves Tokyo”, 
Derrida, Murakami 
No.20_Mar 2021|p.70-75 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
ISSN: 2354 - 1431 
“TRÌ BIỆT” NGHĨA TRONG CẬU ẾCH CỨU TOKYO 
CỦA HARUKI MURAKAMI 
Hoàng Thị My1,* 
1Trường TH School 
*Địa chỉ email: hoangmy0311@gmail.com 
https://doi.org/10.51453/2354-1431/2020/421 
Thông tin bài viết Tóm tắt 
Ngày nhận bài: 
20/01/2021 
Ngày duyệt đăng: 
22/02/2021 
 “Trì biệt” là khái niệm triết học về ngôn ngữ do Jacques Derrida đưa ra. Theo 
đó, mọi lời nói (hoặc viết) đều bị cưỡng lại hoặc làm cho khác đi về mặt nghĩa 
trong bối cảnh giao tiếp. Trong đó, dấu ấn chủ quan và khách quan luôn đối 
thoại nhau. Chúng tôi vận dụng vào nghiên cứu cách biểu nghĩa qua các hình 
tượng trong truyện ngắn Cậu ếch cứu Tokyo của Murakami, để cho thấy các 
lớp nghĩa ẩn trong tác phẩm. 
Từ khóa: 
Trì biệt, “Super-Frog Saves 
Tokyo”, Derrida, Murakami 
1. Mở đầu 
Jacques Derrida tạo ra sự kết hợp trong khái 
niệm “trì biệt” (Différance). Ông sử dụng “ance” 
thay vì kí tự chuẩn để chỉ ra một sự hợp nhất nghĩa 
của hai động từ tiếng Pháp: “différer”: trở nên khác 
biệt, và “to defer”: bị hoãn lại. Nghĩa kép này chỉ ra 
nguồn gốc nghĩa của một văn bản: vì đó là sản 
phẩm đến từ sự khác biệt trong hệ thống của nó 
(người đọc/nghe biết sự vật là như vậy, “trâu là 
trâu vì không phải là trầu”). Thông qua sự khác 
biệt này người đọc/nghe có thể hiểu nghĩa của bất 
cứ lời phát biểu bằng văn bản hoặc lời nói nào. Mặt 
khác, “bởi nghĩa vẫy gọi này (trừu tượng như 
Derrida đã gọi) có thể không bao giờ xuất hiện 
trong sự hiện diện thực sự, đặc điểm đã định rõ của 
nó được hoãn lại từ việc giải nghĩa ngôn ngữ trước 
một động thái hoặc trò chơi khác”1 hoặc khác đi là 
như Derrida đặt nó trong một sự thoái lui vô tận. 
Derrida đã thấy ở ngôn ngữ một sự vận động song 
trùng về nghĩa. Điều này dẫn tính vô hạn về lí giải 
nghĩa trong tác phẩm văn học. 
Về nghĩa trong trì biệt, Derrida từng nói 
“nghĩa của bất cứ lời phát biểu bằng văn bản hay 
lời nói nào, bằng hành động của việc đối chọi lại 
các tác động ngôn ngữ nội bộ, được phổ biến một 
cách chắc chắn – một thuật ngữ bao gồm, giữa 
những đặc điểm mâu thuẫn cố tình của nó”2. Sự tác 
động của nghĩa (một “nghĩa” có hiệu lực) sẽ phân 
tán các nghĩa giữa vô số những lựa chọn có thể thay 
thế, và phủ nhận bất kì nghĩa cụ thể nào xuất hiện. 
Trong trò chơi không ngừng của “cái khác” như 
vậy, không có căn cứ tạo ra bất cứ ngôn ngữ nào cố 
định, bởi việc gán cho một nghĩa xác định, hoặc 
thậm chí một tập hợp hữu hạn nhiều nghĩa rõ ràng 
cho bất cứ lời phát biểu nào mà chúng ta nói hoặc 
viết ra là hoàn toàn không thể. 
Theo Lê Huy Bắc trong Kí hiệu và liên kí 
hiệu3, nghiên cứu trì biệt chính là tiếp cận việc xử lí 
cách nghĩa của kí hiệu trượt khỏi các nghĩa thông 
thường của nó trong việc tạo nên các nghĩa-có-thể 
trong quá trình sử dụng và tiếp nhận. Từ đây, chúng 
tôi sẽ khảo sát trì biệt trong truyện ngắn Cậu Ếch 
cứu Tokyo trên ba phạm vi trì biệt nghĩa của Cậu 
Ếch, Katagiri và Tokyo. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Trì biệt nghĩa của “Tokyo” 
Khi nói đến trì biệt nghĩa trong sáng tạo ngôn 
từ, không thể không nhắc đến Kafka. Nếu Kafka 
được coi là người có ảnh hưởng sâu rộng đến văn 
H.T.My/ No.20_Mar 2021|p.70-75 
học hậu hiện đại thì Murakami lại được biết đến 
như một trong những bậc thầy của văn chương hậu 
hiện đại. Trong sáng tác của mình, cả Kafka và 
Murakami đều thể hiện được những cách tân nghệ 
thuật mới mẻ. Đối với Kafka, ông đã làm nên một 
cuộc cách mạng để phá vỡ lối viết truyền thống. 
Các tác phẩm của Kafka đã thể hiện những hướng 
tiếp cận, phản ánh hiện thực mới mẻ. Kafka đã nhại 
những vấn đề lỗi thời thuộc về con người như cuộc 
sống gian trá, sự băng hoại đạo đức và đức tin. 
Trong khi đó, với lối viết giả trinh thám, “trò 
chơi truy tìm bản thể” ở các tác phẩm của 
Murakami hiện lên những hành trình tìm kiếm vô 
vọng, vì mỗi con người đều bị giăng mắc trong 
những mê lộ không lối thoát. Cuối cùng chỉ còn đó 
nỗi cô đơn hoặc cái chết chờ đón họ. Việc tổ chức 
tác phẩm theo lối trò chơi trì biệt đã giúp Murakami 
khám phá một cách toàn diện và sâu sắc vấn đề 
thân phận con người đồng thời phá bỏ nó, khiến 
mỗi tác phẩm thành công của Murakami trở nên đa 
âm, trùng điệp ý nghĩa, không dễ lí giải, mở ra khả 
năng giao tiếp vô hạn với độc giả. 
Riêng đối với truyện ngắn, Murakami không 
đi theo lối mòn truyền thống như cách thức trần 
thuật liên tục, tính chặt chẽ theo chủ đề hay tính 
thống nhất của nhân vật. Có lẽ đặc điểm nổi bật 
nhất của truyện ngắn Murakami là số lượng những 
điều ẩn giấu mà năng lực hư cấu của ông tạo nên 
một cách vô thức. Trong thế giới giả tưởng đó, hầu 
như hoàn toàn không có những niềm tin mang tính 
thống trị hoặc định hình, những kinh nghiệm vật lí 
quan trọng, những ý tưởng hoặc gợi ý siêu nghiệm, 
cảm giác về nơi chốn hoặc cộng đồng, nhận thức về 
một phần của nhân vật trong bất kì lịch sử cá nhân 
hay bối cảnh nghề nghiệp hoặc gia đình; hầu như 
không một nhân vật nào được tạo ra theo nghĩa 
thông thường của từ này. Đấy là sự khác biệt trong 
nghệ thuật hư cấu của  ... ồn tại một sự trống 
rỗng hão huyền hay nó chỉ là một ảo tưởng trống 
rỗng? Dù trong bóng tối, Katagiri nhận thức rõ ràng 
về nơi mình đang sống. Thật vậy, nếu không thì tại 
sao anh lại trăn trở về việc mình có phối hợp với 
hình ảnh hư ảo Cậu Ếch kia để cứu Tokyo? Có thể 
thấy Tokyo ngay từ đầu đã là mục tiêu cơ bản trong 
nhiệm vụ của Cậu Ếch và Katagiri vô tình bị kéo 
theo khi hai người gặp gỡ nhau, đúng hơn là Cậu 
Ếch tìm đến nhà gặp Katagiri để thương lượng việc 
chống lại vụ động đất kì lạ kia. 
Cậu Ếch cứu Tokyo mô tả cuộc giao tranh độc 
đáo đầy màu sắc huyền thoại thoại giữa Cậu Ếch 
khổng lồ, hiện thân cho công lý, biết nói tiếng 
người, với một con Trùn khổng lồ, hiện thân cho 
cái xấu. Cậu Ếch xuất hiện tại nhà Katagiri “Phụ tá 
Chủ nhiệm ban Quản Lý Tiền Nợ của chi nhánh 
Shinjuku, ngân hàng Tín Dụng An Toàn Tokyo” – 
một cái nghề rất gần với Josef K. trọng Vụ án của 
Kafka. Katagiri là một người đàn ông chưa vợ con, 
có cuộc sống công chức bình thường, một người 
không hề biết đến năng lực kì bí của chính mình, 
nhưng do sống có trách nhiệm và hoài bão cao đẹp 
nên được Cậu Ếch lựa chọn và thuyết phục để trợ 
giúp trong trận đấu cam go chống lại Trùn mà theo 
lời Cậu Ếch: “Cậu Trùn là con trùn khổng lồ sống ở 
trong lòng đất đấy mà. Hễ nó giận lên là gây ra 
động đất”6. 
Như thế, Tokyo có những con người tích cực 
và tiêu cực. Điều quan trọng hơn là Tokyo đã tác 
động đến hành vi của các nhân vật đó như thế nào? 
Qua lối kể của Murakami, ta thấy thành phố hiện 
lên với đầy đủ các sắc thái tốt xấu và luôn bị trì biệt 
để vừa cho thấy Tokyo là Tokyo những đồng thời 
cũng vừa là một thực thể gì đó khác với Tokyo, một 
biểu tượng về cái đẹp chẳng hạn... Thành phố luôn 
bị kẻ thù đe dọa hủy diệt, nhưng đấy cũng là thành 
phố mà nhiều người sẵn sàng hi sinh tính mạng để 
bảo vệ. Bên cạnh các nghĩa đó, Tokyo còn là hiện 
thân của một quyền lực, chi phối đời sống con 
người. Nó có những chuẩn mực ứng xử thông qua 
các cơ quan hành chính và có cả những cách ứng 
xử phi chuẩn mực. Đó là các thế lực xã hội đen và 
đám quan chức hủ hóa của chính quyền. Những kẻ 
xấu này gây không ít phiền thoái cho cộng đồng 
dân sinh. Đặc biệt là việc vay nợ mà không chịu trả 
đã khiến nhân viên thu hồi nợ như Katagiri gặp 
khốn khó, hay là vụ một kẻ gangster nã đạn vào 
Katagiri. Mọi việc trở nên dễ dàng hơn khi Cậu Ếch 
ra tay theo lối xã hội đen để đòi lại công bằng cho 
Katagiri, rồi sau đó kết hợp với “tinh thần” của 
Katagiri để chống lại Trùn. Với tất cả những biểu 
hiện trên, Tokyo vừa mong manh, vừa vững chãi; 
vừa là nạn nhân của Trùn, nhưng đồng thời vừa là 
tội nhân của không ít thành viên thuộc cơ cấu tổ 
chức của nó. 
2.2. Trì biệt nghĩa của “Katagiri” 
Katagiri không phải là mẫu người hùng đúng 
nghĩa. Nhưng anh là người tận tâm với công việc và 
không bao giờ chịu lùi bước trước hiểm nguy. Công 
việc thu hồi nợ của anh không chỉ là việc làm vất vả 
chẳng ai muốn nhận mà còn luôn thường trực hiểm 
nguy: “Khu Kabukicho của quận Shinjuku giống 
như mê cung của các băng đảng tội ác. Băng đảng 
lâu đời cũng có, mà băng đảng bạo lực có tổ chức 
của dân Hàn Quốc, rồi dân Trung Quốc, cũng trà 
trộn ở đấy. Súng đạn, ma túy đầy rẫy. Những lượng 
tiền khổng lồ không phải ló lên bề mặt, mà chảy 
ngầm, trong bóng tối. Chuyện người ta tiêu tán như 
hơi khói cũng chẳng lạ lùng gì ở đấy. Ðã có những 
lần Katagiri đi thúc nợ bị bọn băng đảng bao quanh, 
dọa giết. Nhưng anh cũng chẳng sợ. Anh nghĩ 
chúng giết nhân viên quèn đi đòi nợ cho ngân hàng 
mà làm gì. Muốn đâm cứ đâm, muốn bắn cứ bắn”7. 
Thái độ dũng cảm có phần liều lĩnh đó của Katagiri 
đã khiến kẻ xấu chùn bước. Katagiri luôn hành 
động với ý thức trách nhiệm và anh luôn tôn trọng 
người khác, và phớt lờ đi công danh hão huyền. 
Cậu Ếch đánh giá cao anh: “Tôi vẫn hằng kính 
H.T.My/ No.20_Mar 2021|p.70-75 
phục người như anh. 16 năm nay, anh âm thầm 
chấp nhận và làm trọn công việc vừa tầm thường 
vừa nguy hiểm mà ai cũng tránh. Ðiều đó khó khăn 
như thế nào, tôi rất thấu hiểu. Tiếc là cấp trên và 
đồng liêu đã không đánh giá xứng đáng công lao 
của anh. Bọn họ có mắt như mù. Vậy mà, dù không 
được khen thưởng, không được lên chức, anh vẫn 
không than trách một lời nào. Chẳng phải chuyện 
việc làm mà thôi”8. Không chỉ ngợi khen, Cậu Ếch 
còn chỉ rõ những hạn chế ở Katagiri: “Nói thật với 
anh, anh không có phong mạo lắm đâu, mà cũng 
không giỏi môi mép. Cho nên người chung quanh 
mới khi dễ. Tuy nhiên tôi hiểu anh rất rõ. Anh là 
người biết giữ đạo lý, và can đảm. Tokyo đành là 
rộng lớn, nhưng người đáng tin cậy được như anh 
thì không có ai khác đâu”9. 
Chúng ta cùng chú ý đến những phẩm chất của 
Katagiri. Anh này có một cái tên cụ thể những vẫn 
bắt đầu bằng một chữ cái “K”, giống Josef K. của 
Kafka. Sự giống đó đã tạo nên sự trì biệt giữa hai 
con người và hai văn bản. Đọc Murakami, ta thấy 
Kafka thường hiện diện nơi trang sách của ông. 
Katagiri không chỉ giống về “ý thức tận tâm với 
công việc”, giống về “sự đương đầu với cái phi lí” 
mà còn giống về cái nghề ngân hàng anh đang theo 
đuổi. Một hình ảnh vừa giống vừa khác đã tạo nên 
một sự trì biệt thú vị. Trong Katagiri có cả 
Murakami lẫn Kafka, có cả hình ảnh của chàng 
hiệp sĩ Josef K. trên hành trình đi tìm chân lí và có 
cả sự nhại lại hình ảnh đó, cốt để tạo nên diện mạo 
của riêng mình. 
Murakami qua hình tượng Katagiri đã trì biệt 
cả hành động anh hùng: “Anh Katagiri ạ, chuyện 
đấm đá thì tôi lo cả, nhưng chỉ một mình tôi thì 
không đấu được. Quan trọng nhất là điều nầy: tôi 
cần có dũng khí và chính nghĩa của anh. Tôi cần có 
anh sau lưng yểm trợ, thanh viện tôi: Gắng lên Cậu 
Ếch. Không lo. Cậu sẽ thắng. Cậu có chính 
nghĩa”10. Cậu Ếch khẳng định: “Chỉ có người như 
anh mới cứu được Tokyo. Và chính vì những người 
như anh mà tôi mới định cứu Tokyo đấy”11. 
Như thế, Katagiri là hiện thân của tinh thần 
Tokyo. Sức mạnh của Katagiri nằm ở phẩm chất và 
lương tri con người. Katagiri là một người lao 
động, một người dấn thân vì lẽ phải. “Nghĩa” của 
Katagiri trong mối quan hệ với Cậu Ếch và Tokyo 
là phần phẩm tính cao đẹp, cái rất cần cho sự tồn 
vong của loài người. Nhiều truyện ngắn thành công 
khác của Murakami cũng có cách trì biệt tương tự 
như thế. Ta có thể kể là Tấm gương, Quỷ hút máu 
trên xe taxi, Chuyện quái đản trong thư viện 
Những tác phẩm này đan xen các sự kiện thực ảo và 
khai thác “cái vắng mặt” hoặc “cái song trùng” để 
tạo nên các lớp nghĩa độc đáo theo cách của trì biệt. 
2.3. Trì biệt nghĩa của “Cậu Ếch” 
Trì biệt trong Cậu Ếch cứu Tokyo được triển 
khai đa hướng. Xét cụ thể thì mỗi một kí hiệu hay 
hình tượng đều có khả năng trì biệt đa lớp nghĩa. 
Trùn là đối thủ cần chiến đấu của Cậu Ếch, mang 
mối nguy cơ đe dọa sự an lành Tokyo, nhưng trong 
Trùn cũng có những phẩm chất có thể chấp nhận. 
Theo lời cậu Ếch, “Thế giới này giống như một 
chiếc áo khoác vĩ đại, cần có thêm nhiều cái túi 
hình dạng khác nhau. Thế nhưng bây giờ thì Cậu 
Trùn trở nên nguy hiểm đến nỗi không thể để mặc 
cậu ấy được nữa. Thân thể bụng dạ Cậu Trùn, sau 
bao nhiêu năm thu hút tích lũy nhiều căm giận như 
thế, đã phình to hơn bao giờ hết”12. Như thế, 
nguyên nhân khiến Trùn quyết định gây động đất là 
có điều gì đó khiến Trùn “giận”, một yếu tố tác 
động bên ngoài chứ tự thân Trùn ngay từ đầu đã 
chưa hề có ý định gây hấn với Tokyo hay với con 
người. Nhận xét này gợi chúng ta nghĩa trì biệt đến 
mối quan hệ giữa con người với môi trường. Ở đây, 
Trùn là hiện thân của môi trường: Tokyo được xây 
dựng trên vương quốc của Trùn. Bình thường Trùn 
nằm yên, Tokyo hưởng thái bình. Nhưng vì lí do 
nào đó, việc xây dựng hay khai thác tài nguyên quá 
mức chẳng hạn, thì Trùn “tức giận” cựa mình gây 
nên động đất. Lối tư duy này mang đậm tính chất 
thần thoại, chỉ có khác là nguyên nhân gây ra hủy 
diệt là tại con người tham lam quá mức đã tác động 
xấu đến môi trường. Một “kẻ xấu” như Trùn vẫn có 
điểm có thể chấp nhận thì sự trì biệt đã được ẩn sâu 
ở đây rồi. 
Dù chưa thực sự tin hết lời Cậu Ếch, Katagiri 
vẫn đồng ý giúp. Cuộc chiến đấu giữa Cậu Ếch với 
Trùn kết thúc với phần thắng thuộc về Cậu Ếch, với 
sự hỗ trợ tinh thần của Katagiri: “Tôi và anh 
Katagiri đã dùng hết mọi thứ vũ khí, trong tầm tay 
với, và dùng hết dũng khí của mình. Bóng tối đã 
đứng về phe Cậu Trùn. Anh Katagiri đã mang máy-
phát-điện-đạp-chân xuống đấy, dùng hết sức lực 
của anh để rọi ánh sáng vào nơi tối tăm ấy. Cậu 
Trùn rắp tâm lợi dụng những cảnh huyễn hoặc 
trong bóng tối để xua đuổi anh đi, nhưng anh vẫn 
cố ghìm chân nán lại. Bóng tối và ánh sáng công 
phá nhau kịch liệt”13. 
Cuộc chiến đấu đó diễn ra song song với một 
cơn ác mộng mà Katagiri phải trải qua. Trong cuộc 
chiến không cân sức với kẻ mang súng nã thẳng 
vào mình, Katagiri ngã xuống. Anh nghĩ điều đó là 
thực. Nhưng khi hồi tỉnh trong bệnh viện thì anh 
được giải thích là anh chỉ bị ngất đi thôi. Như thế 
cuộc ám sát Katagiri với Katagiri là thật nhưng với 
những người khác thì đó chỉ là sản phẩm của trí 
tưởng tượng. Người đọc khó phân biệt đâu là thật 
và đâu là ảo. 
H.T.My/ No.20_Mar 2021|p.70-75 
Tuy nhiên sự móc nối các mảnh vỡ của 
Murakami trong tự sự lại càng khiến cho câu 
chuyện tắm đẫm màu sắc hoang đường. Ấy là trong 
lúc Katagiri đang vật lộn chống lại kẻ ám sát mình 
thì Cậu Ếch cũng đang chiến đấu quyết liệt với 
Trùn. Dường như “tinh thần chiến đấu” của 
Katagiri với kẻ mang súng chính là sự tiếp thêm 
sức mạnh cho Cậu Ếch chinh phục Trùn. Sau cuộc 
chiến, Cậu Ếch quay về bệnh viện (theo Katagiri là 
thật, còn theo các nhân viên bệnh viện thì việc xuất 
hiện của Cậu Ếch ở bệnh viện chỉ là sản phẩm từ trí 
tưởng tượng của Katagiri mà thôi), kể tường tận 
cuộc chiến cho Katagiri rồi qua đời. Tuy không 
chiến thắng được Trùn nhưng nhờ sự chống trả 
quyết liệt của Cậu Ếch mà Trùn không thể gây ra 
được trận động đất hủy hoại Tokyo. 
Khi Ếch chết, giòi bọ từ trong cơ thể Ếch nổ 
tung ra, chui cả vào mắt mũi của Katagiri. Anh thét 
lên và choàng tỉnh từ một giấc mơ khủng khiếp, 
một mình, trên một chiếc giường bệnh viện. Bên tai 
anh còn nguyên lời Cậu Ếch: “Dù sao, tất cả các 
cuộc chiến đấu khốc liệt đều thực hiện do sức tưởng 
tượng. Ðấy mới chính là chiến trường của mình đấy 
anh. Ta thắng ở đấy, mà ta bại cũng ở đấy. Tất 
nhiên, chúng ta chỉ là những hiện hữu có giới hạn, 
cuối cùng thì ai cũng bại và mất đi”14. Và đây là 
thông điệp cuối cùng của Cậu Ếch: “Cái gì thấy 
trước mắt chưa hẳn đã là thật. Kẻ địch của tôi cũng 
là chính tôi bên trong tôi”15. Câu chuyện kết thúc 
trong sự phân vân khó lí giải của Katagiri về tính 
thực hư của những gì anh vừa trải qua. Đặc biệt là 
với ngôn từ của Cậu Ếch, người đọc chẳng thể nào 
ngay lập tức hiểu hết nghĩa của những câu triết lí có 
vẻ rất sâu sắc kia. 
3. Kết luận 
Hiểu theo cách nào đó thì bản chất của trì biệt 
được xem xét trong tính đa nghĩa của kí hiệu và quá 
trình hình thành cũng như xác định nghĩa đó. 
Những lời kể của Cậu Ếch xen kẽ với lời của người 
kể chuyện ngôi thứ nhất đã thâu tóm được cuộc đấu 
tranh mà các nhân vật của Murakami phải đối mặt. 
Dẫu đơn độc và cô biệt, họ phải đấu tranh để rèn 
nên bản nguyên đích thực của mình trong một thế 
giới phi ảo tưởng. Nhân vật của ông là những người 
bình thường, nhưng họ có thể làm những việc phi 
thường nếu họ biết sống có ý nghĩa, biết sử dụng tri 
thức với ý thức trách nhiệm, và luôn cẩn trọng 
không mù quáng nghe theo những lời lẽ hư ngụy 
đáng ngờ của kẻ khác. Trên hết, họ phải lựa chọn 
hành động nhưng cũng phải chấp nhận rằng trong 
một số tình huống họ có thể là kẻ thù tệ hại nhất 
của chính mình. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của 
Murakami, phần thứ hai ẩn chìm trong thông điệp 
của ông ngày càng mạnh mẽ hơn. Ông đã bắt đầu 
tạo ra những nhân vật mà cuộc đấu tranh của họ 
dẫu đơn độc nhưng không hề vô ích. Sự thực, các 
nhân vật của ông cố gắng tạo ra những liên kết có ý 
nghĩa giữa cuộc đời mình với những người xung 
quanh. 
Trong quá trình khám phá ý nghĩa trong một 
văn bản, các nhà giải cấu trúc tuyên bố rằng sự phê 
bình của một văn bản cũng có giá trị như đọc văn 
bản. Do đó, định nghĩa về sự trì biệt cũng được giải 
cấu trúc bởi những quy luật ngôn ngữ bên trong, 
được phê bình bởi cách đọc giải cấu trúc. Khái 
niệm trì biệt ở đây vừa là cái biểu đạt vừa là cái 
được biểu đạt, bản thân nó vẫn còn mơ hồ và không 
xác định. Nó bị kẹt giữa hai khái niệm để khác biệt 
(to differ) và để hoãn lại (to defer). Sự trì biệt rơi 
vào vị trí của một quyết định không thể có ngữ 
pháp. Đó là vị trí mà hầu hết ý nghĩa và sự không 
xác định diễn ra trong khái niệm différance. 
CHÚ THÍCH 
1.2.
 Jacques Derrida (1978), Writing and 
Difference, trans. Alan Bass. London– New York, 
Routledge, p. 57. 
3.
 Lê Huy Bắc (2019), ý hiệu v i n ký hiệu, 
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 
4.5.6.7.8.9.10.11.12.13.14.15.
 Haruki Murakami (2006), 
Sau cơn động đất, Phạm Vũ Thịnh dịch, Nxb Đà 
Nẵng, tr. 148, 148, 151, 150, 153, 154, 155, 155, 
152, 170.169.172. 
REFERENCES 
1. John Wray (2004), “Haruki Murakami - The 
Art of Fiction”, No.182. (Summer), The Paris 
Review. 
2. Virginia Yeung (2011), A Narratological 
Study of Murakami Haruki’s “Norwegian Wood” 
and “Sputnik Sweetheart” – Time, Voice and 
Focalisation, Transnational Literature, May, Vol. 3, 
No. 2. 
3. Virginia Yeung (2013), “Equivocal Endings 
and the Theme of Love in Murakami Haruki’s Love 
Stories”, Journal Japanene studies Vol. 33, p.279-
295. 
4. Lois Parkinson Zamora and Wendy B. Faris 
(Eds) (1995), Magical Realism: Theory, History, 
Community, Duke University Press, Durham & 
London. 
5. L. Jacquelyn Zuromsk (2004), Getting to the 
Pu p of Haruki Murakami’s Norwegian Wood: 
Translatability and the Role of Popular Culture, 
Orlando, Florida, USA, B.S. University of Central 
Florida. 
H.T.My/ No.20_Mar 2021|p.70-75 

File đính kèm:

  • pdfthe_differance_of_meanings_in_haruki_murakamis_the_super_fro.pdf