Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
Nhận thức của điều dưỡng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ trước can thiệp
còn thấp và được cải thiện đáng kể sau can thiệp giáo dục. Nghiên cứu cho thấy sự cần thiết của can thiệp giáo dục phù hợp về nội dung, hình thức và đối tượng tham gia cho mỗi cho lĩnh vực chăm sóc cụ thể.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
20 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01 trung bình giảm từ 37,1% xuống 15,2% và kiến thức yếu giảm từ 30,5% xuống 6,6%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Nhân viên y tế cần phải tăng cường thực hiện công tác giáo dục sức khỏe cho bà mẹ trước và sau sinh về vàng da sơ sinh, đặc biệt chú ý tới đối tượng bà mẹ mang thai, cũng như các lớp tư vấn tiền sản, chương trình tivi tại phòng khám thai, Nội dung giáo dục sức khỏe cần chú trọng kiến thức về mức độ, tốc độ vàng da bệnh lý và nhận biết màu sắc nước tiểu và phân của trẻ, cách nhận biết vàng da, thời gian xuất hiện vàng da và theo dõi trẻ vàng da. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ y tế (2011), Thông tư số 07/2011/ TT-BYT – Thông tư hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/ The-thao-Y-te/Thong-tu-07-2011-TT-BYT- huong-dan-cong-tac-dieu-duong-cham-soc- nguoi-benh-118433.aspx, xem 15/8/2015. 2. Phạm Diệp Thùy Dương (2013), “Kiến thức - thái độ - thực hành về vàng da sơ sinh của bà mẹ tại TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(2), 69-73. 3. Nguyễn Công Khanh (2007), “Vàng da sơ sinh”, Tiếp cận chẩn đoán Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr. 18 - 22 và tr. 70 - 86. 4. Phạm Thị Luya và Trần Tôn Nữ Anh Ty (2009), “Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi về bệnh vàng da của các bà mẹ có con đang nằm điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng - Đồng Nai”, Hội nghị khoa học Điều Dưỡng nhi khoa toàn quốc lần thứ VI - Bệnh viện Nhi TW, tr. 167 -172. 5. Đào Minh Tuyết (2009), Đánh giá kết quả điều trị vàng da tăng Bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh bằng liệu pháp ánh sáng tại khoa Nhi bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ y học, Đại học Y – Dược Thái Nguyên. 6. Ngô Minh Xuân (2001), Phân cấp chẩn đoán và điều trị vàng da sơ sinh do tăng Bilirubin gián tiếp, Luận án tiến sĩ y học, thành phố Hồ Chí Minh. THAY ĐỔI NHẬN THỨC CỦA ĐIỀU DƯỠNG LÂM SÀNG VỀ CHĂM SÓC TƯ THẾ VÀ VẬN ĐỘNG SỚM CHO NGƯỜI BỆNH ĐỘT QUỴ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH 1Ngô Huy Hoàng, 1Phạm Thị Thu Hương 2Hoàng Thị Kim Yến, 2Vũ Thị Phương, 2Phạm Thị Huê 1Trường đại học Điều dưỡng Nam Định, 2Bệnh viên đa khoa tỉnh Nam Định TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát thực trạng và đánh giá thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm Người chịu trách nhiệm: Ngô Huy Hoàng Email: ngohoang64@gmail.com Ngày phản biện: 20/01/2018 Ngày duyệt bài: 22/02/2018 Ngày xuất bản: 14/03/2018 cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp giáo dục. Phương pháp: Can thiệp giáo dục một nhóm có so sánh trước sau cho 45 điều dưỡng lâm sàng trực tiếp chăm sóc người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định. Nội dung can thiệp dựa trên khuyến cáo của Bộ Y tế về tiêu chuẩn chất lượng xử trí đột quỵ não. Sử dụng cùng phiếu hỏi tự điền để đánh giá nhận thức của điều dưỡng tại các thời điểm trước can thiệp, ngay sau can thiệp và sau can 21 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01 thiệp 30 ngày. Kết quả: Nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ trước can thiệp thấp, đạt 7 ± 2,14 điểm trên tổng 20 điểm và được cải thiện rõ rệt với 16,62 ± 1,81 điểm ngay sau can thiệp và duy trì ở 15,13 ± 3,34 điểm sau can thiệp 30 ngày (p < 0,001). Trước can thiệp, tỷ lệ điều dưỡng nhận thức được đầy đủ các biến chứng có thể xảy ra sau đột quỵ do kém vận động là 0%, tư thế của người bệnh phù hợp với tình trạng người bệnh là 2,2%, thời điểm để vận động sớm là 0% và qui trình vận động sớm cho người bệnh là 55,5%. Các tỷ lệ này đều tăng ở các thời điểm ngay sau can thiệp và sau can thiệp 30 ngày, theo trình tự là 8,9% và 24,4%; 44% và 40%; 53,3% và 37,8%; 100% và 95,5%. Kết luận: Nhận thức của điều dưỡng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ trước can thiệp còn thấp và được cải thiện đáng kể sau can thiệp giáo dục. Nghiên cứu cho thấy sự cần thiết của can thiệp giáo dục phù hợp về nội dung, hình thức và đối tượng tham gia cho mỗi cho lĩnh vực chăm sóc cụ thể. Từ khóa: vận động sớm, đột quỵ. CHANGES IN THE AWEARNESS OF CLINICAL REGISTERED NURSES OF POSITIONING AND EARLY MOBILIZATION CARE FOR STROKE PATIENTS IN NAM DINH GENERAL HOSPITAL ABTRACT Objective: To asssess the awearness of clinical registered nurses of positioning and early mobilization care for patients with stroke before and after the educational in- tervention. Method: Based on the quality criteria guideline by Ministry of Health 2014 for caring stroke patients, the one group pre- test and post-test educational intervention was conducted among 45 clinical registered nurses in Nam Dinh general hospital. Using the same self-completed questionnaire to measure nurses’ knowledge before, right af- ter the completion of the intervention and 30 days later. Result: The mean score of nurs- es’ awareness of positioning and early mo- bilization care for patients with stroke was 7 ± 2,14 of the total 20 points before the inter- vention, then went up to 16,62 ± 1,81 points right after the completion of the intervention and remained at 15,13 ± 3,34 points at the time of 30 days later (p values of 0.001). The percentages of clinical nurses perceived ad- equately the complications caused by poor positioning and early mobilization care; pa- tients’ positions in accordance with specific stroke conditions; the time and required clin- ical signs and symptoms allowing a nurses to begin mobilization care for a stroke pa- tient; and the right process of early mobi- lization before the intervention were 0%, 2.2%, 0%, and 55,5%. These percentages increased immediately after the intervention and retained at high levels at 30 days later, equal to 8.9% and 24.4%, 44% and 40%, 53.3% and 37.8%, 100% and 95.5%, re- spectively. Conclusion: The awareness ... ớm cho người bệnh đột quỵ tại các thời điểm trước can thiệp (T1), ngay sau can thiệp (T2) và 30 ngày sau can thiệp (T3) được thể hiện trong các bảng và Hình dưới đây. Bảng 2. Tỷ lệ điều dưỡng nhận thức được các biến chứng do kém vận động Biến chứng T1 T2 T3 Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 1. Loét ép 39 86,7 44 97,8 45 100,0 2. Nhiễm khuẩn hô hấp 33 73,3 45 100,0 42 93,3 3. Cứng khớp 27 60,0 45 100,0 41 91,9 4. Teo cơ 26 57,8 44 97,0 42 93,3 5. Nhiễm khuẩn tiết niệu 9 20,0 44 97,0 40 88,9 6. Giảm tầm vận động 6 13,3 40 88,9 27 60,0 7. Phù nề 1 2,2 37 82,2 38 84,4 8. Tắc mạch phổi 1 2,2 31 68,9 28 62,2 9. Giảm bão hòa ô xy máu 0 0,0 27 60,0 26 57,8 10. Giảm huyết áp tư thế đứng 0 0,0 19 42,2 18 40,0 11. Táo bón 0 0,0 42 93,3 40 88,9 12. Các vấn đề về tâm lý 0 0,0 22 48,9 16 35,6 Đúng cả 12 biến chứng 0 0,0 4 8,9 11 24,4 Trước can thiệp, 4 biến chứng gồm loét ép, nhiễm khuẩn hô hấp, cứng khớp và teo cơ được nhận thức đúng với các tỷ lệ cao theo thứ tự là 86,7%; 73,3%; 60% và 57,8%. Tuy nhiên, không có điều dưỡng nào nhận thức đầy đủ 12 biến chứng. Sau can thiệp tỷ lệ nhận thức đúng các biến chứng đều cao hơn so với trước can thiệp và có 4 và 11 điều dưỡng nhận thức được đầy đủ 12 biến chứng ngay sau can thiệp và sau can thiệp 30 ngày. Trước can thiệp, đa số điều dưỡng (86,7%; 88,9% và 97,8%) nhận thức được các tư thế phù hợp với tình trạng người bệnh, nhưng hầu hết không giải thích được tác dụng của hai tư thế đầu và chỉ có một người trả lời và giải thích đúng cả ba chăm sóc tư thế. Sau can thiệp, tại 2 thời điểm đánh giá, tỷ lệ nhận thức đúng cho các chăm sóc tư thế đều cao hơn so với trước can thiệp (Bảng 3). 24 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01 Bảng 3. Tỷ lệ điều dưỡng xác định được các tư thế chăm sóc phù hợp (n = 45) Tư thế cho người bệnh T1 T2 T3 Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 1. Nằm phẳng khi KHÔNG biểu hiện tăng áp lực nội sọ 39 86,7 44 97,8 42 93,3 Tác dụng: Tạo thuận lợi cho tưới máu và ô xy tới não 1 2,2 31 68,9 22 48,9 2. Nằm đầu cao từ 20 đến 30 độ khi CÓ biểu hiện tăng áp lực nội sọ 40 88,9 45 100 43 95,6 Tác dụng: Cải thiện dẫn lưu tuần hoàn não giúp giảm áp lực nội sọ 2 4,4 30 66,7 22 48,9 3. Thay đổi vị trí cơ thể tiếp xúc với giường bệnh mỗi 2 giờ 44 97,8 45 100 45 100,0 Tác dụng: Tránh đè ép quá lâu ngăn ngừa biến chứng loét ép 22 48,9 44 97,8 44 97,8 Trả lời và giải thích đúng cả 3 tư thế 1 2,2 20 44,4 18 40,0 Thời điểm phù hợp để có thể bắt đầu vận động sớm cho người bệnh là khi tình trạng lâm sàng của người bệnh cho phép với các điều kiện gồm ý thức tỉnh, huyết áp tâm thu ổn định và phải ≥ 120mmHg, mạch ổn định và trong khoảng 60 - 100 lần/phút, không xuất hiện thêm tổn thương thần kinh. Kết quả đánh giá nội dung này được thể hiện ở Hình 1. 53,3% 37,8% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% T1 T2 T3 Đúng Sai 55,5% 100% 95,5% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% T1 T2 T3 Đúng SaiHình 1. Tỷ lệ điều dưỡng xác định được thời điểm cho người bệnh vận động Trước can thiệp, không ai xác định đầy đủ các điều kiện để có thể bắt đầu vận động sớm cho người bệnh. Sau can thiệp, có 53,3% điều dưỡng đã nhận thức được nội dung này và còn 37,8% sau can thiệp 30 ngày. Khi tình trạng người bệnh cho phép để vận động sớm, các vận động cho người bệnh phải theo trình tự đảm bảo cho người bệnh thích ứng và phục hồi, bao gồm: hỗ trợ ngồi tại giường bệnh, hỗ trợ ngồi ngoài giường bệnh, di chuyển chỗ bằng phương tiện, lăn nghiêng để ngồi dậy, ngồi không cần hỗ trợ, và hỗ trợ di chuyển bằng chân trên sàn nhà. Kết quả đánh giá nội dung nhạn thức này của điều dưỡng được thể hiện trong Hình 2. Trước can thiệp, có 25 điều dưỡng (55,5%) nhận thức đúng qui trình vận động sớm cho người bệnh. Ngay sau can thiệp và 30 ngày sau can thiệp số điều dưỡng nhận thức đúng về qui trình này theo thứ tự là 45 người (100%) và 43 người (95,5%). 25 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01 Hình 2. Tỷ lệ điều dưỡng xác định đúng qui trình vận động sớm (n = 45) 53,3% 37,8% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% T1 T2 T3 Đúng Sai 55,5% 100% 95,5% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% T1 T2 T3 Đúng Sai 4. BÀN LUẬN Trong tổng số 45 điều dưỡng, nữ điều dưỡng chiếm đa số (40 người), phù hợp với thực tế về nghề nghiệp điều dưỡng là nữ chiếm đa số. Với tuổi trung bình là 33 ± 8,7 tuổi và hầu hết có thời gian trực tiếp làm công tác chăm sóc người bệnh đột quỵ trên 1 năm, có thể thấy các điều dưỡng tham gia nghiên cứu đã có một khoảng thời gian đủ lâu để trải nghiệm với thực tiễn chăm sóc người bệnh đột quỵ. Tuy không có nghiên cứu tương tự để so sánh nhưng kết quả ở Bảng 1 cho thấy, trước can thiệp, nhận thức về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ của điều dưỡng đạt 7 ± 2,14 điểm trên tổng 20 điểm là khá thấp. Mặc dù, tuổi đời và thời gian có trực tiếp chăm sóc người bệnh đột quỵ khá lâu, nhưng những yếu tố này là chưa đủ cho điều dưỡng và cần có những tác động cụ thể và trọng tâm vào chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ. Xét trên phương diện thời gian, trong khi khuyến cáo về vận động sớm cho người bệnh đột quỵ có thời điểm ban hành là ngày 15/7/2014 [1], nhận thức thấp trước can thiệp cho thấy tồn tại một khoảng cách lớn từ văn bản hướng dẫn đến thực tiễn chăm sóc. Sau can thiệp, có sự tăng điểm đáng kể lên tới 16,62 ± 1,81 điểm và còn duy trì ở 15,13 ± 3,34 điểm. Khả năng nhớ và lưu giữ kiến thức được chứng minh là giảm dần theo thời gian [6], thông thường người học nhớ được 75% những gì đã học vào lúc kết thúc việc học và lưu giữ được không quá 10% ở 30 ngày sau, nghĩa là hơn 90% những gì đã học sẽ bị quên đi sau 30 ngày. Mặt khác, khả năng lưu giữ kiến thức phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó phương pháp học có vai trò quan trọng, người học có thể nhớ được 75% kiến thức đã học nếu kiến thức được áp dụng vào thực hành và nhớ được 90% nếu kiến thức đó được dạy lại cho người khác [6]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nếu xem mức chênh điểm ngay sau can thiệp (T2- T1≈16-7≈9 điểm) tương đương với 100% kiến thức đã học được của điều dưỡng, thì ở thời điểm 30 ngày sau khi can thiệp kết thúc, với mức lưu giữ kiến thức (T3-T1≈15- 7≈8 điểm) tương đương với 88,9% kiến thức được người điều dưỡng lưu giữ thì đây là một kết quả vượt xa so với mong đợi. Kết quả này có thể do kiến thức trong can thiệp giáo dục của nghiên cứu khá cô đọng, có liên quan trực tiếp đến hoạt động chăm sóc của người điều dưỡng và có thể đã được người điều dưỡng áp dụng luôn vào chăm sóc người bệnh đột quỵ. Hiển nhiên cần có thêm nghiên cứu để khẳng định, song kết quả cải thiện nhận thức của điều dưỡng trong nghiên cứu có giá trị thực tiễn hơn là ý nghĩa thống kê, góp phần chứng minh cho sự phù hợp về nội dung, phương pháp, đối tượng cũng như khả năng áp dụng vào thực tiễn chăm sóc [3]. 26 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01 Các biến chứng do kém thay đổi tư thế và vận động phục hồi chức năng sớm cho người bệnh đột quỵ đã được chứng minh bởi nhiều nghiên cứu [4], [7], [8]. Nhận thức đầy đủ các biến chứng có thể xảy ra cho người bệnh sẽ giúp người điều dưỡng ý thức được tầm quan trọng và chủ động hơn trong các hoạt động chăm sóc để phòng ngừa và hạn chế tối đa các biến chứng cho người bệnh [11]. Trước can thiệp, nhiều điều dưỡng đã nhận thức được các biến chứng như loét ép, nhiễm khuẩn hô hấp, cứng khớp và teo cơ, theo thứ tự là 86,7%; 73,3%, 60% và 57,8%. Tuy chưa có thống kê cụ thể tại địa bàn nghiên cứu, song có thể do đây là những biến chứng mà người điều dưỡng thường phải đối mặt trong chăm sóc người bệnh đột quỵ. Các biến chứng còn lại như các vấn đề về tâm lý; giảm huyết áp tư thế đứng; giảm bão hòa ô xy máu; táo bón; tắc mạch phổi; phù nề hầu như không được điều dưỡng nhận biết, có thể đây là những biến chứng ít gặp hơn tại địa bàn nghiên cứu hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Lý do này được củng cố bởi sau can thiệp 30 ngày những biến chứng được nhận thức với tỷ lệ cao trước can thiệp thì được duy trì với tỷ lệ cao và ngược lại. Trước can thiệp, từ chỗ không có người nào nhận thức được đầy đủ 12 biến chứng thì ngay sau can thiệp, con số này là 4 người và lên tới 11 người ở 30 ngày sau can thiệp. Sự cải thiện này cũng có giá trị thực tiễn hơn là ý nghĩa thống kê, bởi lẽ thêm một điều dưỡng nhận thức tốt thì nhiều người bệnh do điều dưỡng chăm sóc sẽ nhận được những chăm sóc tốt hơn. Nhận thức được tác dụng của tư thế người bệnh phải phù hợp với tình trạng người bệnh trong giai đoạn cấp của đột quỵ đóng vai trò quan trọng trong củng cố hành vi chăm sóc đúng đắn của điều dưỡng cho người bệnh [9]. Trước can thiệp, mặc dù gặp khó khăn trong giải thích tác dụng, song đa số điều dưỡng nhận thức đúng về tư thế người bệnh theo tình trạng có hay không có phù não và 44 trên 45 người nhận thức được phải thay đổi tư thế cho người bệnh 2 giờ/1 lần. Đây là những con số tích cực cho thấy thực hành chăm sóc người bệnh của điều dưỡng tại địa bàn nghiên cứu đã hướng tới chuẩn mực. Với tỷ lệ điều dưỡng giải thích được tác dụng của các tư thế không cao, xét trên khía cạnh chăm sóc dựa trên năng lực, cho thấy sự cần thiết của đào tạo liên tục đối với những lĩnh vực chăm sóc cụ thể. Trong những giờ đầu của đột quỵ, do yêu cầu của chẩn đoán và điều trị từ bác sỹ, người bệnh phải nằm bất động và đây là một chỉ định điều trị được chấp nhận. Tuy nhiên, việc bắt đầu vận động sớm cho người bệnh thường bị hạn chế, ngoài việc do yêu cầu của bác sỹ từ lúc ban đầu, còn do sự e ngại từ phía người bệnh và người nhà, và từ chính nhận thức của người điều dưỡng trực tiếp chăm sóc người bệnh [5]. Đây có lẽ chính là lý do cho kết quả trước can thiệp không có điều dưỡng nào nhận thức được khi nào thì có thể cho người bệnh vận động. Cải thiện nhận thức của điều dưỡng về nội dung này sẽ có giá trị thực tiễn lớn và ngay sau can thiệp hơn một nửa số điều dưỡng (53,3%) đã nhận thức được nội dung này. Sau 30 ngày tỷ lệ này giảm đi và còn 37,8% cho thấy đây vẫn là một nội dung nhận thức khó khăn và cần thường xuyên được củng cố. Nhận thức đúng về qui trình vận động sớm có kết quả khả quan, ngay từ trước can thiệp đã có tới 55,5% điều dưỡng nhận thức đúng, ngay sau can thiệp tỷ lệ này là 100% và sau can thiệp 30 ngày tỷ lệ này vẫn giữ được ở mức rất cao tới 95,5%. Kết quả này có thể do hoạt động chăm sóc điều dưỡng thường gắn với các qui trình giúp họ dễ dàng tiếp thu, và có thể qui trình đã được điều dưỡng áp dụng vào chăm sóc nên duy trì với tỷ lệ cao sau 30 ngày. Tuy nhiên, cần có đánh giá khách quan để khẳng định. 5. KẾT LUẬN Nhận thức về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ của điều dưỡng tham gia nghiên cứu trước can thiệp giáo dục thấp, chỉ đạt 7 ± 2,14 trên tổng số 27 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01 20 điểm. Can thiệp đã cải thiện đáng kể nhận thức của điều dưỡng với 16,62 ± 1,81 điểm ngay sau can thiệp và duy trì ở 15,13 ± 3,34 điểm sau can thiệp 30 ngày. Tỷ lệ điều dưỡng nhận thức đúng mỗi nội dung kiến thức cũng tăng sau can thiệp và còn duy trì ở mức cao sau can thiệp 30 ngày. Tuy nhiên, nhận thức về thời điểm có thể vận động sớm cho người bệnh vẫn còn hạn chế và cần được củng cố. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần thiết của việc củng cố và cập nhật kiến thức có trọng tâm cho những lĩnh vực chăm sóc riêng biệt và cần có thêm nghiên cứu để đảm bảo rằng kiến thức được áp dụng vào thực tiễn chăm sóc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2014). Tiêu chuẩn chất lượng về xử trí đột quỵ não áp dụng thí điểm trong bệnh viện ở Việt Nam. Quyết định số 86/ QĐ-KCB ngày 15/7/2014, Cục Quản lý Khám, Chữa bệnh 2. Lê Văn Thính và cộng sự (2008). Tình hình và thực trạng chăm sóc đột quỵ trong các bệnh viện đa khoa từ tuyến tỉnh trở lên ở Việt Nam. Truy cập ngày 02/03/2017 3. Ngô Huy Hoàng (2015). Nâng cao nhận thức và khả năng thực hành sử dụng hợp lý kháng sinh của cán bộ y tế tuyến xã tỉnh Nam Định. Tạp chí Y học cộng đồng. Số 23 tháng 09/2015, trang: 47-53 4. Askim T et al (2012) Stroke patients do not need to be inactive in the first two weeks after a stroke: results from a stroke unit fo- cused on early rehabilitation. International Journal of Stroke; 7:1,25-31 5. Bernahardt J et al (2007). Little thera- py, little physical activity: rehabilitation with- in the first 14 days of organised stroke unit care. J Rehabil Med 2007; 39: 43-48 6. Kåre Letrud (2012). A rebuttal of NTL Institute’s learning pyramid. Education Vol. 133 No. 1 January 2012, pp. 117-124 7. Keating M el al. (2012) Positioning and early mobilization in stroke. Nursing Times; Vol 108, No 47, pp. 16-18 8. Kilbride C and Kneafsey R. (2010) Management of physical impairments post stroke: In William J et al (eds). Acute Stroke Nursing. Oxford: Wiley Blackwell 9. Muñoz-Venturelli et al (2015). Head Position in Stroke Trial (Head Post)-sit- ting up vs lying-flat positioning of patients with acute stroke: study protocol for a cluster randomized controlled trial. Trials 16:256doi.10.1186/s13063-015-0767-1 10. Ngo Huy Hoang (2016). The devel- opment of a conceptual framework and model for information, education and com- munication (IEC) to reduce antibiotic misuse among the Vietnamese population in Nam Dinh province. Hanoi: Vietnam National Uni- versity Press 11. Royal College of Physicians (2016). National clinical guideline for stroke. Pre- pared by the Intercollegiate Stroke Working Party. Fifth edition 2016. NICE accredited 12. World Health Organization (2008), World Health Statistics 2008. Geneva, Swit- zerland, WHO, 2008
File đính kèm:
- thay_doi_nhan_thuc_cua_dieu_duong_lam_sang_ve_cham_soc_tu_th.pdf